Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

phát triển làng nghề ở Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.77 KB, 29 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Lời mở đầu
Tỉnh Hà Tây thuộc vùng châu thổ sơng Hồng. Phía bắc giáp tỉnh Vĩnh
Phúc, phía tây giáp tỉnh Hồ Bình, Phú Thọ, phía đơng giáp Hà Nội, Hưng
n, phía nam giáp Hà Nam. Địa hình của tỉnh tương đối đa dạng bao gồm
đồi, núi và đồng bằng. Hà Tây có diện tích là 2192 km, với dân số là 2452500
(theo năm 2002). Hà Tây là vùng đất trú nhự của một số dân tộc Việt, Mường,
Tày Dao.
Nơi đây có nhiều cảnh đẹp lý tưởng cho phát triển du lịch Chính vì vậy
mà Hà Tây đã dần định hình một thương hiệu du lịch làng nghề nổi tiếng ở
trong nước và ngoài nước. Năm nay, Hội du lịch làng nghề truyền thống lần
thứ ba của tỉnh sẽ diễn ra từ ngày 02 đến 04/12, tại oa thị xã Hà Ðông, với
nhiều hoạt động thiết thực nhằm tôn vinh, bảo tồn, phát triển các nghề thủ
công và quảng bá cho làng nghề Hà Tây.
Hiện nay, Hà Tây có 1.160 làng có nghề thủ cơng, trong đó 201 làng đã
được tỉnh cơng nhận danh hiệu làng nghề với nhiều nghề truyền thống có giá
trị như: sơn mài, khảm trai, điêu khắc, thêu ren, tơ lụa, điêu khắc đá, gỗ, hàng
song, mây, giang tre, nón lá, rèn, đúc, v.v.
Đến với Hà Tây ngồi việc tìm hiểu quy trình kỹ thuật làm ra các sản
phẩm, khách được thâm nhập vào cuộc sống cộng đồng ở nông thôn, lựa
chọn, mua các mặt hàng thủ công giá cả vừa phải, thưởng ngoạn cảnh quan
với vẻ đẹp đặc trưng của làng quê Bắc Bộ và nhiều sinh hoạt dân gian phong
phú, sôi động.

1


Website: Email : Tel : 0918.775.368

I. NghỊ thªu tay


1.1:lØch sư nghỊ thªu
Ở Việt Nam, nghề thêu là một ngành nghề thủ cơng truyền thống đã có
tự lâu đời. Lịch sử của ngành nghề truyền thống này vốn gắn liền với lịch sử
tâm linh của người phụ nữ Việt Nam trong quá khứ. Ngay từ thế kỷ thứ I, bên
cạnh lá cờ thêu “Đền nợ nước trả thù nhà” của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng,
phụ nữ Việt Nam cịn biết dùng cơng việc thêu thùa để trang hồng nhà cửa,
hơn nữa là để bày tỏ tâm sự, tình cảm và để làm đẹp cho chính mình.
Tuy nhiên, cho đến nay không ai biết được, nghề thêu Việt Nam hình
thành từ bao giờ? Ai là người đầu tiên có ý tưởng biến công việc may vá, thêu
thùa thành một ngành nghề nghệ thuật? Tương truyền rằng, đầu thế kỷ XVII,
nghề thêu Việt Nam được đánh dấu một bước ngoặt phát triển mới. Thời đó,
ngài Lê Cơng Hành, (sinh ngày 18/01/1606 – mất ngày 12/06/1661) tại làng
Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây đã đúc kết kinh
nghiệm và kỹ thuật thêu dân gian Việt Nam để phổ biến rộng rãi một nghệ
thuật thủ công mang đậm nét nghệ thuật. Cho đến thời phong kiến, nghề thêu
là một trong những nghề phục vụ cho Vua chúa và giới Quý tộc. Sản phẩm
thêu được hoàn thành bởi những chất liệu chỉ vải do công sức sáng tạo của
những người nghệ nhân Việt Nam. Những sợi chỉ lúc đó được nhuộm bằng
cơng thức thủ cơng với chất liệu hồn toàn thiên nhiên như củ nâu, cây chàm,
vỏ bàng, nước điệp, lá vơng, đá mài, hoa hịe ... khiến cho người nước ngồi
phải cảm phục để nhận định rằng: "Nhìn những màu nước nhuộm của các cô
thợ thấy rất dơ dáy không ngờ đến khi nhuộm xong đều đủ hết một bảng màu
vô cùng lạ lùng tưởng như phù phép mới có được".
Trong thời kỳ đó nghề thêu thường là do người phụ nữ Việt Nam đảm
trách, theo quan niệm của nho giáo, người con gái phải hoàn thiện được tứ
đức: "Cơng, Dung, Ngơn, Hạnh" như người xưa từng nói :
2


