Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề ở huyện Chương Mỹ - Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.04 KB, 78 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta có số lượng nghề, làng nghề rất lớn, hình thành và phát triển khắp cả
nước nằm rải rác theo các triền đê và ven các dòng sông lớn và tập trung đông nhất
tại vùng Đồng Bằng Bắc Bộ với trăm nghề và hàng nghìn làng nghề lâu đời và nổi
tiếng như: Gốm sứ có Bát Tràng, Hương Canh, Phù Lãng, Thổ Hà...; tơ lụa có Vạn
Phúc, Vân Phương...; tranh dân gian có Đông Hồ, hàng Trống, Kim Hoàng,... Sản
phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam có nét riêng độc đáo đến mức tên của sản phẩm
luôn kèm theo tên của làng làm ra nó, sản phẩm nổi tiếng cũng làm cho làng nghề tạo
ra nó nổi tiếng.
Lịch sử phát triển văn hóa cũng như lịch sử phát triển kinh tế nước nhà luôn
gắn liền với lịch sử phát triển của làng nghề Việt Nam. Bởi những sản phẩm thủ công
mỹ nghệ không chỉ là những vật phẩm văn hóa hay vật phẩm kinh tế thuần túy cho
sinh hoạt bình thường hàng ngày mà nó chính là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu
cho nền văn hóa xã hội, cho mức phát triển kinh tế, cho trình độ dân trí và đặc điểm
nhân văn của dân tộc. Điều đặc biệt nữa là các làng nghề không chỉ đơn thuần sản
xuất ra những sản phẩm hàng hóa như trong một công xưởng sản xuất mà nó là cả
một môi trường văn hóa, kinh tế, xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời. Nó bảo
lưu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, được thể
hiện qua bàn tay, khối óc của các thế hệ nghệ nhân tài năng với những sản phẩm
mang bản sắc riêng của mình nhưng lại tiêu biểu cho cả dân tộc Việt Nam. Ở mỗi
làng nghề xưa và nay tự nó đã mang trong mình hai yếu tố cơ bản: Truyền thống văn
hóa và truyền thống nghề nghiệp. Hai yếu tố này hòa quyện không tách rời nhau tạo
nên văn hóa làng nghề nói riêng và văn hóa Việt nam nói chung.
Nằm trong khu vực đồng bằng sông hồng, thành phố Hà Nội mở rộng là nơi
có nhiều làng nghề đang hoạt động, đặc biệt là làng nghề truyền thống. Trong đó
huyện Chương Mỹ cũng là một trong những nơi cần thiết và có điều kiện phát triển
làng nghề truyền thống. Huyện Chương Mỹ hiện có 174 làng nghề, chủ yếu là mây
tre đan. Các làng nghề mây tre đan ở Chương Mỹ được coi là một trong những cụm
làng nghề lớn nhất Thành phố. Chỉ riêng trong vùng chậm lũ của huyện Chương Mỹ
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A


1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đã có 21 làng nghề làm mây tre đan xuất khẩu, trong tổng số 31 làng nghề trong
vùng. Thu nhập bình quân của các làng nghề khoảng 13 - 15 triệu đồng/người/năm,
trong khi thu nhập thuần nông chỉ vào khoảng 6 triệu đồng/người/năm. Các sản phẩm
mây tre đan truyền thống chủ yếu được sản xuất tập trung ở các xã Phú Nghĩa,
Trường Yên, Đông Sơn, Đông Phương Yên, Trung Hòa… Các làng nghề truyền
thống còn lại gồm nhóm nghề thêu, nón lá, điêu khắc, mộc, chế biến nông sản, trong
đó nghề nón lá có 5 làng, tập trung ở các xã Văn Võ, Đông Phương Yên, Đồng Phú,
Tiên Phương, Phú Vinh; nghề mộc, điêu khắc có 1 làng, nghề thêu 1 làng, chế biến
nông sản 1 làng. Hiện nay, Sở Công Thương Hà Nội và huyện Chương Mỹ đang xây
dựng đề án phát triển 20 làng thuần nông của Huyện thành làng có nghề và phát triển
mới 36 làng nghề. Vì vậy trong thời gian thực tập ở sở Công thương thành phố Hà
Nội em đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề ở huyện
Chương Mỹ - Hà Nội ” với mong muốn được góp một phần nhỏ bé của mình vào
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ
1. Bản chất đặc điểm của làng nghề
1.1. Khái niệm về làng nghề
- Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum,
sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động
ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Nói đến làng nghề ta thường nghĩ ngay đến những làng làm nghề thủ công
truyền thống như làng nghề lụa Vạn Phúc, làng gốm Bát Tràng, làng tranh Đông Hồ.
Nghề thủ công là nghề sản xuất chủ yếu bằng tay và công cụ giản đơn với con mắt và
bộ óc của nghệ nhân và thợ kỹ thuật. Đối với mỗi nghề được xếp vào các nghề thủ
công truyền thống, nhất thiết phải có các yếu tố sau:

Một là, đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta hoặc là một nghề
mới từ địa phương khác mang đến song được các nghệ nhân ở nơi cũ truyền đạt lại
kinh nghiệm và kỹ sảo kinh nghiệm.
Hai là, sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề.
Ba là, có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề.
Bốn là, kỹ thuật sản xuất tinh vi, chứa nhiều yếu tố kinh nghiệm từ đời sang
đời khác và công nghệ khá ổn định.
Năm là, sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước hoàn toàn hoặc chủ yếu nhất.
Nhìn chung nghề truyền thống được hình thành gắn liền với điều kiện tự nhiên của
vùng (đất đai, khí hậu, môi trường…) và như vậy nó gắn bó với vùng nguyên liệu có
tình đặc thù cho sản xuất.
Sáu là, sản phẩm sản xuất ra mang tính chất độc đáo vừa là hàng hoá, vừa là
sản phẩm văn hoá văn nghệ kỹ thuật mỹ thuật mang bản sắc văn hoá dân tộc, có giá
trị chất lượng cao và có vị trí cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Bảy là, là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân cư của cộng đồng, có
đóng góp đáng kể về kinh tế và ngân sách nhà nước, đồng thời nó còn sử dụng lao
động nhàn rỗi trong nông nghiệp nông thôn và lao dộng thành thị.
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:
(a) có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề
nông thôn;
(b) hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 02 năm tính đến thời điểm
đề nghị công nhận;
(c) chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Làng nghề truyền thống được công nhận phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít
nhất một nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư này. Đối với những làng chưa
đạt tiêu chí công nhận làng nghề (theo tiêu chí (a) và (b) trên đây) nhưng có ít nhất
một nghề truyền thống được công nhận theo quy định của Thông tư này thì cũng

