Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Hiệu quả Hall và vài suy nghĩ về tính sáng tạo của sinh viên đại học pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 110 trang )

Hiệu ứng Hall và vài suy nghĩ về tính sáng tạo của sinh viên Ðại
học
Ở đại học việc tự học của sinh viên đóng vai trò rất quan trọng. Một trong những nguồn
kích thích sự tự học chính là việc nghiên cứu khoa học. Không đâu xa, ngay trong chính
những kiến thức chúng ta học hàng ngày vẫn còn vô số những điều cần tư duy, cần sự
nghiên cứu. Thực tế không ít những giải thương Nobel bắt nguồn từ những câu hỏi “ngớ
ngẫn” của sinh viên. Bài viết sau được phỏng dịch một phần của bài báo “ A Topological
Look at the Quantum Hall Effect” đăng trên tạp chí Physics Today – August 2003. Hiệu
ứng này các bạn được học trong môn “Nhập môn vật lý chât rắn” và chắc các bạn không
ngờ là nó được tìm ra bởi cậu sinh viên Hall, và giải thưởng Nobel năm 1985 đã trao cho
hiệu ứng Hall lượng tử ….
Câu chuyện về hiệu ứng Hall bắt đầu từ một sai lầm của James Clerk Maxwell (1831-
1879) Trong cuốn “Luận về thuyết Điện từ” xuất bản lần đầu tiên năm 1873, Maxwell đã
thảo luận về sự thay đổi dòng điện dưới tác dụng của từ trường. Trong đó ông cho rằng:
“Cần đặc biệt lưu ý rằng lực (gây ra bởi điện trường) đặt lên dây dẫn sẽ không tác dụng
trực tiếp lên dòng điện mà tác động lên dây dẫn mang dòng điện đó.”
Năm 1878, Edwin Herbert Hall (1855 - 1938), một sinh viên của trường ĐH Johns
Hopkins, đọc quyển sách trên trong một khóa học do giáo sư Henry Rowland (1848-
1901) dạy. Hall hỏi ý kiến Rowland về nhận xét của Maxwell. Vị giáo sư này trả lời rằng
ông “nghi ngờ tính xác thực của kết luận đó của Maxwell và ông cũng đã từng vội vã tiến
hành một thí nghiệm kiểm chứng… và đã không thành công.”
Hall quyết định tiến hành một cuộc thí nghiệm khác theo cách khác nhằm đo lường từ trở
(magneto-resistance), có nghĩa là đo sự thay đổi của điện trở theo từ trường đặt vào. Như
ngày nay chúng ta đã biết, đó là một cuộc thí nghiệm phức tạp hơn thí nghiệm của giáo
sư Rowland nhiều, và cũng đã thất bại. Có vẻ như khẳng định của Maxwell là đúng. Tuy
nhiên, sau đó Hall quyết định làm lại thí nghiệm của Rowland. Theo sự chỉ dẫn của người
thầy giàu kinh nghiệm này, Hall thay thế dây dẫn kim loại ban đầu bằng một lá vàng
mỏng. Việc này đã bù lại cho một thiếu sót của thí nghiệm Rowland. Nguyên nhân ở chổ
lúc đó chỉ có thể tạo ra từ trường yếu trong điều kiện phòng thí nghiệm. Vì vậy hiệu ứng
chỉ có thể quan sát được nếu kim loại dẫn điện rất tốt như vàng.
Và đúng như vậy, điều đó đã làm nên chuyện. Biểu đồ do Hall lập ra để khảo sát mà giờ


đây được coi là hiệu ứng Hall được trình bày ở trong bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào về
lý thuyết chất rắn Hall nhận thấy rằng trái ngược với khẳng định của Maxwell, từ trường
luôn làm thay đổi sự phân bố điện tích, và vì vậy làm lệch kim của điện kế nối với các
mặt bên của dây dẫn điện. Hiệu điện thế ngang giữa các mặt được gọi là điện thế Hall.
Độ dẫn điện Hall về bản chất chính là bằng cường độ dòng điện theo chiều dọc chia cho
điện thế ngang này.
Phát hiện này đã mang lại cho Hall một chỗ làm tại trường Harvard. Công trình của ông
được xuất bản năm 1879, năm Maxwell mất vào tuổi 48. Hai năm sau đó, sách của
Maxwell được tái bản lần hai vào năm 1881, trong đó có một chú thích lịch sự ở cuối
trang của nhà xuất bản là: “Ông Hall đã phát hiện rằng một từ trường ổn định có thể làm
thay đổi chút ít sự phân bố dòng điện trong phần lớn các dây dẫn, vì vậy tuyên bố của
Maxwell chỉ được xem như là gần đúng.”
Ở đây chúng ta thấy rằng cường độ và ngay cả dấu của điện thế Hall phụ thuộc vào tính
chất của nguyên liệu làm nên dây dẫn – lá vàng mỏng trong thí nghiệm của Hall. Điều
này đã làm cho hiệu ứng Hall trở thành một công cụ dự đoán quan trọng trong việc khảo
sát các hạt dẫn mang điện. Ví dụ như việc đưa đến lý thuyết về lỗ trống tích điện
dương như là hạt mang điện trong chất rắn. Mặc dù Maxwell đã sai lầm, ông cũng đã
khơi dậy một nghiên cứu thành công và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong vật lý.
Một thế kỷ sau, hiệu ứng Hall lại được chú ý như nguồn sinh lực cho các nghiên cứu vật
lý mới. Năm 1980, tại phòng thí nghiệm từ trường mạnh Grenoble tại Pháp, Klaus Von
Klitzing (sinh năm 1943, giải Nobel năm 1985) nghiên cứu điện dẫn Hall cho khí điện
tử hai chiều ở nhiệt độ rất thấp. Ông ta tìm thấy rằng , xét về bản chất, thì điện dẫn Hall là
hàm của cường độ từ trường vuông góc với mặt phẳng của khí điện tử và được mô tả
dưới dạng đồ thị hình bậc thang của các đoạn ngang liên tục. Với một độ chính xác hoàn
toàn bất ngờ, những giá trị liên tiếp tăng dần của điện dẫn Hall luôn là bội số nguyên của
một hằng số cơ bản tự nhiên:
e
2
/h = 1/ (25 812.807 572 Ω)
bất kể những chi tiết hình học khác nhau của thí nghiệm hay những điểm không thuần