Website: Email : Tel : 0918.775.368


“Trai thì đọc sách ngâm thơ
Gái thì kim chỉ thêu thùa vá may.”
Hocquard soạn giả sách nói về nghề thêu cuối thế kỷ XIX nhận định:
"Người thợ thêu Việt Nam tỏ ra rất khéo léo trong việc phân bổ màu sắc trên
lụa, để có những bức tranh thêu hịa hợp khơng chát chúa." Trải qua hàng thế
kỷ thăng trầm, nghề thêu có khi lên xuống nhưng nó vẫn giữ được bản sắc
văn hố lâu đời của dân tộc.
1.2: TÝnh thiªng liªng cđa nghỊ thªu.
Nghề thủ cơng nào cũng gắn liền với những kiến thức huyền bí được
truyền qua các thế hệ và bắt nguồn từ những khởi phát ban đầu. Công việc
của người thợ thủ cơng có tính chất thiêng liêng vì nó mô phỏng việc làm của
thượng đế, và bổ sung cho sáng tạo của Người.
Thật vậy, theo huyền thoại của dân tộc Việt Nam chúng ta dạy rằng sáng
tạo đấng tối cao chưa phải hoàn tất, và khi tạo ra trái đất, Người còn để lại
những việc làm chưa xong, để cho con người làm nốt hoặc thay đổi nhằm đưa
thiên nhiên tới chỗ hoàn thiện toàn mỹ. Hoạt động của người thợ thủ công khi
làm việc được coi như "lặp lại" bí quyết của sáng tạo. Hoạt động này vận
dụng tập trung một sức mạnh huyền bí, mà muốn tiếp cận sức mạnh đó bắt
buộc phải tuân theo những nghi thức đặc biệt.
Vì vậy, người thợ thủ cơng truyền thống vừa làm vừa ngân nga những
bài ca nghi lễ, hay những câu kinh có nhịp điệu và điệu bộ cử chỉ của họ cũng
được coi như một thứ ngôn ngữ. Thật vậy, cũng theo cách tượng trưng riêng,
mỗi nghề phải sử dụng một điệu bộ miêu tả sự huyền bí của công việc sáng
tạo ban đầu gắn liền với sức mạnh lời nói linh thiêng, như đã trình bày ở trên
người ta thường nói: "Thợ thêu thêu lời nói, thợ rèn rèn lời nói, thợ dệt dệt lời
nói cịn thợ giầy vuốt tấm da là vuốt cho lời nói trơn tru".

3



Website: Email : Tel : 0918.775.368

Ta hãy nhìn người thợ thêu thêu thành những tác phẩm của đời sống
thiên nhiên, mà nghề nghiệp gắn liền với biểu tượng coi lời nói sáng tạo là
một sức mạnh tỏa ra trong thời gian và không gian.
Người thợ thêu làm nghề của đẳng cấp mình, nắm được bí mật của
những kỹ thuật cơ bản nhất và áp dụng vào những chi tiết có ý nghĩa riêng.
Trước khi bắt tay vào khung thêu, người thợ phải sờ và nhìn lại từng mũi kim
trên tác phẩm và nói lên những lời, hay đọc bài kinh liên quan đến sức sống
mà tượng trưng cho tác phẩm. Đôi tay nâng lên hạ xuống đưa những mũi kim
là lặp lại nguyên thủy của lời nói sáng tạo, gắn liền với tính nhị nguyên của
tất cả mọi vật và quy luật tuần hoàn. Người ta tin rằng đơi tay nâng lên và hạ
xuống phát ra lời nói như sau:
"Nhịp nhàng, nhịp nhàng
Tay trên tay dưới
Có vị Hồng Đế băng hà
Hồng tử lên ngơi
Ơng nội mất
Cháu đích tơn ra đời
Nhịp nhàng nhịp nhàng
Tay trên tay dưới"
Điệu bộ của những người thợ thêu tạo hồn cho những tác phẩm sáng tạo
đang hoạt động, cịn lời nói phát ra theo nhịp các điệu bộ đó chính là sáng tác
của sự sống.
Có thể nói nghề nghiệp hay chức năng truyền thống, luyện nên con
người, giáo dục hiện đại và cách dạy truyền miệng cổ xưa khác nhau chính là
ở chổ đó. Những điều người ta học được của nhà trường phương tây, mặc dù
là hữu ích nhưng con người khơng sống với những điều đó, trong khi những
hiểu biết thừa hưởng được ở truyền thống dạy truyền miệng lại ăn sâu bén rễ

và hiện thân trong toàn bộ mỗi con người.

4


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Công cụ để hành nghề là biểu hiện thành vật chất của những lời nói linh
thiêng, nên sự tiếp xúc của người thợ thêu học việc với nghề nghiệp buộc
người đó phải "sống" lời nói đó trong bất kỳ một cử chỉ nào.
Vì vậy truyền thống dạy truyền miệng, xét chung, không chỉ đơn thuần là
truyền lại những câu chuyện hay tri thức mà nó tạo ra và rèn luyện nên một
mẫu người đặc biệt có thể nói là có nền văn minh của người thợ thêu.
Do đó, người thợ thủ cơng truyền thống học theo thượng đế bằng những điệu
bộ của mình, "lặp lại" công cuộc sáng tạo nguyên thủy của sự sống và đưa sự
sống vào toàn bộ con người của mình, người thợ tham gia vào việc tái thực
hiện huyền bí của sự sáng tạo vĩnh cửu.
NHỊP ĐIỆU ĐƠI BÀN TAY
Người thợ thêu thơng qua cơ thể của mình liên lạc được với vũ trụ, tiếp
xúc được với các năng lượng, các sức mạnh và dòng chảy trong vũ trụ.
Ngồi thêu không phải là rời bỏ các giác quan của mình, mà ngược lại
đang sử dụng các giác quan ấy một cách tinh tế, tiếp xúc được với các yếu tố
trong trời đất, với vật chất.
Người thợ đang thêu là một con người xác thịt bình thường nhưng mang
tính chất thụ động thường ngày cũng không ở trong một trạng thái căng thẳng
của một người đang cố sức giành lấy kỷ lục thể thao, mà là cầu nối giữa bên
trong và bên ngoài. Con người đang thêu như đang chịu lễ ban thánh thể,
chẳng đọ sức với bản thân, mà cũng chẳng đua tài với ai, vì thế giới thợ thêu
cần phải có sự hịa điệu, hịa âm mới thêu được. trong khi thêu, người thợ
khám phá ra được không gian với một niềm hưng phấn mạnh mẽ chẳng cách

xa mấy với sự hưng phấn của tâm hồn.
Tinh túy của động tác thêu là "Quý hồ tinh bất quý hồ đa" là chất lượng
chứ không phải là số lượng là ở chỗ thực tại mình là gì, chứ khơng phải là
mình có được cái gì.