được công nhận là làng nghề truyền thống.
Năm 2009 UBND TP Hà Nội vừa có Quyết định 85/2009/QĐ-UBND ban hành
quy chế xét công nhận danh hiệu “Làng nghề truyền thống Hà Nội”. Theo đó, làng
nghề được công nhận danh hiệu làng nghề truyền thống phải có đủ các tiêu chuẩn:
nghề được hình thành trên 50 năm tính đến ngày làng được đề nghị xét danh hiệu; có
giá trị sản xuất từ ngành nghề nông thôn của làng chiếm tỷ trọng từ 50% trở lên so
với tổng giá trị sản xuất của làng; có tối thiểu 30% số hộ trên địa bàn tham gia hoạt
động ngành nghề nông thôn; sản phẩm làm ra phải mang bản sắc văn hóa dân tộc,
gắn với tên tuổi của làng. Mỗi làng nghề truyền thống được công nhận một lần và có
giá trị ngang nhau.
Thống kê của Sở Công thương Hà Nội, sau khi mở rộng địa giới hành chính, Hà
Nội có 1.264 làng nghề, trong đó Hà Nội cũ có 84 làng và Hà Tây cũ có 1.180 làng.
1.2. Đặc điểm của làng nghề
- Làng nghề phản ánh cuộc sống của cư dân nông nghiệp gắn liền với cơ chế
sản xuất mùa vụ, mang đặc trưng của chế độ làng xã, trong đó bao gồm cả yếu tố
dòng họ. Thực tế cho thấy, làng nghề gắn liền với các địa danh nông nghiệp cận vùng
thị tứ, thương nghiệp và người nông dân làm nghề thủ công để giải quyết hợp lý sức
lao động dư thừa được cơ cấu theo đặc trưng nông nghiệp là mùa vụ. Mặt khác, từ
sản phẩm, chúng ta cũng nhận thấy gốc tích nông nghiệp như nguyên vật liệu, công
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cụ chế tác, giá trị sử dụng và đặc biệt là tính chuyên dụng, sinh hoạt cộng đồng của
cư dân nông nghiệp trên các sản phẩm đó. Chúng ta thấy mỗi nghề gắn liền với mỗi
cộng đồng cư dân được cư trú ổn định trong quy mô làng xã. Nét đặc trưng này phản
ánh sự phong phú, đa dạng của làng nghề trong hệ thống làng xã nông thôn.
- Ổn định về một nghề hay một số nghề có quan hệ mật thiết với nhau trong quá
trình sản xuất ra một loại sản phẩm. Thường thì mỗi làng nghề đều gắn với một nghề
đặc trưng sản xuất ra sản phẩm riêng của làng nghề đó. Ví dụ như làng gốm Bát
Tràng chuyên sản xuất ra các loại gốm sứ, làng Phú Vinh chuyên sản xuất các loại

mây tre đan…
- Sản phẩm sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu. Công nghệ sản xuất ở làng
nghề thường rất thô sơ lạc hâụ sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu. Các sản phẩm
chủ yếu dựa vào khả năng khéo léo của những người thợ, nghệ nhân. Công cụ lao
động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công, công nghệ sản xuất mang tính đơn
chiếc. Nhiều loại sản phẩm có công nghệ- kỹ thuật hoàn toàn dựa vào đôi bàn tay khéo léo
của người thợ mặc dù hiện nay đã có sự cơ khí hóa và điện khí hóa từng bước trong sản
xuất, song cũng chỉ có một số không nhiều nghề có khả năng cơ giới hóa được một số
công đoạn trong sản xuất sản phẩm.
- Đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề là tại chỗ. Hầu hết các làng nghề
truyền thống được hình thành xuất phát từ sự sắn có của nguồn nguyên vật liệu sẵn có tại
chỗ, trên địa bàn địa phương. Cũng có thể có một số nguyên liệu phải nhập từ vùng khác
hoặc từ nước ngoài như một số loại chỉ thêu, thuốc nhuộm… song không nhiều.
- Có một đội ngũ nghệ nhân và thợ với tay nghề cao, có bí quyết nghề nghiệp
được lưu truyền lại cho con cháu hoặc các thế hệ sau. Phương pháp truyền nghề chủ
yếu được thực hiện theo phương thức dòng tộc, làng xã. Điều đầu tiên phải nói đến
đó là các “quy lệ” của các làng nghề. Quy lệ là cách gọi khác của những quy ước,
luật lệ để gìn giữ bí quyết nghề, bảo tồn nghề của dòng họ, của cộng đồng làng xã.
Có thể nói là hầu hết các nghề thủ công đều có bí quyết. Việc giữ “bí quyết nghề”
không chỉ đơn thuần là giữ nghề mà còn chi phối cả các quan hệ xã hội khác, như
quan hệ hôn nhân, hoặc việc truyền nghề chỉ đóng khung trong một số đối tượng cụ
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thể, như truyền cho con trai, hoặc chỉ truyền cho con trưởng hoặc cháu đích tôn.
Người học nghề được gọi là thợ con và phải ứng xử theo đạo “thầy trò”, rất khuôn
phép… Những quy lệ này được hình thành từ những ước lệ đến quy ước miệng rồi
thành văn như hương ước, lệ làng.
- Các loại sản phẩm thường có một số sản phẩm mang tính nghệ thuật cao. Mặt
khác, sản phẩm thường không phải do sản xuất hàng loạt mà có tính đơn chiếc nên có

tính độc đáo và khác biệt cao. Các sản phẩm của làng nghề truyền thống là sự kết
tinh, sự bảo lưu và phát triển của các giá trị văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc.
Làng nghề chứa đựng trong nó những yếu tố nhân văn và giá trị văn hóa truyền thống
quý giá. Như mạch nước ngầm, làng nghề truyền thống là một biểu tượng văn hoá
bền bỉ, đậm đà bản sắc riêng.
sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề mang tính
đơn
chiếc, có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Các sản phẩm
làng nghề truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều
loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa,
công sở Nhà nước... Nó thể hiện sức sáng tạo của các nghệ nhân, được sản xuất một
cách thủ công và mang tính truyền thống thường magn tính cá biệt và có sắc thái riêng
của mỗi làng nghề. Các sản
phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh
xảo với sự
sáng tạo nghệ thuật. Cùng là đồ gốm sứ, nhưng người ta vẫn có thể
phân
biệt được đâu là gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh),
Đông Triều (Quảng
Ninh). Từ những con rồng chạm trổ ở các đình
chùa, hoa văn trên các trống đồng và
các hoạ tiết trên đồ gốm sứ đến những nét chấm phá trên các bức thêu... tất cả đều mang
vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hoá tinh thần, quan niệm về
nhân văn và tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc.
-

Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là ở
quy mô hộ gia
đình, người chủ gia đình thường đồng thời là thợ cả mà trong số họ không ít nghệ
nhân, còn những thành viên trong hộ được huy động vào làm những việc khác nhau

trong quá trình sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào khả năng kỹ thuật của từng người,
vào giới tính hay lứa tuổi. Gia đình có thể thuê mướn lao động trong và ngoài làng.
Cá biệt có những lao động ở ngoại tỉnh thường xuyên hoặc theo thời vụ, tạo thành
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
một số làng nghề ở vùng lân cận. Một số cơ sở đã có sự phát triển thành tổ chức hợp
tác và doanh nghiệp tư nhân.
1.3. Sự hình thành và phát triển của làng nghề
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiêp từ hàng ngàn năm trước
đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam, việc hình
thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư dân tranh thủ làm lúc
nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính.
Bởi lẽ trước đây kinh tế của người Việt cổ chủ yếu sống dựa vào việc trồng lúa
nước mà nghề làm lúa không phải lúc nào cũng có việc. Thông thường chỉ những
ngày đầu vụ, hay những ngày cuối vụ thì người nông dân mới có việc làm nhiều, vất
vả như: cày bừa, cấy, làm cỏ (đầu vụ) cho đến gặt lúa, phơi khô... còn những ngày
còn lại thì nhà nông rất nhàn hạ, rất ít việc để làm. Từ đó nhiều người đã bắt đầu tìm
kiếm thêm công việc phụ để làm nhằm mục đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và
những nhu cầu thiết yếu hằng ngày về sau là tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó, mang
lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng mây, tre, lụa...
phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ chỗ chỉ phục vụ
nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho
người dân vốn trước đây chỉ trông chờ vào các vụ lúa. Từ chỗ một vài nhà trong làng
làm, nhiều gia đình khác cũng học làm theo, nghề từ đó mà lan rộng ra phát triển
trong cả làng, hay nhiều làng gần nhau.
Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem lại mà
trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì phát triển mạnh
dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp với làng thì dần dần

bị mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng nghề chuyen sâu vào một nghề
duy nhất nào đó, như làng Gốm, làng làm chiếu, làng làm lụa, làng làm đồ đồng...
Những phát hiện về khảo cổ học, những cứ liệu lịch sử đã chứng minh được các
làng nghề Việt Nam đã ra đời từ hàng ngàn năm trước đây. Các làng nghề thường tập
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trung chủ yếu ở các vùng châu thổ sông lớn như châu thổ sông Hồng, tại Hà Nội, Bắc
Ninh, Thái Bình, Nam Định ...
Sự hình thành và phát triển làng nghề thường qua những cách thức sau:
-
Phần lớn các làng nghề được hình thành trên cơ sở có
những nghệ nhân, với
nhiều lý do khác nhau đã từ nơi khác đến truyền nghề cho dân làng.
- Một số làng nghề hình thành từ một số cá nhân hay gia đình có những kỹ năng và
sự sáng tạo nhất định. Từ sự sáng tạo của họ, quy trình sản xuất và sản phẩm không
ngừng được bổ sung và hoàn thiện. Rồi họ truyền nghề cho dân cư trong làng, làm cho
nghề đó ngày càng lan truyền ra khắp làng và tạo thành làng nghề.
- Một số làng nghề hình thành do có những người đi nơi khác học nghề rồi về dạy
lại cho những người khác trong gia đình, dòng họ và mở rộng dần phạm vi ra khắp làng.
- Do các địa phương
thực hiện chủ trương phát triển nghề phụ trong các hợp
tác xã nông
nghiệp.
- Có một số làng nghề đang được hình thành trên cơ sở sự lan toả dần từ một số
làng nghề truyền thống, tạo thành một cụm làng nghề trên một vùng lãnh thổ lân cận với
làng nghề truyền thống.
2. Phân loại và các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề
2.1. Phân loại theo tính chất nghề
- Làng nghề sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ có tiềm năng xuất khẩu: gốm

sứ, sơn mài, tranh thuê, mây tre đan…đây là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, có tính
nghệ thuật lớn thường được xuất khẩu và có thể phát triển được một cách rộng rãi.
- Làng nghề chế biến lương thực thực phẩm: bún, bánh, cốm… Đây là một loại
hình làng nghề phổ biến ở nông thôn. Sản phẩm tao ra có hương vị và đặc trưng
riêng, nguyên vật liệu để cung cấp khá phong phú. Sản phẩm đáp ứng được nhu cầu
thương thức của người dân nên có thể phát triển và tồn tại lâu dài.
- Làng nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng: dệt vải, dệt chiếu, làm nón, quạt
giấy… Các sản phẩm này thì thương bị sự chèn ép của sự phát triển khoa học công
nghê, sản phẩm làng nghề tạo ra khó có thê cạnh tranh với các sản phẩm công nghệ
cao. Nhìn chung thì các làng nghề này đang bị mai một dần.
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Làng nghề phục vụ cho sản xuất & đời sống: rèn, mộc… các sản phẩm này
ngày càng đa dạng và được ưa chuộng đặc biệt là các sản phẩm nghề mộc ngày càng
phát triển vươn tới những thị trương xa hơn tạo ra thu nhập lớn cho người dân làng
nghề.
- Các nghề như trồng hoa, cây cảnh… Các ngành nghề này cũng ngày được phát
triển vì đây là nghề rất phù hợp với người dân nông nghiệp vùng đô thị. Với đặc thù
của nông nghiệp đô thị là quỹ đất canh tác ít, nếu chỉ đầu tư vào trồng lúa hay trồng
các loại cây khác với khung thời vụ dài, năng suất lại thấp thì giá trị thu nhập trên
đơn vị diện tích thấp hơn nhiều so với trồng hoa cây canh..
Việc phân loại làng nghề cũng chỉ mang tính tương đối vì một số sản phẩm có
thê thuộc nhiều nhóm. Sự phân loại làng nghề tạo thuân lơi cho việc nghiên cứu, quy
hoạch để phát triển các nhóm ngành nghề kinh tế.
Ngoài ra, Làng nghề có thể chia ra thành 14 nhóm như sau:
(1) Mây tre đan; kể cả sản phẩm đan lát, bện thủ công (kể cả bàn nghế, nón lá);
(2) Cói
(3) Gốm sứ;
(4) Sơn mài, khảm trai;