chất của vật liệu dùng làm thí nghiệm. Klaus Von Klitzing đã đoạt giải Nobel vật lý năm
1985 vì đã khám phá ra hiệu ứng lượng tử Hall và độ chính xác của hiệu ứng này đã cung
cấp cho các nhà đo lường học một chuẩn cao cấp cho đơn vị điện trở.
Hiệu ứng Hall lượng tử cũng dẫn đến một phương pháp đo lường trực tiếp hằng số cấu
trúc tinh tế e
2
/hc với độ chính xác hiển nhiên cho ra giá trị 1/137.0360. 0300(270).
Phương pháp khác dựa trên việc đo moment từ dị thường của điện tử thực sự cho hằng
số cấu trúc tinh tế một kết quả chính xác hơn. Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi một nỗ
lực tính toán khổng lồ - gồm hơn 1,000 giản đồ Feynman (Richard P. Feynman ([1918-
1988], Nobel Vật lý năm 1965) và việc mắc sai lầm khi tính toán rất dễ xảy ra.
Làm sao chúng ta có thể giải thích được độ chính xác đáng kinh ngạc của sự lượng tử hóa
trong hiệu ứng Hall lượng tử khi mà độ chính xác này không phụ thuộc vào ngẫu nhiên
của vật liệu thí nghiệm ? Ở đây rõ ràng một điều là các mẫu vật khác nhau có các tạp
chất khác nhau, cấu trúc hình học khác nhau và mật độ điện tử khác nhau. Một trong
những tiến bộ về mặt lý thuyết phát sinh từ câu hỏi này là việc phát hiện ra rằng điện dẫn
Hall khi ở trạng thái bình ổn có liên quan đến tính chất tôpô của không gian Hiện nay
người ta đã tìm ra mối liên hệ giữa hiệu ứng Hall lương tử với bất biến tôpô đặc trưng
bằng các số Chern.
Các bạn muốn hiểu sâu hơn về vấn đề này có thể đọc tiếp bài báo trên tạp chí Physics
Today. Ở đây người viết chỉ muốn đế cập đến lịch sử tìm ra hiệu ứng để thấy rằng sinh
viên có thể làm được nhiều điều ngoài việc giải các bài tập ở lớp. Xin kết thúc bài viết
này bằng một câu chuyện vui về sinh viên
Một lần nọ ở cuộc thi vấn đáp cậu sinh viên nhận được câu hỏi: Hãy chỉ ra phương pháp
dùng phong vũ biểu để đo chiều cao của một cao ốc. Tất nhiên ở đây giáo sư muốn sinh
viên nhớ đến sự liên hệ giữa áp suất khí quyển với chiều cao. Đo áp suất suy ra được
chiều cao. Tuy nhiên câu trả lới của sinh vịên như sau : Ta lấy sợi dây chỉ , đem buộc vào
phong vũ biểu sau đó đứng trên cao ốc thả xuống dưới, đo chiều dài sợi dây sẽ biết được
chiều cao. Vị giáo sư : cần đưa ra cách đo có áp dụng tính chất vật lý. Sinh viên tra lời :
Ta ném cái phong vũ biểu tứ trên cao ốc xuông đất. Dùng đồng hồ bấm giây đo thời gian

chạm đất ta tim được
h = 1/2 gt²
Giáo sư: cần có phương pháp sử dụng tính chất của phong vũ biểu.
Sinh viên : ta co thể sử dụng chiều cao của phong vũ biểu bằng cách dựng đứng phong vũ
biểu. Đo bóng của phong vũ biểu và bóng của cao ốc do mặt trới chiếu xuống. Biết chiều
cao của phong vũ biểu ta suy ra chiều cao của cao ốc. Cuộc đối đáp còn kéo dài và cậu
sinh viên đưa ra trên mười cách đo khác nhau. Cuối cùng không chịu nổi, vị giáo sư nói :
cần đưa ra cách đơn giản nhất và sử dụng trực tiếp cái phong vũ biểu. Sinh viên : nếu thế
thi mình đem cái phong vũ biểu này biếu cho người quản lý cao ốc và nhờ anh ta cho
xem bản thiết kế chắc chắn sẽ có câu trả lời chính xác. ….
Cậu sinh viên đó sau này trở thành nhà vật lý vĩ đại, nếu tác giả không nhầm thì đó chính
là Niels Bohr, được giải Nobel Vật lý năm 1922 và câu chuyện do Ernest Rutherford
(1871-1937) kể. Rutherford với thí nghiệm lừng danh bắn phá nguyên tử lá vàng bằng
chùm hạt alpha và đã tìm ra cấu trúc nguyên tử nên đã được giải Nobel Hóa học năm
1910.

Kết luận : hãy sáng tạo ngay khi còn là sinh viên

Lê Văn Hoàng
Tiến Sỹ Khoa Học
ĐH Sư phạm Tp. HCM, khoa Vật lý
Email:
Sáng tạo là gì?
Bài 1:
Là dám nghĩ khác và dám làm khác. Vậy thôi!
1. Ðùa với não bạn một chút!

Bạn hãy trả lời trước khi nhìn giải đáp: "Jack được trả 5 đôla cho một lần cưa khúc gỗ ra
làm đôi. Vậy Jack được trả bao nhiêu tiền để cưa khúc gỗ ra làm bốn?".


"Có 2 người ngồi trước cửa siêu thị và chơi cờ tướng. Họ chơi 5 ván. Mỗi người đều
thắng 3 ván. Sao lại thế?".

Ðây là giải đáp:

Câu 1: 15 đôla, vì để cưa khúc gỗ ra làm đôi thì chỉ cần một lần cưa, nhưng để cưa một
khúc gỗ ra làm 4 thì cần 3 lần.

Câu 2: Bởi vì 2 người này chơi với 2 người khác nhau.

Ðây là 2 trong số nhiều câu "đố mẹo" đơn giản nhất. Chúng đánh lừa não bạn vì não bạn
có xu hướng suy nghĩ theo kiểu "mặc định": 2 người chơi cờ thì "mặc định" là họ chơi
với nhau, cưa khúc gỗ làm đôi được 5 đôla thì cưa làm 4 (2x2) thì "mặc định" là được trả
5x2=10 đôla Trong khi đề bài không hề có những dữ kiện như vậy. Tại sao bạn lại
"mặc định" như thế? Ðó chính là sức ỳ tâm lý làm cho não bạn bị mắc lừa ở những câu
đố đòi hỏi nghĩ sáng tạo.

Nghĩ sáng tạo là nhìn một vấn đề, một câu hỏi theo những cách khác với thông thường.
Tức là nhìn mọi thứ từ các góc độ, tầm nhìn khác nhau, "nhìn" theo những cách không bị
hạn chế bởi thói quen, bởi phong tục, bởi tiêu chuẩn


2. Nghĩ sáng tạo xa hơn

Những câu chuyện về nghĩ sáng tạo không phải chờ đến thời kỹ thuật hiện đại. Từ những
năm 1400, Nữ hoàng Isabella của Tây Ban Nha có lần yêu cầu mọi người tìm cách để quả
trứng đứng thẳng trên một đầu của nó, mà không được dùng cái đế gì kê ở dưới.

Tất cả các vị quan trong triều đình đều vò đầu bứt tóc chịu thua. Nhưng rồi một thuỷ thủ
trẻ bước đến, đập vỡ một đầu của quả trứng và dựng nó lên bằng đầu đó. Tất nhiên, ruột

trứng chảy hết ra và các quan thì vô cùng tức giận. Nhưng Nữ hoàng thì không. Nữ hoàng
chưa bao giờ nói rằng không được đập vỡ trứng, còn các quan đã nghĩ "mặc định" là như
thế.

Và Christopher Columbus - một thuỷ thủ - bằng cách nghĩ ra bên ngoài chiếc hộp (lần
này có lẽ là bên ngoài cái vỏ trứng!), đã giải quyết được vấn đề. Ông được Nữ hoàng
cung cấp tàu và tiền để bắt đầu chuyến phiêu lưu của mình.

Thực ra, đây là một ví dụ rõ ràng về một con người không chấp nhận bị giới hạn bởi
những suy nghĩ thông thường. Columbus lên tàu đi vòng quanh thế giới, trong khi tất cả
mọi người lúc đó còn khẳng định là thế nào rồi ông cũng đi đến "rìa" thế giới và rơi tõm
ra ngoài.