5


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Con đường để đạt tới sự điêu luyện là sự lặp đi lặp lại lâu dài và rất tốn
công phu của mỗi động tác từ chỗ bình thường trở thành quý hiếm rồi rồi hóa
ra một động tác thêu.
Mong muốn được thành đạt trong nghệ thuật thêu luôn làm thôi thúc và
tạo sự hóa thân của người thợ thêu khiến mọi động tác của giới thực vật và
động vật đều được cô đọng, được tập trung vào con người mình. Người thợ
thêu là cái cây, bàn tay là rễ chuyển động, là con cá, con chim, một con đại
bàng trên trái đất, một con chuồn chuồn bay la đà, một chiếc lá chở đầy hoa
trơi theo dịng sơng...v.v...
Sống hài hịa giữa đất trời, giữa vật chất và phi vật chất, giữa thấp với
cao, tối với sáng, giữa cái nói ra được và cái khơng nói thành lời. Người thợ
thêu bị rung cảm và xúc động lôi cuốn cũng giống như những tác phẩm họ
làm ra đưa người xem đến độ say sưa. Điều người thợ thêu tạo ra là một sự
choáng ngợp giống như một tia chớp. Người đó có một ngọn lửa thiêng mà
bản thân cũng là một ngọn lửa thiêng.
1.3: Lµng D¬ng LiƠu
Đã từ lâu, nghề thêu ở xã Dương Liễu, huyện Hồi Đức khơng cịn tồn
tại, sự phồn thịnh của làng nghề tưởng như chỉ còn trong ký ức của mỗi người
dân. Nhờ sự tâm huyết và giữ gìn nghề truyền thống của nhân dân và chính
quyền địa phương, nên nghề thêu được khơi phục, phát triển. Nhờ có nghề mà

người dân Dương Liễu đã thoát nghèo và làm giàu từ nghề truyền thống.
Cũng như các làng nghề khác trong cả nước, sản phẩm làm ra khơng có
nơi tiêu thụ, vì thế nghề cũng từ đó mai một dần. Ước muốn khơi phục làng
nghề vẫn nhen nhóm trong lịng những người dân, năm 2002, với quyết tâm
của những người thợ yêu nghề, họ đi khắp nơi để tìm hiểu thị hiếu của khách
hàng và tìm kiếm thị trường tiêu thụ.

6


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Ban đầu, Hợp tác xã Dương Liễu chỉ có 20 lao động chuyên sản xuất
các mặt hàng áo kimônô, xuất sang thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. Sau
một thời gian, người dân chuyển hẳn sang làm các loại tranh thêu. Với sự
giúp đỡ của Liên minh Hợp tác xã tỉnh Hà Tây và huyện Hoài Đức, Hợp tác
xã Dương Liễu đã tổ chức nhiều lớp dạy nghề và nâng cao tay nghề cho lao
động. Nghề truyền thống được khôi phục đã thổi bùng ngọn lửa yêu nghề của
nhân dân trong xã. Nghề thêu khơng vất vả nhưng địi hỏi sự khéo léo của đơi
bàn tay người thợ. Có thể tự hào rằng những bức tranh phong cảnh quê
hương, đất nước, tranh tứ bình… của người thợ ngày càng đạt giá trị thẩm mỹ
và nghệ thuật cao. Với đôi bàn tay khéo léo, người thợ đã làm cho tạo cho
những đường thêu những nét hài hòa, sự tinh tế cho mỗi bức thêu. Nhiều tay
kim tài hoa thổi hồn cuộc sống vào mỗi bc tranh thờu
1.4: Làng Thắng Lợi
lng c ca huyn Thng Tín, trước đây đời sống kinh tế của người dân
xã Thắng Lợi chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp. Khi nền kinh tế thị trường
phát triển, người dân trong xã đã phát huy lợi thế nghề thêu truyền thống của
cha ông để lại, đưa sản phẩm thêu của xã vươn tới những thị trường xuất khẩu
tiềm năn. Nhờ đógiá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp của xã tăng lên.

Theo các cụ cao niên kể lại thì nghề thêu ở đây đã có hàng trăm năm nay.
Đa số, người dân trong xã đều thành thạo kỹ thuật thêu. Sự khéo léo của đôi
tay người thợ đã tạo nên những tác phẩm đặc sắc như tranh thêu phong cảnh,
tranh chân dung, tranh tứ bình.
Bắt đầu từ năm 1986, nghề thêu chuyển mình theo hướng tích cực. Các
sản phẩm thêu khơng chỉ tiêu thụ ở thị trường trong nước mà đã vươn ra thị
trường nước ngoài như thị trường Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc và Đài Loan.Có
thể tự hào rằng, những bức tranh phong cảnh quê hương, đất nước, tranh tứ
bình…của người thợ nơi đây ngày càng đạt giá trị nghệ thuật cao và được thể
7


Website: Email : Tel : 0918.775.368

hiện với những nét hài hồ, tinh tế, làm hài lịng khách hàng trong nước và
quốc tế.
1.5:Lµng Xãm BÕn
Làng cổ nằm ven dịng sông Nhuệ, trước đây đời sống kinh tế của nhân
dân thơn Xóm Bến, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín chủ yếu hướng vào
sản xuất nông nghiệp. Những năm gần đây, khi nền kinh tế thị trường phát
triển, người dân trong thôn đã phát huy lợi thế nghề thêu truyền thống của cha
ông để lại chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh giá trị sản xuất tiểu thủ
công nghiệp, đưa sản phẩm thêu vươn tới thị trường xuất khẩu tiềm năng.
Khơng có lịch sử lâu đời như thêu Quất Động, Thắng Lợi, Dũng Tiến...
nghề thêu ở thơn Xóm Bến được du nhập vào khoảng gần 100 năm nay.
Trước năm 1986, đa số người dân trong thôn đều thành thạo kỹ thuật thêu và
có khơng ít những tay kim tài hoa với những tác phẩm đặc sắc, thổi hồn vào
mỗi bức tranh thêu. Các sản phẩm thêu không chỉ phục vụ thị trường trong
nước mà đã tìm được thị trường xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông
Âu, đưa giá trị tiểu thủ công nghiệp của thôn chiếm trên 20%.