(5) Thêu, ren;
(6) Dệt (vải, khăn tay, áo, khăn quàng, kể cả dệt thổ cẩm);
(7) Đồ gỗ (đồ mộc dân dụng, gỗ mỹ nghệ, điêu khắc gỗ, làm trống);
(8) Đá mỹ nghệ;
(9) Giấy thủ công;
(10) Tranh nghệ thuật (bằng hoa khô, tre hun khói, lá khô, ốc… ); hoa các loại bằng
vải, lụa, giấy;
(11) Trò chơi dân gian (sản xuất và biểu diễn rối cạn, rối nước, tò he)
(12) Sản phẩm kim khí (đồ đồng, sắt, nhôm … sản xuất và tái chế);
(13) Chế biến nông sản, thực phẩm (các loại nước chấm, bún bánh, miến dong,
đường, mật, mạch nha, rượu, trà, kể cả đóng giày da);
(14) Cây cảnh (gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh).
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Việc phân nhóm trên đây chỉ là quy ước; vì cho đến nay, chúng ta chưa có
nghiên cứu đầy đủ về phương pháp luận phân nhóm làng nghề. Năm 2004, Dự án của
Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) hợp tác với Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chỉ phân 11 nhóm ngành nghề thủ công nghiệp, không đề cập các làng như
chế biến nông sản thực phẩm, cây cảnh … Có thể thấy: do nhu cầu của thị trường, có
những ngành nghề mới đã xuất hiện và hình thành làng, làm phong phú thêm danh
mục các làng nghề.
2.2. Phân loại theo thời gian hình thành, phát triển:
* Làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống hình thành là do các nghệ nhân truyền nghề lại cho các
thế hệ sau. Các làng nghề ở vùng đồng bằng bắc bộ chủ yếu là các làng nghề truyền
thống có lịch sử đến vài trăm năm và 1000 năm. Những nghệ nhân truyền nghề lại
cho các thế hệ sau được suy tôn là tổ nghề. Lụa Hà Đông, với làng dệt lụa Vạn Phúc
nổi tiếng từ thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, do bà Lã Thị Nga - tổ nghề - truyền dạy
cho dân làng. Làng Gốm Bát Tràng có lịch sử hình thành, phát triển đã 500 năm nay.,

làng nghề mây tre đan ở Chương Mỹ cũng có lịch sử hình thành khoảng 400 năm.
Làng nghề truyền thống ra đời và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Ví dụ như La Khê có làng nghề dệt the phục vụ chủ yếu cho nhu cầu may mặc của
dân cư.
Ngày nay, sự biến động của thị trường có tác động mạnh mẽ tới các làng
nghề, các làng nghề truyền thống phát triển theo các xu thế:
- Nhóm các làng nghề bị mai một dần do các sản phẩm không được ưa chuộng
trên thị trường, không đáp ứng được nhu cầu thị trường như làng Chuông, làm nón lá,
làng nghề đan quạt nan, mành cọ, đan rổ rá ví dụ như ở Chương Mỹ làng Phú Hữu
làm nón lá cũng đang bị mai một dần.
Có hai Xu thế phát triển của nhóm làng nghề này là, thứ nhất nếu không thể
khôi phục và phát triển nghề cũ thì làng nghề có thể chuyển sang làm các nghề mới,
có đặc điểm sản xuất phù hợp với người thợ thủ công. Thứ hai, có thể tìm thị trường
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tiêu thụ mới, hoặc giá trị sử dụng mới cho sản phẩm làng nghề như phát triển du lịch
làng nghề…
- Nhóm các làng nghề truyền thống cần được bảo tồn như làng nghề đúc đồng,
nghề nặn Tò He, làng vẽ tranh dân gian…Sản phẩm không có giá trị hàng hóa cao
nhưng mang yếu tố truyền thống văn hóa dân gian cần được bảo tồn để không bị thất
truyền.
- Nhóm các làng nghề truyền thống phát triển tốt do sản phẩm phù hợp với
nhu cầu của thị trường như các làng dệt, làng nghề chế biến nông sản, gốm sứ, làm
đồ gỗ nội thất, hàng mây tre đan…
Tuy nhiên, không phải cứ ngành nghề nào kém phát triển thì mọi làng nghề
làm nghề đó đều bị mai một, tan rã đi, mà có thể có làng nghề sản xuất mặt hàng đó
vẫn tồn tại và có khi còn phát triển được. Ví dụ như trong khi làng gốm Thổ Hà (Bắc
Ninh) bị sa sút mạnh mẽ thì làng nghề Gốm Bát Tràng (Hà Nội) lại phát triển lan toả
ra cả một vùng lân cận tạo nên xã nghề. Mặt khác, những làng nghề có xu hướng phát

triển tốt cũng luôn phải đối diện với những khó khăn như sự cạnh tranh khốc liệt của
lụa tơ tằm Vạn Phúc với lụa tơ tằm công nghiệp của Trung Quốc về mẫu mã cũng
như chất lượng vải và các đặc tính nổi trội như độ bóng, độ nhàu, độ dai… Chính vì
vậy, đòi hỏi các làng nghề cần phải luôn luôn cố gắng đổi mới công nghệ sản xuất,
nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã để đáp ứng nhu cầu thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất
cho ai, đều do thị trường quyết định. Hay nói cách khác, là sản xuất và bán cái mà
người ta cần chứ không phải sản xuất và bán cái mà mình có.Vậy cái chính ở đây là
sản phẩm của làng nghề phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường về kiểu dáng, chất
lượng, giá cả thì mới có cơ hội phát triển được.
* Làng nghê mới.
Làng nghề mới được hình thành chủ yếu do sức ép về kinh tế thúc đẩy sự hình
thành làng nghề mới ra đời. Các làng nghề mới thường được hình thành ở những nơi
nghề nông dân không có điều kiện phát triển, đặc biệt là các vùng ven các đô thị lớn
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
người dân bị mất đất sản xuất đê thay vào đó là các khu công nghiệp, khu đô thị,
đường giao thông người nông dân bi mất đi đất canh tác của mình dẫn đến thất
nghiệp vì vậy công việc cấp thiết là cần phải tạo ra công ăn việc làm cho những
người nông dân bị thất nghiệp này để họ ổn định cuộc sống và không trở thành gánh
nặng cho xã hội. Nghề thủ công truyền thống là một trong những lựa chọn phù hợp
nhất vì nghề này có nhiều công đoạn cần sử dụng nhiều lao động, thời gian đào tạo
để biết làm nghề về cơ bản là ngắn và thích hợp với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi lao
động. Mặt khác, đặc điểm của nghề nông là sau khi trồng trọt, chăm bón cần một
khoảng thời gian cho cây hấp thụ tăng trưởng, đó chính là những lúc người nông dân
rỗi rãi, nông nhàn. Tận dụng thời gian này để làm nghề thủ công tăng thu nhập thì
thật là thích hợp. Các con đường hình thành nghề mới:
- làng nghề hình thành nhờ sự lan tỏa và phát triển của các làng nghề ở các vùng