3. Ứng dụng của nghĩ sáng tạo

Nếu sức ỳ tâm lý của bạn vẫn còn lớn, e rằng đến bây giờ bạn lại "mặc định" rằng vậy ra
"nghĩ sáng tạo", nói vòng vo mãi, cuối cùng cũng chỉ để giải các câu đố!!!

Bạn hãy nghe câu chuyện này. Có 2 người làm bánh quế, với chất lượng và giá cả như
nhau. Khi mọi người chán ăn bánh quế và không mua nữa, một người bán chẳng biết làm
sao và bỏ nghề. Trong khi đó, người còn lại đã "thiết kế" bánh quế kiểu mới bằng cách
cuộn tròn nó lại theo hình nón và tạo ra một sản phẩm mới hoàn toàn: ốc quế cho kem.

Như vậy, người bán hàng thứ nhất đã không thể đi tiếp được, còn người thứ hai đã
chuyển dịch ra ngoài giới hạn và những mặc định thông thường.

Nếu không có sự "nghĩ sáng tạo" của người thứ hai, hẳn bây giờ chúng ta vẫn chỉ biết ăn
kem que hoặc dùng thìa múc từ cốc (hoặc nếu không có ai nghĩ sáng tạo từ ban đầu thì có
thể chúng ta thậm chí còn chẳng có kem mà ăn!).


Khả năng nghĩ sáng tạo càng trở nên cực kỳ quan trọng trong thế giới kinh doanh thay
đổi nhanh chóng như hiện nay.

4. Những phẩm chất của một người nghĩ sáng tạo

- Ðộc lập.
- Tự tin.
- Chấp nhận rủi ro.
- Nhiều năng lượng.
- Nồng nhiệt.
- Không gò bó.
- Thích phiêu lưu.
- Tò mò, hiếu kỳ.
- Nhiều sở thích.
- Hài hước.
- Trẻ con, hiếu động.
- Biết nghi ngờ.

Thực tế cuộc sống không phải là một cái hộp, nên bạn đừng tự tạo ra rồi chui vào đó!

5. Bạn có thể học để nghĩ sáng tạo

Ai trong chúng ta cũng có sự sáng tạo, và tin tốt là nếu bạn thấy mình "chưa" (chứ không
phải là "không") sáng tạo, bạn có thể học. Công việc càng khó thì não bạn hoạt động càng
tích cực. Theo nghiên cứu thì đến thiên tài cũng mới sử dụng có 15% hiệu suất não của
mình! Cho nên, học nghĩ sáng tạo để não bạn đi xa hơn là hoàn toàn có thể. Thậm chí, có
rất nhiều gợi ý cho cách học nghĩ sáng tạo.

a. Phương pháp SAEDI - "SAEDI"


không phải là từ gì quái dị, nó là từ "IDEAS" viết lộn ngược. Ðôi khi, nghĩ sáng tạo chỉ
cần bạn nhìn mọi thứ theo chiều khác đi.

S = State of mind (cách suy nghĩ): Tự nói rằng "Tôi chẳng sáng tạo chút nào" hoặc "Tôi
chẳng bao giờ có ý tưởng gì hay ho đâu" sẽ huỷ hoại sức sáng tạo của bạn. Nghĩ sáng tạo
đòi hỏi nghĩ tích cực.

A = Atmosphere (không khí). Có những người thích ở nơi đông người mới nghĩ ra nhiều
thứ. Có những người lại phải ngồi một mình yên tĩnh mới sáng suốt được. Bạn hãy tạo
cho căn phòng mình có không khí tuỳ theo sở thích. Nếu bạn có nhiều ý tưởng khi đang
đi, hãy chăm đi dạo ở công viên, bờ hồ Trang trí phòng bạn bằng những bức ảnh, ánh
sáng mà bạn thích.

E = Effective thinking (Nghĩ hiệu quả). Nghĩ hiệu quả tức là hướng suy nghĩ của bạn đến
những mục đích cụ thể. Không có mục đích thì bạn sẽ làm rối hết mọi việc lên.

D = Determination (Quyết tâm). Sự sáng tạo đòi hỏi có luyện tập. Bạn nên tạo thói quen
tưởng tượng. Những ý tưởng ban đầu của bạn có vẻ hết sức buồn cười và không ai chấp
nhận, nhưng đừng bỏ cuộc.

I = Ink (viết). Khi bạn nhìn vào những thứ bạn viết ra, bạn sẽ có nhiều ý tưởng hơn là chỉ
nghĩ đến nó.

b. TILS:

T = Think it: Suy nghĩ.
I = Ink it: Viết ra.
L = Link it: Nối, liên tưởng.
S = Sync it: Ðồng nhất.


6. Luyện tập

Có những bài tập suy nghĩ sáng tạo mà bạn có thể thử:

- Nếu bạn cần giao tiếp nhưng bạn không thể sử dụng từ ngữ, dù viết hay nói, thì bạn làm
cách nào? Một người đã đưa ra những ý sau: ngôn ngữ cử chỉ, dùng trống, dùng đồ vật,
dùng đèn nhấp nháy, vẽ

- Bạn hãy đặt ra những câu hỏi cho những đồ vật thường ngày, ví dụ: "nếu thang máy
không chỉ đi lên và xuống mà còn từ đầu này sang đầu kia thì sẽ thế nào?", "nếu mỗi cơ
quan yêu cầu mỗi ngày mỗi người phải cười ít nhất 30 phút thì sao?"

- Vấn đề của một công ty bán khoai tây chiên: khoai tây chiên thường rất dễ vỡ vụn khi
đóng gói, vận chuyển , vậy làm thế nào? Bạn có thể bắt đầu bằng việc nghĩ ra cách đóng
gói và vận chuyển mà không làm khoai tây bị vỡ. Sau đó, suy luận: về bản chất thì cái gì
giống miếng khoai tây chiên, chúng có dễ vỡ không?

- Một cuốn sổ tay thì bạn có thể sáng tạo theo cách nào? "Sức ỳ tâm lý" rất dễ làm cho đa
số mọi người nghĩ rằng "sổ tay thì còn gì để sáng tạo nữa!". Nó rõ ràng đến phát bực
mình! Nhưng vẫn có những ý tưởng của những người không chịu thua: Sổ tay đổi màu;
Sổ biết đọc những thứ mình viết lên; Sổ sửa lỗi chính tả; Sổ hình tròn; Sổ có thể dán giấy
lên mà không cần hồ dán; Sổ có thể dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh

7. Kết

Có một người cha giàu có với 3 người con trai. Ông muốn trao lại tài sản cho người con
thông minh nhất. Thế là ông nghĩ ra một cách: đưa cho mỗi người một khoản tiền nhỏ và
bảo những người con hãy mua thứ gì có thể làm đầy được nhà kho, càng đầy càng tốt.

Ba người con cầm tiền và đi tìm thứ vừa rẻ vừa dễ làm đầy nhà kho. Người con cả nhìn

thấy một cái cây rất to trên đường, và nghĩ rằng cành và lá cây rất cồng kềnh, sẽ tỏa ra
được mọi ngóc ngách của phòng. Thế là anh ta mua hết cành cây và thuê người đem về
nhà.