Vốn năng động nắm bắt thị trường, người dân thơn Xóm Bến đã tìm
kiếm một thị trường xuất khẩu mới là thêu vải áo kimônô cho người Nhật.
Nghề thêu không vất vả, nhưng địi hỏi sự khéo léo của đơi tay người thợ. Có
thể tự hào rằng, những bức tranh phong cảnh quê hương, đất nước, tranh tứ
bình... của người thợ nơi đây không chỉ thể hiện với những nét hài hồ, tinh tế
mà cịn đạt giá trị nghệ thuật. Những người thợ đang thả hồn vào từng đường
thêu. Mỗi bức tranh thêu là một chủ đề về quê hương, đất nước hay đó là
khơng khí ngày mùa. Khi xem những bức tranh thêu này, người xem có cảm
nhận như đang tận mắt chứng kiến sự việc đang diễn ra. Do có sự kết hợp
giữa thêu truyền thống với kỹ thuật thêu áo kimônô nên tay nghề của người

8


Website: Email : Tel : 0918.775.368

thợ Xóm Bến càng trở nên điêu luyện. Nhìn những sản phẩm Kimono Nhật
Bản, Hàn Phục với đường nét thêu tinh xảo mới thấy hết sự khéo léo, sáng tạo
của người thợ thêu Xóm Bến. Đây là yếu tố quan trọng giúp các sản phẩm
thêu của Xóm Bến vươn tới thị trường xuất khẩu tiềm năng. Nhiều sản phẩm
thêu truyền thống được xuất khẩu sang thị trường Tây Âu, Mỹ, Canađa,
Singapore, Hàn Quốc...vv. Trong đó, thị trường xuất khẩu sang Hàn Quốc
chiếm tới 60%.
Nghề thêu phát triển đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động
địa phương, giúp người dân từng bước cải thiện cuộc sống với mức thu nhập
bình quân đạt 600-800.000 đồng/ người/ tháng. Nghề thêu đã góp phần tăng
thu nhập cho các hộ gia đình, bộ mặt nơng thơn ở Xóm Bền có nhiều đổi thay.
Hiện tại trong thơn khơng cịn hộ đói, số hộ nghèo theo tiêu chí mới chỉ cịn 2
hộ, 100% hộ dân sử dụng các phương tiện nghe nhìn, đường làng ngõ xóm
được bê tơng hố, sạch đẹp. Nhiều ngơi nhà cao tầng khang trang mọc lên

đang vươn cao cùng nhịp sống sôi động của một làng nghề.

II. Làng nghề khảm trai Chuyên Mỹ
Xã Chuyên Mỹ, Phú Xuyên cách Hà Nội khoảng 46km có một làng tên
là Ngọ Hạ, cịn gọi là Chn Ngọ, nơi có nghề khảm trai nổi tiếng từ lâu đời.
Theo truyền thuyết nghề khảm ở Chuyên Mỹ do Trương Công Thành một vị
tướng dưới thời Lý, truyền dạy cho dân. Nhớ tới công đức của ông, dân
Chuyên Mỹ tôn ông là tổ nghề khảm.
Từ những vỏ trai, vỏ ốc tưởng như vô dụng những người thợ khảm
Chuyên Mỹ với bàn tay tài hoa, khéo léo có thể tạo ra bất kỳ họa tiết nào dù
tinh vi phức tạp đến đâu. Trước đây, người thợ Chuyên Mỹ chủ yếu làm
hoành phi, câu đối và trang trí một số đồ gỗ sang trọng như sập gụ tủ chè.
Ngày nay theo nhu cầu của thị trường, các sản phẩm Chuyên Mỹ đa dạng với

9


Website: Email : Tel : 0918.775.368

chất lượng cao thoả mãn nhu cầu của thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Du khách đến đây ngày một đông để chiêm ngưỡng những sản phẩm độc đáo.

III.

Làng khảm trai Chuôn Ngọ

Làng nghề thủ cơng Chn Ngọ nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Tây. Ðây là cái
nôi của một môn nghệ thuật tinh hoa của Việt nam: nghề khảm trai.
Sự tinh tế và lòng say mê nghề đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận của
người dân nơi đây và được truyền từ đời này qua đời khác. Ơng Trương Cơng

Thành chính là ơng tổ của nghề này.
Dưới triều Lý, ơng là một người có văn võ song tồn và từng tham gia
vào độị quân của Lý Thường Kiệt đánh đuổi quân xâm lược và nhiều lần
được phong thưởng. Sau khi dời qn đội, ơng đã dành cả phần đời cịn lại để
nghiên cứu, tìm hiểu và học nghề khảm trai. Gia tài mà Trương Cơng Thành
để lại và cịn tồn tại đến ngày nay đó là nghề khảm trai ở làng Chuôn Ngọ.
Sản phẩm của ba nghệ nhân của làng Chuôn Ngọ đã được trao huy
chương vàng. Họ là những nghệ nhân có đơi bàn tay khéo léo, con mắt mỹ
thuật tinh tế và bộ óc đầy sáng tạo. Họ là hiện thân của câu nói: "Những nghệ
nhân khảm trai dường như nhập hồn mình vào trong mỗi tác phẩm".
Trong đền thờ Thành Hoàng Làng bên cạnh bụi tre hàng trăm năm tuổi
có một bức hồnh phi trên đó có khắch dòng chữ được tạm dịch là: "Người
dân làng Ngọ luôn biết ơn mảnh đất thiêng liêng này đã cho dân làng cuộc
sống thịnh vượng nhờ có nghề truyền thống của tổ tiên và nguyện sẽ phát
triển nó mãi mãi ".