lân cận.
- Làng nghề mới hình thành do chủ trương của các cơ quan nhà nước hình thành
các làng thuần nông thành các làng có nghề. Bằng cách cấy nghê mới phù hợp với
làng. Mời các nghệ nhân, thợ thủ công lành nghề ở địa phương khác về dạy nghề và
phổ biến kinh nghiệm sản xuất cho dân địa phương.
- Một số làng nghề cũ mà sản phẩm không còn phù hợp với thị trường bị mai
một dần chuyển sang làm nghề mới phù hợp với thị trường và với kỹ thuật tay nghề
khéo léo của đội ngũ thợ thủ công sẵn có trong làng để bù đắp khoản thu nhập đã bị
mất do nghề cũ.
- Một số làng nghề hình thành từ một số cá nhân hay gia đình có những kỹ năng
và có sự sáng tạo nhất định. Từ sự sáng tạo đó, quy trình sản xuất và sản phẩm của
họ không ngừng được hoàn thiện.
Những làng nghề mới được hình thành chủ yếu là những nghề có tiềm năng
phát triển nên sản phẩm ít nhiều đã có chỗ đứng trên thị trường. Tuy nhiên, như ta đã
biết chất lượng của sản phẩm nghề truyền thống chịu ảnh hưởng rất lớn vào tay nghề
kỹ thuật của các nghệ nhân. Làng nghề mới thì đội ngũ nghệ nhân lành nghề được
đào tạo bài bản không nhiều, trong khi đó các bí quyết công nghệ kỹ thuật ở các
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LNTT thường được truyền từ đời này sang đời khác có tính chất gia truyền. Do đó,
sản phẩm của các làng nghề mới sản xuất ra thường không tinh tế bằng sản phẩm của
làng nghề gốc làm ra, dẫn đến giá trị sản phẩm trên thị trường cũng thấp hơn hẳn.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề
* Nhóm nhân tố xã hội
- Truyền thống: Thực tế cho thấy các làng nghề tồn tại và phát triển được do
có sự kế tục đời con đời cháu, nghề được bâc tiền bối truyền cho lớp hậu sinh. Điều
đó thể hiện qua các “quy lệ” của các làng nghề. Quy lệ là cách gọi khác của những
quy ước, luật lệ để gìn giữ bí quyết nghề, bảo tồn nghề của dòng họ, của cộng đồng
làng xã. Có thể nói là hầu hết các nghề thủ công đều có bí quyết. Việc giữ “bí quyết

nghề” không chỉ đơn thuần là giữ nghề mà còn chi phối cả các quan hệ xã hội khác,
như quan hệ hôn nhân, hoặc việc truyền nghề chỉ đóng khung trong một số đối tượng
cụ thể, như truyền cho con trai, hoặc chỉ truyền cho con trưởng hoặc cháu đích tôn.
Người học nghề được gọi là thợ con và phải ứng xử theo đạo “thầy trò”, rất khuôn
phép… Những quy lệ này được hình thành từ những ước lệ đến quy ước miệng rồi
thành văn như hương ước, lệ làng. Điều này đã tạo ra một trật tự trong làng nghề và
những nét văn hóa đặc thù. Nhưng trong nền kinh tế thị trường với khoa học công
nghệ phát triển như hiện nay thì vấn đề đặt ra là làm sao để đưa khoa học, kỹ thuật
vào mà vẫn giữ được yếu tố truyền thống và được sự chấp nhận của xã hội.
- Chính sách của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại và phát triển
của làng nghề. Từ việc hỗ trợ cho khâu sản xuất cho đến việc tìm đầu ra cho sản
phẩm của làng nghề mở rộng thị trường xuất khẩu ra nước ngoài. Chủ chương của
chính phủ chú trọng đến việc phát triển cáclàng nghề ban hành các chính sách như hỗ
trợ tín dụng ưu tiên cho DN nhỏ và vừa, làng nghề nông thôn, với hỗ trợ lãi suất cho
các tổ chức cá nhân vay vốn ngân hang để sản xuất kinh doanh… Thời gian gần đây,
Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để hỗ trợ các DN khắc phục khó
khăn, trong đó có DN làng nghề. Đó là việc hỗ trợ lãi suất 4% cho các tổ chức, cá
nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất, kinh doanh. Tiếp đó, các tổ chức, cá nhân được
vay vốn trung, dài hạn của ngân hàng để đầu tư mới sản xuất kinh doanh, xây dựng
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
kết cấu hạ tầng trong thời gian tối đa là 24 tháng. Chính phủ cũng đã có quyết định
về việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông
nghiệp..., nhiều loại được hỗ trợ 100% lãi suất vay; thời hạn từ 12-24 tháng. Quy
định mới này đã tạo điều kiện cho DN thực hiện các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng,
tranh thủ thời cơ mua sắm thiết bị máy móc, đổi mới công nghệ phục vụ cho việc
phát triển sản xuất kinh doanh khi kinh tế hồi phục. Quy chế bảo lãnh cho DN vay
vốn đã được sửa đổi, bổ sung về đối tượng, phạm vi, điều kiện và thời hạn bảo lãnh
vay, có thêm nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp. Vì thực tế, có nhiều DN làng nghề có