Người con thứ hai thì mừng húm khi nhìn thấy đống cỏ khô. Cỏ vừa rẻ vừa nhẹ, lại nhỏ,
dễ dàng làm đầy nhà kho. Thế là anh ta mua hết cỏ và thuê người đem về nhà.

Người con út nghĩ đi nghĩ lại về cách làm đầy nhà kho sao cho vừa hiệu quả, vừa không
tốn kém. Cuối cùng, anh ta chỉ mua một ngọn nến. Khi thắp ngọn nến lên, cả nhà kho đầy
tràn ánh sáng. Người cha rất hài lòng và để lại tài sản cho người con út.
Hàm ý của câu chuyện này là gì? Ðể thắp sáng được ngọn nến sáng tạo bên trong mỗi
người, trước hết, đầu óc chúng ta phải đầy đã.

Minh Dung
Báo Hoa Học Trò
traitimvietnam.net

Bài 2:
Theo Bộ Lao động Mỹ, người lao động ở thế kỷ 21 cần có 13 kỹ năng, mà theo họ, kỹ
năng tư duy sáng tạo là quan trọng nhất. Vậy sáng tạo và tư duy sáng tạo đang được hiểu
như thế nào?
Sự chiến thắng của "kỹ năng số 1"
Có một chuyện vui thế này: Trong một chuyến đi dự hội nghị tin học, 3 kỹ sư của hãng
Apple và 3 kỹ sư của hãng Microsoft gặp nhau tại ga tàu. Các kỹ sư của Microsoft rất
ngạc nhiên khi các kỹ sư của Apple chỉ mua 1 vé duy nhất, làm sao họ có thể qua mắt
được đội kiểm soát vé gắt gao của tàu?
Khi người soát vé bước vào toa tàu, ba kỹ sư của Apple đồng loạt đứng lên đi vào toalet.
Hành động của họ không thoát khỏi 3 cặp mắt tò mò của các kỹ sư Microsoft. Sau khi
kiểm tra xong trong toa, người soát vé tiến về phía toalét và gõ cửa: "Cho kiểm tra vé!".
Một giọng nói ở trong vọng ra: "Thưa đây!" Và một chiếc vé được luồn qua khe cửa.

Người soát vé kiểm tra xong và bỏ đi. Các kỹ sư Microsoft ồ lên ngạc nhiên trước "công
nghệ" của Apple.
Và khi hội nghị kết thúc, 6 kỹ sư lại gặp nhau ở nhà ga. Như lần trước, các kỹ sư Apple
chỉ mua 1 vé, trong khi các kỹ sư Microsoft lại chẳng mua vé nào. Đến lượt các kỹ sư
Apple ngạc nhiên không hiểu làm sao ba người kia có thể thoát được. Tương tự, 3 kỹ sư
Apple lại chui vào toalét đóng cửa lại. Ngay lập tức, 1 trong 3 kỹ sư Microsoft bước theo
và giả giọng người soát vé, rút luôn chiếc vé vừa thò qua khe cửa và cả 3 bọn họ chui tọt
vào toalét bên cạnh. Thật tuyệt vời vì trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người thành công luôn
là người biết tiếp thu những ý tưởng của người khác và áp dụng một cách thật sáng tạo.
Thực chất thì sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất,
tinh thần mới về chất. Nói cho dễ hiểu thì sáng tạo là hoạt động của con người tạo ra sản
phẩm và sản phẩm này phải đáp ứng được hai yêu cầu sau:
- Có tính mới (mới về chất)
- Có giá trị so với sản phẩm cũ (có lợi hơn, tiến bộ hơn)
Vì sáng tạo có thể là sản phẩm vật chất (như bóng đèn điện, bóng bán dẫn, tivi ) hay sản
phẩm tinh thần (như tác phẩm hội họa, văn học ) nên có thể nói sáng tạo có mặt trong
mọi họat động của con người. Trước hết, chúng ta hãy gạt bỏ tư tưởng cho rằng sáng tạo
chỉ có trong khoa học, kỹ thuật hay nghệ thuật. Người ta vẫn nghĩ sáng tạo phải thể hiện
trong việc phát minh ra điện, ra vaccine phòng bệnh, hoặc viết một cuốn tiểu thuyết Tất
nhiên, những việc kể trên đúng là sáng tạo, mỗi bước tiến để chinh phục vũ trụ của loài
người đều là kết quả của sự sáng tạo. Nhưng sáng tạo không chỉ tồn tại trong một số nghề
nhất định hay trong bộ óc của những người thông minh tuyệt đỉnh.
Vậy thì sáng tạo là gì?
Một bạn sinh viên học giỏi, mà nghèo đã đặt quyết tâm đi du học và thành công vì tìm
được nguồn học bổng phù hợp. Bạn đó đã sáng tạo trong phương pháp học.
Một SV biết sắp xếp thời gian để có thể vừa học tốt ở trường lại vẫn có thời gian đi làm
để có tiền ăn học và còn giúp đỡ thêm cho gia đình. Bạn đó đã rất sáng tạo.
Một nhân viên phải làm công việc tiếp thị sản phẩm trên đường phố. Anh ta đã có gắng
tránh sự nhàm chán bằng cách mỗi ngày thay đổi một lộ trình, sau 1 tuần mới đi lặp lại.
Anh ta đã biết sáng tạo trong công việc.

Sáng tạo đơn giản chỉ là tìm ra một cách mới để làm việc hoặc làm cho công việc đó trôi
chảy hơn, làm nên thành công. Trong câu chuyện vui về 6 chàng kỹ sư trên, chúng ta đều
nhận ra rằng các kỹ sư Apple đã có một giải pháp sáng tạo để trốn vé tàu, trong khi các
kỹ sư Microsoft lại có môt giải pháp sáng tạo nữ trên nền giải pháp cũ của Apple. Sáng
tạo vì thế cứ nối sáng tạo như một cuộc đua tiếp sức để đời sống loài người ngày một văn
minh, tiện lợi hơn. Khi đã hiểu sáng tạo là gì và sáng tạo có tầm quan trọng như thế nào
thì rõ rằng, tư duy sáng tạo luôn là phẩm chất số 1 của người lao động trong bất cứ xã hội
nào.
13 kỹ năng cần có của người lao động trong thế kỷ 21 (theo Ủy ban Đào tạo và phát
triển Mỹ)
1. Tư duy sáng tạo
2. Đặt mục tiêu, tạo động cơ
3. Quan hệ (giao tiếp, ứng xử)
4. Lãnh đạo
5. Học hỏi
6. Lắng nghe
7. Thương lượng
8. Thuyết trình và diễn giải ý tưởng
9. Đảm bảo tính hiệu quả
10. Phát triển cá nhân trong công việc
11. Giải quyết nhanh vấn đề, tìm giải pháp
12. Lòng tự tôn về bản thân
13. Làm việc theo nhóm
Các Phương Pháp Suy Luận và Sáng Tạo
Võ Bài I: Tập Kích Não