10


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nguyễn Thuyết Trình, một nghệ nhân đạt huy chương vàng nói: "Trước
đây, hầu hết những sản phẩm của làng là khảm trai trên các khay trà trong
triều đình và khảm trên những chiếc bàn tiệc của vua, chúa và hoàng hậu.
"Chiếc khay khảm trai được đặt trên những chiếc sập khảm trai là những
biểu tượng cho sự sang trọng và có địa vị" và chỉ những người giàu có và các
nhà nho mới có được những vật đó. Khảm trai cịn được sử dụng trong những
ngôi nhà xây dựng theo kiến trúc cổ: họ đã khảm cừ lên những vòm mái với
những viên ngói màu xanh của hồng thành.".
Chn là làng đầu tiên làm nghề khảm trai và được khách hàng tín nhiệm

bởi chất lượng sản phẩm. Bên cạnh là làng Ngọ Hà nổi tiếng với nghề sơn
mài. Hai cái tên của hai làng nghề này gắn với nhau tượng trưng cho một
Chuyên Mỹ.
Khi nhắc đến Chuôn Ngọ, bạn không thể không nhắc đến bảy làng nghề
của xã. Nghề khảm trai đã đưa làng thốt khỏi cảnh nghèo nàn và có nhiều hộ
gia đình được coi là "giàu có".
Khảm xà cừ hay cẩn xà cừ là một nghề thủ công lâu đời của Việt Nam.
Nghề này từ xưa đã khá phát triển, vì có nguồn nguyên liệu dồi dào bởi Việt
Nam là một quốc gia có địa thế nằm trải dài theo bờ biển. Làng nghề Chn
Ngọ ở phía Bắc tỉnh Hà Tây là cái nôi của nghề khảm xà cừ Việt Nam. Trước
đây, hầu hết các sản phẩm khảm trai được sử dụng trong triều đình và trong
các nhà giàu, có địa vị

IV. Làng Tò He - Xuân La
Nằm cách Hà Nội chừng 30 km về phía Đơng Bắc, làng Xn La lặng
lẽ lưu giữ một nghề truyền thống có một khơng hai của dân tộc – nghề nặn tị
he. Đã có một thời gian dài nghề nặn tò he tưởng như đã bị mai một. Nhưng
trong những tháng năm thăng trầm, khó khăn đó, người dân Xuân La vẫn âm
11


Website: Email : Tel : 0918.775.368

thầm lặng lẽ “thổi hồn” vào những con giống tò he, để lưu giữ và phục hồi
một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc.
Nghề nặn Tò he xuất hiện và tồn tại lâu đến độ, cái tên Tị he cho đến
nay khơng ai trong làng có thể giải thích hết được đầy đủ ý nghĩa của nó.
Chỉ biết rằng chữ ấy, đơn giản là Tị he, đơn giản như chính những sản phẩm
của nghề được làm ra bởi đôi bàn tay tài hoa của những người trong làng.
Đó là những con giống, con vật gần gũi, gắn bó với người dân: 12 con Giáp:

chó, mèo, lợn, gà,.. các lồi hoa: hoa hồng, hoa cúc, hướng dương… cho đến
những hình mẫu là sản phẩm của trí tưởng tượng dân gian: Long, Ly, Quy,
Phượng…
Những con giống đơn giản đó được tạo, tác qua một q trình phức tạp,
kết hợp nhiều cơng đoạn cùng với bàn tay tài hoa và khối óc sáng tạo của
người thợ. Tò he được làm từ bột gạo nếp. Bột phải được nghiền từ thứ gạo
nếp dẻo mà trắng, tròn mà thơm. Gạo được nhặt sạch sạn, thóc… sau đó đem
nghiền mịn đến độ vê trên tay mà tay không có cảm giác. Thứ bột ấy sau đó
được cho vào nồi luộc chín. Luộc bột cũng địi hỏi kĩ thuật và kinh nghiệm.
Phải “canh” thời gian, sức lửa cho bột vừa chín tới. Nếu bột chín q thì
thành ra ướt, nhão. Sống q thì khơ, nặn sẽ nứt. Bột sau khi luộc chín sẽ
được trộn đều với phẩm màu. Mầu được chế từ thực vật nhằm tránh độc hại
cho trẻ những khi chúng đem ăn.
Qua những con giống rất đỗi bình dị được làm ra từ nguyên liệu cũng
bình dị, nhưng nó lưu giữ trong bản thân những giá trị văn hoá vật chất và
tinh thần truyền thống đặc sắc.
Nặn tò he là cả một nghệ thuật. Nghệ thuật tò he có tác dụng giáo dục
trẻ em sâu sắc, hướng thiện con người, hướng con người tìm về với những
giá trị văn hoá, nhân văn cao cả.
Nghệ nhân của làng quả khơng ít. Ơng Học giới thiệu chúng tơi tìm đến
nhà ông Thuận, ông Tố, ông Hợp, ông Nghệ, ông Thanh… họ đều thuộc
tầng lớp gạo cội của làng. Tất cả họ cũng đã từng vào Nam ra Bắc mưu sinh
12