nợ quá hạn, nhưng đã có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh và cam kết trả
được nợ quá hạn nên vẫn được bảo lãnh vay vốn. Một số chính sách nêu trên đã đi
vào cuộc sống, góp phần tạo nên những chuyển biến tích cực của nền kinh tế, được
DN làng nghề hoan nghênh. Nhưng vấn đề có ý nghĩa quyết định hiện nay là việc tổ
chức thực hiện, sao cho các chính sách ấy được thực thi "đúng thời gian, đúng mục
tiêu, đúng đối tượng". Tuy nhiên, đến nay số DN làng nghề tiếp cận được các nguồn
vốn kích cầu chưa nhiều. Bên cạnh đó, yếu tố thị trường cũng đang dần được tháo
gỡ. Chính phủ đã có nhiều biện pháp hỗ trợ xúc tiến thương mại nhằm quảng bá sản
phẩm làng nghề, với tổng kinh phí năm 2009 khoảng 3-5 tỷ đồng. Gần đây nhất, ngày
21/5, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định nâng mức hỗ trợ cho các chương trình xúc
tiến thương mại, trong đó có việc hỗ trợ tối đa 100% chi phí tuyên truyền, quảng bá
sản phẩm tại các hội chợ thương mại...Các chính sách của nhà nước đối với làng
nghề có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của làng nghề.
*Nhóm nhân tố kinh tế
- Cở sở hạ tầng: điện, thủy lợi, giao thông, y tế, bưu chính viễn thông, giáo
dục… Giao thông: làng nghề hay các cụm làng nghề được hình thành hầu hết đều
gắn liền với vùng nguyên liệu tại chỗ và thuận lợi với giao thông. Sự thuân lợi về
giao thông tạo điều kiện cho việc giao lưu và buôn bán hàng hóa dễ dàng và thuận
tiện hơn. Với những làng nghề không có nguyên liệu tại địa phương thì giao thông
thuận lợi lại càng quan trọng hơn. Vì vậy đê phát triển làng nghề thì việc đầu tư vào
xây dựng hệ thống giao thông là rất quan trọng.
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ngoài giao thông ra thì hệ thống trường học, y tế, bưu chính viễn thông cũng rất
quan trọng. Tuy không trực tiếp tạo ra của cải cho làng nghề nhưng cũng không thể
thiếu trong sự phát triển chung của làng nghề.
Điện năng cũng là một yếu tố không thể thiếu trong việc đưa công nghệ, khoa
học kỹ thuật tiên tiến đến với làng nghề tạo điều kiện cho sự phát triển làng nghề.
Cơ sở hạ tầng là một yếu tố quan trọng nó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển

của làng nghề.
Hiện nay nhà nước khuyến khích các địa phương huy động mọi nguồn lực và tổ
chức thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển cơ sở hạ tầng đường giao thông
nông thôn, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn. Cho ta thấy cơ sở hạ tầng có ảnh
hưởng rất lớn đến phát triển làng nghề.
- Vốn cho sản xuất:Vốn là một yếu tố quan trọng đảm bảo cho quá trình sản
xuất kinh doanh. Có thể chia nhu cầu về vốn của doanh nghiệp làng nghề ra thành 3
loại, đó là: những doanh nghiệp sản xuất nhỏ lẻ, tự lo được vốn; doanh nghiệp làm
hàng gia công ký gửi, vốn thường do doanh nghiệp gia công ứng trước, có khi đến
40-50% và doanh nghiệp thu gom hàng hóa là đầu ra của các doanh nghiệp nói trên.
Trong đó, loại doanh nghiệp trực tiếp thu gom hàng hóa làng nghề để xuất khẩu và
tiêu thụ trong nước là cần đến nhiều vốn hơn cả. Để phát triển làng nghề thì làng
nghề phải có vốn lớn để đầu tư vào máy móc, công nghệ, thuê nhân công nâng cao
chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy vốn là một nhân tố
ảnh hưởng rất lớn trong quá trình phát triển làng nghề.
- Nguyên vật liệu: thường gắn liền với chất lượng sản phẩm đầu ra. Tính chất
đa dạng của sản phẩm làng nghề tạo nên sự phong phú về các loại nguyên liệu đầu
vào. Giá cả, chất lượng nguyên vật liệu đầu vào có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành
và chất lượng sản phẩm đầu ra.
Như ở Hà Nội, theo Sở Công Thương Hà Nội, hiện nay nguyên liệu sản xuất
cho các làng nghề Hà Nội đang khan hiếm khiến các hộ không chủ động được sản
xuất kinh doanh. Ước tính có tới 80% nguyên liệu phụ thuộc vào tỉnh ngoài và nhập
khẩu. Các nguyên liệu chính như sắt thép, tơ sợi, len nhập từ Trung Quốc; gỗ nhập từ
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lào, các tỉnh miền Trung và Tây Bắc; mây tre giang nhập từ Sơn La, Lai Châu... Một
số sản phẩm sản xuất từ nguyên liệu trong nước như chế biến nông sản thực phẩm
cũng phụ thuộc vào thời vụ. Như vậy sẽ phải tăng chi phí vận chuyển nguyên vật liệu
dẫn tới giá thành sản phẩm cao.

Vì vậy để hoạt động kinh doanh sản xuất có hiệu quả thì doanh nghiệp làng
nghề phải chú trọng vào khâu quy hoạch và tìm nguồn nguyên vật liệu cho làng
nghề.
- Trình độ khoa học, kỹ thuật: Các sản phẩm làm ra của các làng nghề đã đáp
ứng thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế sản
xuất của các làng nghề vẫn chưa cao. Quy mô sản xuất nhỏ, chủ yếu sản xuất thủ
công, chưa áp dụng các tiến bộ khoa học vào trong sản xuất, cho nên, chi phí quá lớn
và sản phẩm chưa đạt chất lượng cao, mẫu mã còn nghèo nàn, thật sự chưa đáp ứng
được nhu cầu cạnh tranh trên thị trường.Vì vậy, để đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng
được nhu cầu trong nước và xuất khẩu thì làng nghề phải đổi mới trang thiết bị thay
thế máy móc cũ, lạc hậu năng suất thấp. Nhờ đó, các doanh nghiệp và các cơ sở làng
nghề bước đầu tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, góp phần vào việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng thu nhập cho người lao động ở nhiều vùng
nông thôn, thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
Ngoài ra, cần phải áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào việc
xử
lý ô nhiễm môi trường làng nghề. Các làng nghề cũng phải tiếp cận với các giải pháp
kỹ thuật, công nghệ sản xuất sạch hơn nhằm phòng ngừa phát sinh chất thải và biện
pháp xử lý chất thải. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mâu thuẫn giữa lợi ích
kinh tế và bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất của làng nghề đạt tới mức độ
cao, đòi hỏi có sự can thiệp của Nhà nước về mặt thể chế, chính sách để làng nghề
phát triển bền vững.
3. Vai trò của làng nghề với sự phát triển kinh tế xã hội
- Tăng tổng sản lượng giá trị hàng hóa cho nền kinh tế: hang năm làng nghế
sản xuất ra một số lượng hàng hóa lớn đóng góp đáng kể cho nền kinh tế. năm 2000,
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ VN mới đạt 274 triệu USD, thì năm
2006 đã đạt khoảng 650 triệu USD, khoảng 750 triệu USD năm 2007; gần 1,0 tỷ