Các bạn thân mến,
Ngày nay, trong các xứ tiên tiến thì các phương pháp để giải quyết mau lẹ và hiệu quả
các khó khăn về tư duy được nghiên cứu và giảng dạy khá kỹ trong nhiều "course" ở các
truờng. Tuy nhiên, khi "trở về xứ Việt" thì chúng ta hầu như không thể tìm thấy một

hướng dẫn nào khả dĩ giúp trang bi cho chúng ta một số phương tiện để có thể "qua cầu"
(mà không bị gió bay).
Chúng tôi đã cố găng sưu tầm, dịch thuật và trình bày lại với các bạn một số phương
pháp quan trọng. Hy vọng các phương pháp này sẽ cung cấp thêm những "ánh sáng
cuối đường hầm" có thể giúp các bạn giải quyết được các vấn đề khó khăn gặp phải
trong môi trường nghiên cứu cũng như trong học vấn. Trong lúc đọc các bạn không nhất
thiết phải "bám" theo một phương cách nào hết mà chỉ cần rút tỉa ra xem phương pháp
nào có duyên với bạn để có thể xử dụng thích hợp nhằm giải quyết vấn đề các bài toán
của mình và do đó, bạn cũng không nhất thiết phải nghiền ngẫm hết tất cả các phương
pháp được trình làng ở đây. (Trừ khi bạn thấy có hứng thú muốn tìm hiểu cặn kẽ). Tuy
nhiên, các phương pháp này cũng có thể sử dụng kết hợp với nhau để giúp ta tìm đến
những lời giải đẹp.
Đầu tiên xin đề cập đến các phương pháp tận dụng được khả năng tổ chức và làm việc
của cá nhân hay một nhóm các nhà chuyên môn (có thể không cùng một lãnh vực và có
tầm nhìn khác nhau trong cách tiếp cận vấn đề). Vì các phương pháp này còn nhiều mới
lạ so với những phương pháp đã được dạy trong trường nên các bạn hãy cố gắng đọc,
hiểu và làm quen với cách xử dụng chúng. Chắc chắn các phương pháp này sẽ đem lại
nhiều ích lợi cho việc suy nghĩ và giải quyết khó khăn cho các bạn.
1. Brainstorming: (Tập kích não): Đây là một phương pháp suất sắc dùng để phát triển
nhiều giải đáp sáng tạo cho một vấn đề. Phương pháp này hoạt động bằng cách tập trung
trên vấn đề, và rút ra rất nhiều đáp án căn bản cho nó. Các ý niệm/hình ảnh về vấn đề
trước hết được nêu ra một cách rất phóng khoáng và ngẫu nhiên theo dòng suy nghĩ càng
nhiều càng đủ càng tốt. Chúng có thể rất rộng và sâu cũng như không giới hạn bởi các
khiá cạnh nhỏ nhặt nhất cuả vấn đề. Trong "tập kích não" thì vấn đề được đào bới từ
nhiều khía cạnh va nhiều cách (nhìn) khác nhau. Sau cùng các ý kiến sẽ được phân nhóm
và đánh giá.
Phương pháp này có thể tiến hành bởi từ 1 đến nhiều người. số lượng người tham gia
nhiều sẽ giúp cho phương pháp tìm ra lời giải được nhanh hơn hay toàn diện hơn nhờ vao
nhiều góc nhìn khác nhau bởi các trình độ, trình tự khác nhau cuả mỗi người.
Lịch sử phát triển: Chữ tập kích não (brainstorming) được đề cập đầu tiên bởi Alex

Osborn năm 1941. Ông đã mô tả tập kích não như là "Một kĩ thuật hội ý bao gồm một
nhóm người nhằm tìm ra lời giải cho vấn đề đặc trưng bằng cách góp nhặt tất cả ý kiến
cuả nhóm người đó nảy sinh trong cùng một thời gian theo một nguyên tắc nhất định (mà
sẽ được mô tả trong phần tiếp theo). Ngày nay, phương pháp này không nhất thiết phải
cần có nhiều người mà một người cũng có thể tiến hành (Một mai một cuốc một cần câu
Thơ cuả cụ Tam Nguyên )
Các đặc điểm chính khi sử dụng tập kích não:
a) Định nghiã vấn đề một cách thật rõ ràng phải đưa ra được các chuẩn mực cần đạt được
cuả 1 lời giải. Trong bước này thì vấn đề sẽ được cô lập hoá với môi trường và các
nhiễu loạn.
b) Tập trung vào vấn đề. Tránh các ý kiến hay các điều kiện bên ngoài có thể làm lạc
hướng buổi làm việc. Trong giai đoạn này người ta thu thập tất cả các ý niệm, ý kiến và
ngay cả các từ chuyên môn có liên quan trực tiếp đến vấn đề cần giải quyết. (thường có
thể viết lên giấy hoặc bảng tất cả)
c) Không được phép đưa bất kì một bình luận hay phê phán gì về các ý kiến hay ý niệm
trong lúc thu thập. Những ý tưởng thoáng qua trong đầu nếu bị các thành kiến hay phê
bình sẽ dể bị gạt bỏ và như thế sẽ làm mất sự tổng quan cuả buổi tập kích não
d) Khuyến khích tinh thần tích cực. Mỗi thành viên đều cố gắng dóng góp và phát triển
các ý kiến
e) Hãy dưa ra càng nhiều ý càng tốt về mọi mặt cuả vấn đề kể cả những ý kiến không
thực tiễn hay ý kiến hoàn toàn lạ lẫm sáng tạo.
Các bước tiến hành:
a) Trong nhóm lựa ra 1 người đầu nhóm (để điều khiển) và 1 người thư kí (để ghi lại tất
cả ý kiến) (cả hai công việc có thể do cùng 1 người tiến hành)
b) Xác định vấ đề hay ý kiến sẽ được tập kích. Phải làm cho mọi thành viên hiểu thấu
đáo về đề tài sẽ được tìm hiểu.
c) Thiết lập các "luật chơi" cho buổi tập kích não. Chúng nên bao gồm
• Người đầu nhóm có quyền điều khiển buổi làm việc.
• không một thành viên nào có quyền đòi hỏi hay cản trở, đánh giá hay phê bình
hay "xiá mũi" vào ý kiến hay giải đáp cuả thành viên khác

• Xác minh rằng không có câu trả lời nào là sai!
• Thu thập lại tất cả câu trả lời ngoại trừ nó đã được lập lại.
• Vạch định thời gian cho buổi làm việc và ngưng khi hết giờ.
d) Bắt đầu tập kích não: Người lãnh đạo chỉ định hay lựa chọn thành viện chia sẻ ý kiến
trả lời (hay những ý niệm rời rạc). Người thư kí phải viết xuống tất cả các câu trả lời, nếu
có thể công khai hóa cho mọi người thấy (viết lên bảng chẳng hạn). Không cho phép bất
kì một ý kiến đánh giá hay bình luận nào về bất kì câu trả lời nào cho đến khi chấm dứt
buổi tập kích
e) Sau khi kết thúc tập kích, hãy lượt lại tất cả và bắt đầu đánh giá các câu trả lời. Một số
lưu ý về chất lượng câu trả lời bao gồm:
• Kiếm những câu ý trùng lặp hay tương tự
• Nhóm các câu trả lời có sư tương tự hay tương đồng về nguyên tắc hay nguyên lí
• Xóa bỏ nhũng ý kiến hoàn toàn không thích hợp
• Sau khi đã cô lập được danh sách các ý kiến, hãy bàn cãi thêm về câu trả lời
chung
Ví du:
Một ví dụ đơn giản dùng tập kích não là vấn đề "thiết kế máy chuyển ngân của nhà băng"
(ATM -Automated Teller Machine)
Thành viên mời tham dự buổi tập kích não có thể bao gồm: 1 người có gửi tiền nhà băng,
1 nhân viên làm việc chuyển ngân hàng ngày, 1 nhà thiết kế phần mềm, một người không
có gửi tiền trong nhà băng.
Câu hỏi chính được cô lập lại thành: "Thao tác nào máy chuyển ngân có thể phục vụ
được cho khách hàng?" (hay máy chuyển ngân đảm đương nhiệm vụ gì?)
Sau khi tập kích thì các ý kiến đã được thu thập về máy ATM đưọc đặt trong hình vẽ sau:
Sau khi có bảng các ý niệm thì nhóm làm việc sẽ phân loại theo "góc nhìn" cuả người
dùng máy. Như vậy một số ý kiến như là "khám máy từ xa", "nâng cấp cho máy từ xa"
hay "bảo trì máy" chỉ dùng cho người kĩ sư bảo trì.
Nếu đứng trên quan điểm các dịch vụ mà máy cung cấp thì có thể rút thành 3 nhóm dùng
máy:
Như vậy dựa vào các thông tin thu nhập được người thiết kế có thể nắm được những tính