Website: Email : Tel : 0918.775.368

cùng nghề. Cả cuộc đời gắn bó với nghề của cha ơng, với họ vui cũng đã
từng mà buồn cũng đã trải.
Những người thợ của làng chuyên cần chăm chỉ như những con ong,

ngày ngày toả đi khắp nơi để nặn bán, giới thiệu Tị he đến với mọi người
khắp từ Nam chí Bắc. Và chúng tôi tin rằng những thế hệ nối tiếp sau đó ở
Xuân La đã, sẽ và mãi mãi lưu giữ, phát triển được nghề với tất cả lòng nhiệt
huyết u nghề.
- Nghề nặn tị he đã có từ lâu đời, đó
là nghề truyền thống của người dân Xuân
La (xã Khương Dực, Phú Xuyên, Hà
Tây).
Nguyên liệu để làm tò he rất đơn
giản. Trước tiên, gạo nếp đem nghiền
nhỏ, viên lại, cho vào nồi luộc, khi bột
Các em nhỏ rất thích tị he.
nổi lên như bánh trơi, vớt ra trộn màu sao cho khéo. Thêm một chút hồ, một
ít que tre, một hộp xốp để cắm cây tò he cùng đôi tay khéo léo là mỗi người
dân Xuân La đã có thể làm nghề.Những gam màu tương phản nhưng được
sử dụng rất hài hồ tạo nên những con tị he đẹp mắt, sống động.
Tị he khơng giống như những mặt hàng khác, không phải là thứ được
sản xuất hàng loạt rồi bày bán trong các cửa hàng, nó là thứ đồ chơi được
mua trực tiếp tại chỗ làm
Những con rồng, lân, chim, phượng ngộ
nghĩnh, những ông quan, ông tướng uy nghi,
hay những nàng cơng chúa kiêu sa… tất cả
những hình tượng đó được nhào nặn từ đơi bàn
tay khéo léo của các nghệ nhân làm tò he. Họ
là ai?
Với một hòm hành trang gọn nhẹ, các nghệ nhân nặn tò he thường xa nhà ít
13


Website: Email : Tel : 0918.775.368


nhất là vài ba ngày, lâu là hàng tháng trời. Họ rong ruổi trong các phiên chợ
quê, trong các ngõ xóm, phố phường. ? đâu có họ là có đám đơng trẻ nhỏ
xúm quanh. Chỉ được xem các nghệ nhân thao tác thôi, cũng đủ thấy mê rồi.
Cá biệt, có người mời họ về nhà đắp những nhân vật trong hòn non bộ, nặn
những bộ tam đa, những nhân vật trong truyền thuyết. Những lần như vậy,
họ thường được đón tiếp và trả công khá hậu hĩnh. Theo các nghệ nhân, nếu
một ca gạo chuyển thành bột, qua tay người nặn, thành sản phẩm bán thu về
có giá trị bằng 3 ca gạo. Xưa, tò he là sản phẩm mang nhiều ý nghĩa: chơi,
ăn, cúng, lễ… Cái tên “tò he” cũng tồn tại trong dân gian từ khá lâu, và
người làm nghề có ở nhiều nơi, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là làng Xuân La
(xã Phượng Dực, Phú Xuyên- Hà Tây). Ban đầu, người ta gọi tò he là đồ
chơi chim cò: các con cơng, gà, lợn, cá, trâu, bị… những con vật gần gũi với
đời sống của cư dân nông nghiệp; Nhưng về sau, sản phẩm thường được gắn
với một chiếc kèn ống sậy, đầu kèn có dính kẹo mạch nha, ngun liệu làm
bằng bột gạo hấp chín, màu sắc tươi rói và có nhiều chủng loại. Kèn có thể
phát ra một thứ âm thanh hấp dẫn, khi thổi lên có tiếng kêu ngắt qng tị…
te… tị… te. Có lẽ vì thế người ta gọi là “tị te”, sau nói chệch thành “tị he”.
Một loại sản phẩm khác khơng thuộc loại chim cị mà là các mâm bồng như:
nải chuối, đĩa xơi, chân giò, quả cau, quả hồng, quả oản… để phục vụ cho
các bà, các cô đi lễ chùa vào các ngày rằm, mồng một có màu sắc đẹp. Sản
phẩm tương đối giống đồ thực và pha thêm chút đường có thể ăn được nên
trẻ con và người lớn đều thích, thường gọi là bánh vòng hoặc “con bánh”. ?
làng Xuân La hiện nay còn truyền miệng bài đồng dao:
Tò he cụ bán mấy đồng,
Con mua một chiếc cho chồng con chơi.
Chồng con đánh hỏng thì thơi,
Con mua chiếc khác con chơi một mình.
Để nặn một tác phẩm tị he, cơng việc đầu tiên là phải chuẩn bị chất liệu
gồm: bột gạo chín pha màu phẩm. Bột gạo được pha theo tỷ lệ 1 kg gạo tẻ

14


Website: Email : Tel : 0918.775.368

với 1 lạng gạo nếp, trộn đều ngâm nước cho bở rồi đem giã hoặc xay như
xay bột cho trẻ em ăn, sau đó đem luộc hoặc đồ chín rồi bỏ ra thấu nhanh tay
cho quyện, dẻo. Nếu vào những mùa nóng hoặc trời hanh khô, phải cho bột
nếp nhiều hơn mới giữ được độ dẻo lâu. Khi bột đã thấu, mới cho tiếp các
phẩm màu vào. Ngồi các màu chính như đỏ, vàng, xanh, đen, nếu cần
những màu trung gian như hồng, ghi, cam… thì pha chế từ các màu cơ bản
trên, rồi trộn vào bột. Màu sắc của bột làm tò he trước đây được chế từ
những màu thực vật của cây cỏ, hoa lá trong thiên nhiên, nên có thể ăn được.
Màu đen đốt ở rơm ra. Màu vàng chế từ hoa hòe, hoặc củ nghệ già. Màu đỏ
lấy từ thân cây gỗ vang, hoặc chiết suất từ hoa hiên, quả dành dành… Màu
xanh chàm lấy từ là chàm. Tất cả những màu trên, sau khi chiết suất, được
pha thêm ít bột, rồi cho lên bếp quấy từ từ cho chín tới, vừa để diệt khuẩn,
vừa giữ độ bền màu. Ngồi bột là vật liệu chính ra, người làm tị he còn phải
chuẩn bị thêm một số phụ trợ khác như vòng nứa (nếu làm “bánh vòng”),
que tre (nếu làm chim cò hoặc chiến sĩ) để làm đài hoặc làm cốt. Đồ nghề để
tạo tác cũng rất đơn giản gồm: một con dao bài con, một chiếc lược chải tóc
và một miếng sáp ong.
Ở Xuân La có nhiều nghệ nhân bằng đơi bàn tay khéo léo kỳ diệu, đầu
óc quan sát, tưởng tượng phong phú có thể tạo ra những hình tượng Quan
Cơng, Lưu Bị, Trương Phi, những bộ “tam đa”, “phúc- lộc- thọ”, những
chiến sĩ bộ đội cụ Hồ, các anh hùng dân tộc như Lê Lợi, Quang Trung, Hai
Bà Trưng… Những người nặn tò he vào bậc nhất trong làng phải kể đến cụ
Đặng Văn Tố, Chu Văn Học, Nguyễn Văn Lộ; các anh Hải, Quang, Đức; bà
Tích, em Hùng… Xem họ nặn vừa nhanh, vừa đẹp, không chỉ trẻ con mà
người lớn cũng phải say lòng. Dường như họ đã “phả hồn” vào các sản phẩm