USD năm 2008 bán ra trên 100 nước và vùng lãnh thổ, chưa kể hai ngành gỗ, da giày
xuất khẩu mỗi năm hàng tỉ USD đều có đóng góp rất lớn của các làng nghề. Ở Hà
Nội trong số hơn 1.200 làng nghề, có gần 100 làng nghề đạt doanh số 10 – 20 tỷ
đồng/năm, 70 làng nghề đạt 20–50 tỷ đồng/năm, 20 làng nghề đạt trên 50 tỷ
đồng/năm. Đặc biệt, một số làng nghề đạt doanh số rất cao như làng gốm sứ Bát
Tràng đạt 283 tỷ đồng/năm; làng nghề La Phù (huyện Hoài Đức) chuyên dệt kim và
làm bánh kẹo đạt 587 tỷ đồng/năm; làng nghề mộc Vạn Điểm (huyện Thường Tín)
đạt 105 tỷ đồng... Vì vậy làng nghề là một nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế nông
thôn.
- Thu hút vốn bên ngoài và sử dụng nguồn vốn hiệu quả trong dân. Từng gia
đình, từng hộ thì số vốn tự có là không lớn nhưng với số đông nguồn vốn được sử
dụng sẽ là rất lớn. Nguồn vốn trong dân không chỉ là tiền mà còn là vốn cố định trong
xây dựng cơ bản.
- Giải quyết việc làm: làng nghề đã thu hút nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm
cho người lao động, thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn. Trong khi
dân số ngày càng tăng đặc biệt là khu vực nông nghiệp nơi chiếm khoảng hơn 70%
dân số cả nước. Như ở Hà Nội với hàng chục nhóm ngành nghề đang có hướng phát
triển mạnh như gốm sứ, dệt may, da giày, điêu khắc, khảm trai, thêu ren, sơn mài,
mây tre đan, dát vàng bạc quỳ, đúc đồng, kim hoàn, chế biến nông sản thực phẩm, cơ
kim khí, các làng nghề của Hà Nội đã thu hút được gần 1 triệu lao động tham gia sản
xuất, chiếm hơn 64% tổng số lao động trong độ tuổi của làng và chiếm hơn 42% tổng
số lao động sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên toàn thành phố với thu
nhập bình quân tăng thêm khoảng 700.000 đ/người/tháng.
Một trong những lý do quan trọng phải vực các làng nghề là để giải quyết việc
làm cho người lao động, đặc biệt là người bị thu hồi đất, góp phần ổn định trật tự xã
hội và đẩy nhanh tiến độ GPMB các dự án. Hiện nay, trên địa bàn Hà Tây (cũ) đang
triển khai hàng loạt dự án giao thông, đô thị, công nghiệp với diện tích phải thu hồi
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

hàng nghìn héc-ta. Từ nay đến năm 2010, Quốc Oai sẽ có khoảng 4.500 ha đất nông
nghiệp/7.200 ha đất chuyển thành đất đô thị và đất phi nông nghiệp khác, 7/20 xã của
huyện sẽ hết toàn bộ đất nông nghiệp. Huyện Thạch Thất cũng phải thu hồi tới hơn
3.000 ha đất, trong đó đất nông nghiệp chiếm khoảng hơn 2.000 ha của gần 20 nghìn
hộ dân (bao gồm gần 400 nghìn lao động), trong đó có tới gần 10 nghìn hộ bị thu hồi
toàn bộ diện tích đất nông nghiệp. Quận Hà Đông và các huyện khác cũng trong tình
trạng tương tự nên vấn đề giải quyết việc làm, đào tạo nghề mới cho người lao động
nói riêng và người bị thu hồi đất nói chung đang là vấn đề bức thiết. Theo Sở Công
thương Hà Nội: khu vực Hà Tây cũ có 1.180 làng có nghề/1.460 làng, đã đóng góp
khoảng 35% giá trị sản xuất CN-TTCN, 60% kim ngạch xuất khẩu và giải quyết việc
làm cho hơn 1 triệu lao động nông thôn. Vì vậy, “cứu” làng nghề còn là “cứu” hơn 1
triệu lao động đang có nguy cơ mất việc làm và góp phần làm ổn định trật tự xã hội ở
các làng quê.
Như vậy, với sự phát triển ngành nghề truyền thống ở nông thôn, thu nhập của
người dân ngày càng được nâng cao từ sản xuất hàng hoá phi nông nghiệp, thu hút
một bộ phận lớn nông dân chuyển hẳn sang hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp
theo phương châm “ly nông bất ly hương”. Và cũng có tác động lớn trong việc tạo
việc làm cho nông dân vào các tháng nông nhàn. Điều này có tác động lớn hạn chế
dòng người ồ ạt tự phát kéo ra các thành phố, thị xã gây ra hậu quả khó lường.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp: Trong giai
đoạn đất nước đang tăng tốc phát triển kinh tế bằng cách tập trung đầu tư phát triển
những ngành nghề công nghiệp hiện đại tại các khu đô thị và nỗ lực phấn đấu phát
huy mọi nguồn sức mạnh, tận dụng mọi lợi thế và nguồn lực để phát triển CN -
TTCN - XDCB nhằm công nghiệp hoá kinh tế nông thôn. Ví dụ như năm 2009, giá
trị sản xuất của các làng nghề Hà Nội đã đạt khoảng 7.000 tỷ đồng, chiếm khoảng
10% tổng giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp toàn thành phố. Phát
triển LNTT nông thôn góp phần tăng trưởng, tạo ra khối lượng hàng hoá đa dạng và
phong phú phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, là một trong những nội dung quan trọng
đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A

18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu tổng sản phẩm
trong nước.
Việc khôi phục các nghề và các làng nghề, phát triển các làng nghề mới, sản
phẩm mới, các doanh nghiệp nhỏ, các ngành nghề ở nông thôn một mặt tạo ra việc
làm, tăng thu nhập và sức mua cho người dân nông thôn, mặt khác đóng vai trò tích
cực trong việc thay đổi tập quán sản xuất từ sản xuất nhỏ, phân tán, độc canh tự cung
tự cấp sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá, đa canh, kết hợp sản xuất nông nghiệp
với công nghiệp dịch vụ, thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường hàng hoá, thị
trường vốn, thị trường lao động trong nông thôn.
Sự phát triển làng nghề tạo điều kiện cho công nghiệp, dịch vụ phát triển làm
giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp phù hơp với quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa của nước ta.
- Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc: Các mặt hàng thủ công truyền thống của
các làng nghề có nhiều tiềm năng về thị trường trong nước và quốc tế, đặc biệt nếu
kết hợp chặt chẽ với ngành du lịch. Giá trị của các làng nghề không chỉ là tạo ra công
ăn việc làm thu nhập cho người lao động hay các giá trị kinh tế khác, mà làng nghề
còn có giá trị về văn hóa, lịch sử vô cùng quan trọng. Nghề và làng nghề truyền thống
còn là nơi gặp gỡ giữa kỹ thuật và nghệ thuật. Như vậy, nghề và làng nghề là nơi lưu
giữ và thể hiện bản sắc văn hóa một cách đầy đủ và tinh tế, lưu truyền từ thế hệ này
đến thế hệ khác. Làng nghề thủ công truyền thống với các bí quyết nghề nghiệp riêng
là sản phẩm độc đáo của nền văn hóa Việt Nam. Đó là một cộng đồng có sự liên kết
chặt chẽ bởi những mối liên hệ chằng chịt về lãnh thổ, huyết thống, kinh tế, văn hóa
và tâm linh. Đây là nơi hiện lưu giữ kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô
cùng phong phú, nơi biểu hiện cụ thể, sinh động bản sắc văn hóa dân tộc.
* Một số tác động tiêu cực: làng nghề ngày càng phát triển cũng kéo theo rất
nhiều tác động tiêu cực đặc biệt là vấn đề về môi trường quanh làng nghề là một vấn
đề rất nhức nhối.
- Chất thải của làng nghề làm gia tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường: Sự khôi