năng chính cuả một ATM mà tiến hành.
Xem bài II: Thâu Thập Ngẫu Nhiên
Bài II: Thâu Thập Ngẫu Nhiên
Random Input (Thâu Nhập Ngẫu Nhiên): Phương pháp này rất hữu ích khi bạn cần
những ý kiến sáng rõ hay những tầm nhìn mới trong quá trình giải quyết vấn đề. Đây là
phương pháp bổ xung thêm cho quá trình tập kích não.
Xu hướng chung về sự suy nghĩ cuả con người là tư duy bởi sư nhận ra các kiểu mẫu
(hay hiểu nôm na là "phương pháp" hay "nền nếp suy nghĩ"). Chúng ta phản ứng lại các
mẫu đó dưạ trên những kinh nghiêm trong quá khứ và mở rộng các kinh nghiệm này.
Mặc dù vậy, đôi khi, chúng ta sẽ bị giam bên trong lối tư duy cuả mình. Với một nền nếp
(phương pháp) tư duy đặc thù có thể sẽ không đủ để kiến tạo một lời giải tốt cho một loạt
các vấn đề đặc trưng.
Một ví dụ điển hình là trường hợp cuả các học sinh PTTH, chúng ta biết rất rõ, đa số khi
giải các bài toán tích phân hay các bài toán hoá học định tính, các em dã được "gạo sẵn"
các dạng toán theo một loại "công thức hay mẫu mã" đã được cung cấp bởi các thầy dạy
(ở các trung tâm luyện thi) và cứ như thế "nhắm mắt" mà giải các đề bài cho đến khi gặp
những bài tưởng chừng dùng công thức này hay công thức nọ có thể làm ra nhưng lại lay
hoay mãi mà không tìm ra được 1 giải thuật đúng đắn
Random Input là kĩ thuật cho phép liên kết một kiểu tư duy mới với kiểu tư duy mà
chúng ta đang sử dụng. Cùng với sự có mặt cuả kiểu tư duy mới này thì tất cả các kinh
nghiệm sẵn có cùng sẽ được nối vào với nhau.
Các bước tiến hành: Nếu thấy các bước này có phần khó hiểu, thì xin hãy đọc tiếp phần
ví dụ sau đó.
Chọn ra ngẫu nhiên một danh từ trong một tự điển hay trong một danh mục các từ vựng
đã được chuẩn bị từ trước. Thường danh từ được chọn là danh từ cụ thể sẽ giúp ích hơn
(tức là những danh từ chỉ vật mà mình có thể nhận biết bằng giác quan hay sờ mó được )
hơn la chọn một danh từ trừu tượng hay một khái niệm tổng quát. Dùng danh từ nay như
là diểm khởi đầu cho giải quyết vấn đề bằng tập kích não.
Bạn có thể thấy ra mình có thêm nhiều tri thức sáng suốt nếu như chữ được chọn không
nằm trong phần chuyên môn cuả bạn

Nếu như đó là chữ thích hợp, bạn sẽ thêm được một dãy những ý kiến và khái niệm vào
quá trình tập kích não. Trong khi một số từ lưạ ra trở nên vô dụng, thì hy vọng bạn sẽ tìm
ra chút ánh sáng cho vấn đề. Nếu bạn kiên trì nhiều lần, thì ít nhất bạn có thể tìm ra bước
đột phá.
Ví Dụ:
Giả sử vấn đề muốn giải quyết là "giảm ô nhiểm từ các loại xe lưu động". Theo lối nghĩ
thông thường chúng ta đều thấy cách giải thông thường là xử dụng thiết bị "xúc tác để
chuyển hoá các chất thải gắn trong ống khói xe hơi" và dùng các loại xang "sạch" hơn (và
có khả năng cháy gần như hoàn toàn trong buồng đốt)
Bay giờ lưa ngẫu nhiên một danh từ trích từ tưạ cuả những cuốn sách trên tủ, bạn có thể
tìm thấy chữ "cây cỏ" (thực vật). Tập kích não từ chữ này bạn có thể "đào" ra một "mớ"
ý mới:
• Cây xanh trên các vệ đường có thể chuyển hoá CO2 thành O2.
• Tương tự, nếu thổi khí thảy ra từ máy xe một dung môi cuả tảo (algae) thì cũng
chuyể hoá được CO2 sang O2. Và có lẽ, bộ lọc không khí từ các phi thuyền không
gian dùng cách này?
• Chưá vi trùng "sulfur-metabolizing" vào bộ chuyển hóa khí thảy để làm sạch
chúng. Có phải hợp chất cuả Nitơ (Nitrogen) sẽ làm "giàu" giống vi trùng này?
• Sản phẩm cuả các loại cây cỏ là giấy. Giấy có thể dùng làm màng lọc cuả các bộ
lọc không khí (air filter) ở các máy điều hoà nhiệt độ, các động cơ nổ (xe hơi, xe
gắn máy)
• Sản phẩm cuả cây cao su là nhưạ có thể làm nguyên liệu chế tao bộ lọc không khí
thaỷ ra.

Trên đây là những ý kiến thô thiển nảy sinh. Một số có thể sai và không thực tế. Tuy
nhiên, một trong chúng có thể dùng làm cơ sở cho những phát triển lợi ích.