một cách khéo léo. Các nhân vật này được nặn trông rất sinh động, nhất là
khn hình bộ mặt khối lớn, nhỏ phân minh. Để làm được điều đó, trong kỹ
thuật tạo tác, người nghệ nhân dân gian đặc biệt chú ý tới sự linh hoạt của
đơi tay và phải có óc thẩm mỹ tốt. Tay véo bột cho vừa đủ liều lượng, tay vê
15


Website: Email : Tel : 0918.775.368

bột cho linh hoạt, tay dán bột tạo hình cho khéo, chính xác. Có khi họ phải
thực hiện cùng một lúc cả đắp, cả vê và chuốt.
Tò he là sản phẩm đồ chơi dân gian độc đáo, vừa mang bản sắc dân tộc,
vừa mang tính khoa học. Nó có tầm quan trọng trong cuộc sống, học tập, vui
chơi giải trí và rèn luyện tính thẩm mỹ cho trẻ em. Những người tạo tác ra
nó mặc dù chưa đủ nâng các sản phẩm của mình lên hàng mỹ nghệ (vì sản
phẩm chỉ sử dụng trong khoảng từ 10 đến 30 ngày) nhưng các sản phẩm ấy
đã để lại cho người xem những tình cảm thắm đượm. Ngơn ngữ khối trong
tị he giàu tính biểu cảm, tính nhịp điệu mang nét gợi nhớ. Nó giản dị như ca
dao, là tích tụ của trí tuệ nhân dân qua nhiều đời. Tị he thực sự là món ăn
tinh thần rất gần gũi với người dân Việt Nam.

V. Làng lụa vạn phúc
Nghề dệt lụa có từ xa xưa trên đất Việt Nam. Thế kỷ XV , lụa Việt Nam
đã theo chân các thương gia lên tàu biển đi tới bè bạn xa gần bốn phương.
Nghề dệt lụa ở Việt Nam có ở nhiều nơi, nhưng khơng thể khơng nói tới Vạn
Phúc (thị xã hà Ðơng, Hà Tây), một vùng dệt lụa thủ công lâu đời và lừng
danh của ta.
Em về Vạn Phúc cùng anh
áo lụa em mặc thêm thanh vẻ người
Về với Vạn Phúc hôm nay, mới đến đầu làng ta

đã nghe thấy tiếng dệt lụa rộn ràng và bắt gặp một
khơng khơng khí nhộn nhịp, tấp nập của cửa hàng
giới thiệu làng Vạn Phúc được đặt ngay đầu làng với
những xấp vải nhiều màu sắc.

16


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Lụa Vạn Phúc bền đẹp, khoác tấm áo lên người sẽ thấy mềm mại và nhẹ
nhàng. Cái nét đắc sắc và độc đáo ấy chính là nhờ vào đơi bàn tay khéo léo,
điêu luyện, tinh đời của ngừơi dân Vạn Phúc.
Tương truyền, bà Lã Thị Nga, một cô gái làng, từ thời Cao Biền làm tiết
độ sứ ở nước ta, vốn người Hàng Châu (Trung Quốc) theo chồng chinh chiến
Bắc Nam, rồi neo lại làng này. Nỗi nhớ quê hương da diết của bà trút hết vào
nghề tầm tang, canh cửi nơi dòng Nhuệ giang êm đềm tha thiết. Ngày nối
ngày, đời trải đời và nghề dệt trở thành “truyền thống” của làng Vạn Phúc. .
Bà đã đưa đến nghề dệt thô sơ với sản phẩm là lụa mộc mạc, bình dân. Sau
này, bà đã được bà đã được phong là thành Hoàng làng. Từ khi có go võng
(thế kỷ XVI) nghề dệt Vạn Phúc được cải tiến, phát triển mạnh mẽ và cho ra
đời nhiều mặt hàng độc đáo, cao cấp như gấm, lụa, the, lĩnh..với nhiều hoa
văn tinh tế đường nét tinh xảo.
Là làng nghề dệt lụa tơ tằm nổi tiếng từ xa xưa. Nghề dệt lụa ở Việt Nam
có ở nhiều nơi, nhưng khơng thể khơng nói tới Vạn Phúc (thị xã hà Ðông, Hà
Tây), một vùng dệt lụa thủ công lâu đời và lừng danh của ta. Lụa Vạn Phúc
bền đẹp, khoác tấm áo lên người sẽ thấy mềm mại và nhẹ nhàng. Cái nét đắc
sắc và độc đáo ấy chính là nhờ vào đơi bàn tay khéo léo, điêu luyện, tinh đời
của người dân Vạn Phúc. Trải qua bao thế hệ, lụa Vạn Phúc vẫn luôn giữ
được những thủ pháp nghệ thuật truyền thống. Hoa văn bao giờ cũng tranng

trí đối xứng, đường nét trang trí khơng rườm rà, phức tạp mà ln mềm mại,
phóng khống, dứt khốt. Ngày nay, lụa Vạn Phúc qua các thế hệ, những
nghệ nhân và thợ dệt đã không ngừng cải tiến, nâng cao kỹ thuật sản xuất. Bởi
thế, lụa Vạn Phúc dù ở loại nào cũng đạt tới mức hoàn mỹ, mịn óng, mềm mại
với màu sắc óng ánh, đường nét tinh tế khi nổi khi chìm, có loại trang nhã, có
loại rực rỡ.
Bởi vậy, lụa Vạn Phúc không chỉ được ưa chuộng ở trong nước mà đã
vượt ra ngoài lãnh thổ Việt Nam tới tay những người sành điệu bốn phương.

17


Website: Email : Tel : 0918.775.368

VI. Làng mây tre đan Phú Vinh
Vị trí
Làng mây tre đan Phú Vinh thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, cách
thị xã Hà Đông 15km theo quốc lộ 6.

.

Đặc điểm
Là làng nghề mây tre đan nổi tiếng với những sản phẩm kiểu dáng phong
phú Ở Phú Vinh, gia đình nào cũng có người làm hàng mây tre. Nghề mây tre
đã giải quyết được việc làm cho người dân lúc nông nhàn, việc làm cho phụ
nữ, trẻ em và người tàn tật. Nhờ vậy cuộc sống của người dân Phú Vinh
tương đối khá giả. Hàng mây tre đan của Phú Vinh có tới hàng trăm mẫu mã,
có loại địi hỏi kỹ thuật rất cao như tranh chân dung, phong cảnh, hoành phi,
câu đối, chim thú... Nhìn những mặt hàng này tưởng như được thêu bằng nan.


18


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Có loại cần sự khéo tay và cũng rất công phu như lẵng hoa quả, khay đĩa,
làn, cặp, mũ, chao đèn... với nhiều kiểu dáng phong phú. Có loại thuộc nhóm
sản phẩm gia dụng, kích thước lớn... Các mặt hàng mây tre đan của Phú Vinh
đang cung cấp cho nhiều nước trên thế giới. Đến Phú Vinh, du khách không
chỉ thăm một làng nghề truyền thống đã nổi tiếng mà còn là dịp vãn cảnh một
làng quê của nông thôn Việt Nam ở vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng.
400 năm về trước, nghề mây tre đan đã được ra đời ở thôn Phú Vinh, xã
Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây và tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Từ những nguyên liệu thô, mộc, qua bàn tay của những người dân nơi đây,
các sản phẩm phục vụ cho cuộc sống đã ra đời. Khơng chỉ đóng góp cho cuộc
sống những vật dụng tiện ích, những nghệ nhân của làng cịn biết cách tạo ra
những sản phẩm có giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật rất ấn tượng.
"Nghề mây tre đan Phú Vinh tồn tại và phát triển hơn 400 năm nay, phát
triển mạnh nhất là từ năm 1995 trở lại đây. Ngày trước chỉ có làng mây tre
đan Phú Vinh, bây giờ cả huyện đã có 33 xã thị trấn, xã nào cũng đang sản
xuất mây tre đan. Nghề mây tre đan không kén tất cả các tay nghề, chỉ cần có
đơi bàn tay khéo léo và óc sáng tạo là có thể làm được. Nghề mang lại thu
nhập tương đối ổn định so với các ngành nghề khác ngành mây tre đan mang
lại thu nhập lớn cho người dân địa phương".

19


Website: Email : Tel : 0918.775.368


Nghề mây tre đan của Phú vinh phát triển đã giúp cho cuộc sống người
dân được cải thiện và từng bước đi lên. Đến hôm nay, làng nghề Phú Vinh đã
được người dân khắp mọi nơi biết tiếng, người làng Phú Vinh đã khơng cịn
nghèo đói, khổ cực. Tất cả những thành quả ấy đều là nhờ tinh thần lao động
không biết mệt mỏi của người dân trong làng và thêm vào đó là các chính
sách hỗ trợ phát triển của các cấp lãnh đạo, đưa sản phẩm của làng nghề đến
với những bạn bè quốc tế
Làng nghề mây tre Phú Vinh lâu đời nhất trong số bảy làng nghề truyền
thống thuộc xã Phú Nghĩa, Chương Mỹ (Hà Tây).
Làng nghề mây Chương Mỹ
Ở huyện Chương Mỹ (Hà Tây) có làng Phú Vinh nổi tiếng về nghề mây
từ lâu đời. Nhân dân ta xưa nay đều coi đất Phú Vinh là "xứ Mây", là quê
hương của mây đan với những sản phẩm mỹ nghệ bằng mây đạt tới tỉnh cao
nghệ thuật tạo hình dân gian của Việt Nam. Người Phú Vinh cha truyền con
nối, đến nay đã sáng tạo được 180 mẫu hàng, xuất khẩu là chủ yếu gồm đủ
mọi thứ: đĩa mây, lẵng mây, làn mây, chậu mây, bát mây...
* Đĩa mây: gồm đĩa trịn, đĩa bát giác, đĩa rua miệng, đĩa vng, đĩa chữ
nhật, đĩa bán nguyệt, đĩa vỏ dưa, đĩa hoa muống, đĩa lót trịn...

* Bát mây: có bát răng cưa, bát rua miệng, bát trơn mộc, bát đáy dày...
* Chậu mây: có chậu đứng cong, chậu thắt suốt, chậu thau...
* Lẵng mây: lẵng xách tay, lẵng bán nguyệt, lẵng quai chai...
* Làn mây: làn viên trụ, làn chữ nhật, làn kép, làn đơn...
20



×