Xem bài III: Nới rộng khái niệm
Bài III: Nới Rộng Khái Niệm


Concept Fan (tạm dich Nới Rộng Khái Niệm):
Concept Fan là một cách để tìm ra các tiếp cận mới về một vấn đề khi mà tất cả các phương án
giải quyết hiển nhiên khác không còn dùng được. Phương pháp này triển khai nguyên tắc "lui một
bước" (khi hổ vồ mồi thì chúng cũng lui lai để có thế nhảy vọt?!!!) để nhận được tầm nhìn rộng
hơn. Như vậy, phương pháp này không khác gì một người khi đứng quá gần với một bức tranh
thì sẽ khó lãnh hôi đươc toàn bộ nội dung cuả nó mà cách tốt nhất là đứng lui ra xa hơn để tầm
ngắm nhìn được xa và rộng hơn.
Lịch sử cuả Khái niệm:
Khái niệm về concept fan đầu tiên được nêu lên bởi Edward de Bono trong quyển sách "Serious
Creativity: Using the Power of Lateral Thinking to Create New Ideas" (tạm dịch Sáng tạo
thực sự: Xử dụng Tư Duy Dịnh Hướng để Tạo các Phát Kiến) xuất bản lần đầu tiên vào tháng
năm 1992 ấn bản Anh ngữ)
Các bước tiến hành:
Khi bắt đầu, vẽ 1 khung khép kín ở giưã cuả một miếng giấy khổ lớn. viết xuống (một cách ngắn
gọn) vấn đề mà bạn đang tìm cách giải quyết. Bên phải cuả khung vẽ ra những nửa đường thẳng
(nối với khung và hướng ra xa như các rẽ quạt đây cũng là lí do tên gọi cuả phương pháp là
concept fan). Mỗi nửa đường thẳng như vậy sẽ đại diện cho một lời giải khả dĩ cho vấn đề này.
(Xem ví du bằng hình)
Hình1: Bước thứ nhất
Có thể rằng các ý kiến mà bạn có thì không khả thi hay chưa hoàn toàn giải quyết triệt để vấn đề.
Nếu thế, có thể lùi lại một bước để tạo cái nhìn tổng quát hơn cho vấn đề
Bước này tiến hành bằng cách vẽ thêm 1 khung khép kín ở ngay bên trái cuả vòng tròn đầu tiên,
và viết vào đó định nghiã rộng hơn. Liên kết hai khung bằng một mùi tên chỉ vào khung mới lập
nên
Hình2: Nới rộng định nghiã cuả vấn đề dùng concept fan
Sử dụng ý mới này như là điểm xuất phát cho các ý kiến mới
Ngưng thải dầu & rác
đổ ra từ các hải cảng
Nâng cấp xử lí nước thải
Kéo dài thời gian các

thứ này được thaỉ ra
giám sát nước sông đổ ra
Hình3: Phát triển các ý mới từ định nghiã được nới rộng hơn cuả vấn đề
Nếu như ý niệm mới này cũng chưa đủ, bạn có thể bước lui thêm một lần nưã để nới rộng hơn ý
kiến (và có thể lập lại nhiều lần, )
Ngưng thải dầu & rác
đổ ra từ các hải cảng
Nâng cấp xử lí nước thải
Kéo dài thời gian các
thứ này được thaỉ ra
giám sát nước sông đổ ra
Hình 4: Mở Rộng Khái niệm lần thứ nhì
Qua
Bài IV: Kích Hoạt
Provocation (Tạm dịch Kích Hoạt)
Tương tự như phương pháp Random Input, đây là một kĩ thuật tư duy khá quang trọng.
Tác động chính cuả phương pháp là đưa sự suy nghĩ ra khỏi các nền nếp suy nghĩ cũ mà
bạn dùng để giải quyết vấn đề.
Như đã giải thích trưóc đây, chúng ta tư duy bằng cách nhận thức các kiểu và phản ứng
lại chúng. Các phản ứng đáp trả này dựa trên kinh nghiệm trong quá khứ và các mở rộng
"có lý" cho các kinh nghiệm này. Suy nghĩ cuả chúng ta thường ít vượt qua hay đứng
bên ngoài cuả các kiểu mẫu cũ. Trong khi chúng ta có thể tìm ra câu trả lời như là một
"kiểu khác" cuả vấn đề, cấu trúc não bộ sẽ gây khó khăn cho chúng ta để liên kết các lời
giải này.
Kích hoạt là một phương pháp dùng để liên kết các kiểu tư duy này với nhau.
Phương pháp này được nghiên cứu bởi Edward de Bono, tiến sĩ Tâm lý học. Giáo sư tại
các trường đại học Oxford, Cambridge, và Harvard. Đây là trang WEB cuả ông
/>Các Bước tiến Hành:

Hãy viết xuống nhiều mệnh đề ngớ ngẩn (không hợp lý lẽ, không dựạ trên lập luận khoa
học và có thể phản khoa học hay đi nguợc với thực tế thường nhật) một cách chủ ý, trong
đó chúng ta cho phép các tình huống không thực. Các mệnh đề này cần thiết phải "ngu
xuẩn" để tạo cú "sốc" (kích hoạt) cho hệ thống tư tưởng làm nó thoát ra ngoài những
cung các suy nghĩ hiện có. Một khi chúng ta đã tạo ra các mệnh đề kích hoạt này, chúng
sẽ làm ngưng các đánh giá phán quyết dể mà tạo nên ý kiến mới. Kích hoạt cung cấp
những điểm khởi đầu nguyên thuỷ cho sự sáng tạo. Các ý tưỏng cuả phương pháp này
thuờng là các bước mở đầu cho những ý tưởng mới.
Cách xếp đặt ra những mệnh đề kích hoạt như vậy đã được thấy rất nhiều trong các công
án thiền (Zen koans) và các thơ haiku (Nhật). Kĩ thuật này, làm giảm các sức ỳ tâm lý trì
trệ trong bộ óc, đã được phổ dụng ở Đông Phương từ lâu nhưng đôi khi làm khó khăn
cho lối suy nghĩ kiểu Tây phương.
Chẳng hạn như chúng ta đưa ra câu: "Nhà không nên có nóc!". thông thường thì điều này
không phải là ý kiến hay. Mặc dù vậy, ý này dẫn đến suy nghĩ về các ngôi nhà "mở nóc"
hay các ngôi nhà nóc trong suốt. Và bạn có thể vưà ngủ vưà ngắm trăng. Còn nếu như
bạn đã xem qua bộ phim "Xích Lô" thì hẳn bạn sẽ nhớ đến câu "người ta thì ngủ khách
sạn 5 sao còn tao thi ngủ khách sạn ngàn sao" bạn cũng đã biến câu này thành thực
tế vậy!
Khi đã tạo nên sự kích hoạt, bạn có thể dùng nó trong nhiều phương cách khác nhau bởi
kiểm nghiệm:
• Các hậu quả, hiệu ứng cuả mệnh đề
• Các lợi ích có thể nhận được
• Tình huống đặc thù nào có thể làm cho nó trở thành lời giải bén nhạy
• Các nguyên tắc, nguyên lý nào cần dùng để làm việc này và để nó hoạt động
• Làm sao để nó hoạt động trong mọi thời điểm
• Cái gì sẽ xãy ra nếu như 1 dãy các biến cố bị thay đổi
• vân vân
Bạn có thể dùng danh sách các câu hỏi trên như là 1 khuôn mẫu.
Ví dụ: (Thí dụ này được làm ra từ các nước giàu nên không chắc áp dụng nổi cho đất
An-Nam ta)

Chủ tiệm cho thuê băng video muốn tìm ra phương pháp để cạnh tranh với Internet. Cô
chủ bắt đầu với mệnh đề "khách hàng không nên trả tiền để mướn băng video"
Sau đó cô ta kiểm nghiệm các "kích hoạt" sau đây:
• Các hậu quả: Cưả tiệm sẽ không có tiền thu nhập qua thuê băng và do đó phải có
một nguồn thu nhập khác hơn. Phải làm cho việc muợn băng tại cưả tiệm thì rẻ
hơn là tải về máy các phim mướn trên Internet hay đặt cọc nó qua catalog.
• Các lợi ích: Có nhiều người đến mượn băng video hơn. Nhiều người hơn sẽ ghé
vaò tiệm. Cưả tiệm sẽ thu hút khách hàng từ các tiệm cho thuê khác trong điạ
phương
• Tình huống: Cuả hàng cần có nguồn thu nhập thay thế. Có thể chử tiệm sẽ bán các
quảng cáo trong tiệm, hay là bán thêm "đồ nhắm", bán bia, nước ngọt, kẹo bánh,
rượu và thức ăn nhanh. Điều này sẽ biến cưả hàng thành "tiệm tạp hoá kiểu mới".
Có lẽ chỉ cho ngươì ta mượn băng sau khi đã phải "ngấm" qua 30-giây các mặt
hàng quảng cáo hay là sau khi hoàn tất các bản câu hỏi nghiên cứu thị trường.
Sau khi dùng kích hoạt, chủ tiệm quyết dịnh "thử nghiệm" trong nhiều tháng. Cô ta cho
phép khách hàng mượn miễn phí các "top-ten" băng mới ra lò. (nhưng dĩ nhiên khách
hàng sẽ bị phạt tiền nếu họ trả băng trể) Cô chủ sẽ đặt các băng video phiá đàng trong
cùng cuả cưả tiệm. Phiá trước sẽ đập vào mắt khách hàng những thứ hàng "hấp dẫn"
khác (để dẫn dụ khách mua hàng) như là các mặt hàng kể trên. Như vậy 1 người khách
muốn mượn băng sẽ phải đi ngang qua và ngắm các món khác trước khi tới được quầy
video. Ngoài ra, bên cạnh quầy trả băng, cô chủ chưng bán các mặt hàng "model" thấy
được qua các phim này.
Bài V: Six Thinking Hats (Tạm Dịch: Lục Mạo Tư Duy)
Six Thinking Hats
- Là một kĩ thuật được thiết kế nhằm giúp các cá thể có được nhiều cái nhìn về một đối
tượng mà những cái nhìn này sẽ khác nhiều so với một người thông thường có thể thấy
được. Đây là một khuôn mẫu cho sự suy nghĩ và nó có thể kết hợp thành lối suy nghĩ
định hướng (lateral thinking). Trong phương pháp này thì các phán xét có giá trị sẽ có
chỗ đứng riêng của nó nhưng các phê phán đó sẽ không được phép thống trị như là
thường thấy lối suy nghĩ thông thường.

Six thinking Hats được dùng chủ yếu là để:
- Kích thích suy nghĩ song song
- Kích thích suy nghĩ toàn diện
- Tách riêng cá tính (như là bản ngã, các thành kiến ) và chất lượng

Lịch Sử cuả Phương Pháp:
Đây là phát kiến cuả Tiến sĩ Edward de Bono ( ) trong năm
1980. Năm 1985 nó đã được mô tả chi tiết trong cuốn "Six Thinking Hats" cuả de Bono.
Phương pháp này đã được phát triễn va giảng dạy ở nhiều nơi trên thế giới (ngoại trừ Xứ
Đại Cồ Việt cuả ta??!!) Nhiều tổ chức lớn như là IBM, Federal Express, Brtish Airways,
Pepsi, Polaroid, Prudential, Dupont, cũng dùng phương pháp này.

Cách thức tiến hành:
(Bạn nên xem thêm phần ví dụ để có một hình dung cụ thể về nó)
Dùng 6 cái nón đại diện cho 6 dạng thức cuả suy nghĩ. Nó đề cập đến chiều hướng suy
nghĩ hơn là tên gọi. Mỗi nón có một màu (mà màu này chỉ đại diện cho duy nhất 1 dạng
thức duy nhất cuả suy nghĩ).
Mọi người đều sẽ tham gia góp ý. Tuỳ theo kiểu ý kiến mà người đó sẽ đề nghị đội nón
màu gì.
Các nón không được dùng để phân loại cá nhân mặc dù hành vi hay thói quen cuả cá
nhân đó "dường như" hay có vẻ thuộc về loại nào đó. Nó chỉ có tác dụng định hướng suy
nghĩ trong khi thành viên trong nhóm cho ý kiến đội lên mà thôi
Các đặc tính cuả nón màu:
Nón trắng: trung tính - tập trung trên thông tin rút ra được, các dẫn liệu cứ liệu và những
thứ cần thiết , làm sao để nhận được chúng
Nón Đỏ: Nóng, tình cảm, cảm giác, cảm nhận, trực quan, những ý kiến không có chứng
Bài VI: DOIT
DOIT - Một Trình Tự Đơn Giản để Sáng Tạo
Các kỹ thuật đã nêu trong các chương truớc tập trung trên các khiá cạnh đặc biệt cuả tư
duy sáng tạo. DOIT sẽ "gói ghém" chúng lại với nhau, và dẫn ra các phương pháp về sự

xác nghiã và đánh giá cuả vấn đề. DOIT giúp bạn tìm ra kỹ thuật sáng tạo nào là tốt nhất.
Chữ DOIT là chữ viết tắt bao gồm:
D - Define Problem (Xác định vấn đề)
O - Open Mind and Apply Creative Techniques (Cởi Mở Ý Tưởng và Áp Dụng Các Kỹ
Thuật Sáng Tạo)
I - Identify the best Solution (Xác Định lời giải hay nhất)
T- Transform (Chuyển Bước)
Lịch sử cuả Phương Pháp: Kĩ thuật này đã được mô tả trong quyển "The Art of
Creative Thinking" (tạm dịch Nghệ Thuật Tư Duy Sáng Tạo) cuả Robert W. Olson năm
1980
Cách tiến hành
1. Xác Định Vấn Đề
- Phần này tập trung vào phân tích vấn đề để đoan chắc rằng vấn đề được đặt ra là đúng.
Những bước sau đây sẽ giúp bạn khẳng định nó:
• Kiểm lại rằng bạn nắm vững vấn đề, không chỉ thấy dấu hiệu cuả nó. Hãy hỏi lập
đi lập lại rằng tại sao vấn đề tồn tại, cho tới khi nào bạn nhận ra cội rể cuả vấn đề.
• Đặt câu hỏi tại sao vấn đề nảy sinh. Điều này có thể dẫn tới mệnh đề tổng quát
hơn cuả vấn đề.
• Hãy nắm rõ các giới hạn, biên giới cuả vấn đề. Rút ra từ các đối tượng cái gì bạn
muốn đạt tới và cái gì ràng buộc những hoạt động/thao tác cuả bạn
• Ghi xuống các mụch đích, các đối tượng và/hoặc các tiêu chuẩn mà một lời giải
cuả vấn đề phải thoả mản. Sau đó hÀy "kéo dãn" mỗi mụch đích, mỗi đối tượng
và tiêu chuẩn ra và viết xuống tất cả những ý tưởng mà nó có thể được "để mắt
tới".
• Khi mà vấn đề tưỏng chừng rất lớn, thì hãy chia nhỏ hay bẽ gãy nó ra thành nhiều
phần. Tiếp tục như vậy cho tới khi tất cả các phần chia ra đều có thể giải đoán
được trong đúng phạm vi cuả nó, hay là phải xác định một cách chính xác những
vùng naò cần nghiên cứu để tìm ra. (* xem thêm về kỹ thuật đào bới 1 vấn đề)

×