phục và phát triển của các làng nghề sản xuất vật liệu kim loại trong những năm gần
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đây đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong sự phát triển kinh tế- xã hội của các
địa phương, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động phổ thông, góp phần nâng cao
chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Những ưu điểm mang tính đặc thù của sản xuất
làng nghề như sự linh động trong quản lý sản xuất-kinh doanh, sự phân công tự nhiên
giữa các hộ về cung cấp và bao tiêu nguyên liệu, sản phẩm, đã tạo điều kiện thúc đẩy
quá trình cạnh tranh và hỗ trợ lẫn nhau giữa các hộ sản xuất. Các sản phẩm từ làng
nghề chiếm một tỉ trọng đáng kể trên thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên,
những tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái và sức khoẻ cộng đồng cũng đang
trở thành những vấn đề bức xúc ở các khu vực này, mà các nguyên nhân chính gây
nên tình trạng này là:
+ Công nghệ sản xuất lạc hậu; điều kiện cơ sở hạ tầng, trình độ lao động và mặt
bằng dân trí thấp; những hạn chế về khả năng đầu tư, điều kiện cạnh tranh trên thị
trường ... làm tăng mức phát thải, lãng phí vật tư và ô nhiễm môi trường.
+Lực lượng lao động thủ công còn chiếm tỷ lệ cao trong lực lượng lao động ở
các làng nghề, điều đó góp phần giảm giá thành sản phẩm nhưng lại làm tăng áp lực
về dân số ở khu vực làng nghề, tác động tới môi trường KT-XH.
+Những hạn chế trong tổ chức quản lý, ý thức và trách nhiệm của cộng đồng đã
cản trở việc thực hiện các biện pháp quản lý và bảo vệ môi trường (BVMT) ở các
làng nghề. Trong khi đó chúng ta chưa có các biện pháp quản lý và xử lý môi trường
hiệu quả.
Có thể lấy các kết quả nghiên cứu môi trường ở khu vực sản xuất xã Tân Tiến,
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội làm ví dụ. Đến nay, quy mô của làng nghề ở
Tân Tiến ngày càng phát triển với 973 hộ sản xuất bao gồm các nghề: mây tre đan,
đồ gỗ... Nguyên liệu đầu vào chủ yếu là mây, tre. Các loại gỗ lấy từ vùng nguyên liệu
của huyện và các tỉnh lân cận như Hòa Bình, Phú Thọ.
Hầu hết diện tích đất ở và phần đất hai bên trục đường liên xã. Các xưởng được

xây dựng rất sơ sài, đồng thời là nơi tập kết nguyên - vật liệu, sản phẩm. Diện tích
thao tác chật hẹp; hệ thống điện nước lắp đặt tuỳ tiện, không an toàn; không có hệ
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thống cấp nước, thu gom nước thải từ các hộ sản xuất; các loại chất thải đều được
dân đổ ra phía sau các nơi sản xuất.
Máy móc, thiết bị sử dụng trong các làng nghề hầu hết là loại cũ, mua từ Trung
Quốc hoặc mua thanh lý từ các nhà máy của Việt Nam, một số là sản phẩm tự tạo.
Các thiết bị này lạc hậu, chắp vá, năng suất thấp và mức độ gây ô nhiễm môi trường
cao. Với sự phát triển về qui mô, cơ sở hạ tầng yếu kém, công nghệ lạc hậu cùng với
ở đây không có một biện pháp giảm thiểu tác động môi trường nào dù là đơn giản
nhất được áp dụng nên môi trường ở Tân Tiến đã bị tác động khá nặng nề.
Thứ nhất: Tác động tới môi trường đất, nước, không khí. Tải lượng các loại chất
thải từ các hoạt động sản xuất trong 1 ngày của các làng nghề xã Tân Tiến qua điều
tra cho thấy: nước thải của làng nghề này không được xử lý và xả thẳng ra cống rãnh,
mùi lưu huỳnh, cống rãnh và rác thải sinh hoạt, bãi chôn lấp rác thải ở xã Tân Tiến.
Môi trường đất chịu tác động của các chất độc hại từ các nguồn thải đổ bừa bãi và
nước mưa bị nhiễm bẩn ngấm xuống. Dải đất canh tác phía sau các hộ sản xuất đều
bị bỏ hoang do ô nhiễm. Hàng năm mỗi hộ lấn ra xung quanh khoảng 20-50 m2 bằng
các loại chất thải rắn.Ước tính trong khoảng 5 đến 7 năm tới, diện tích mặt nước và
đất canh tác liền kề các hộ sản xuất sẽ bị san lấp hoàn toàn hoặc không sử dụng được.
Nước thải, nước mưa mang theo các chất độc hại làm ô nhiễm hệ thống nước mặt,
nước ngầm
Thứ hai: Tác động tới môi trường sinh thái-cảnh quan. Các hoạt động sản xuất
của làng nghề đã làm ô nhiễm và thay đổi hoàn toàn môi trường sinh thái, cảnh quan
khu vực. Vật tư, sản phẩm và các loại chất thải đổ xung quanh nơi sản xuất và cả trên
đường giao thông; các nhà ở và xưởng xen nhau, bụi, mức ồn cao và liên tục..., đã tạo
nên một khung cảnh hỗn loạn và ô nhiễm. Đất canh tác và các ao hồ trong làng đã
hoặc đang bị lấp dần bởi chất thải, không sử dụng được vào mục đích nào khác. Ở

một số ao nuôi cá đã có hiện tượng cá bị chết hàng loạt.
Thứ ba: Môi trường lao động. An toàn và sức khoẻ của nguời lao động trong
làng nghề không được đảm bảo. Số giờ làm việc liên tục trung bình mỗi ngày 10 – 12
giờ trong điều kiện diện tích làm việc chật hẹp, mức ô nhiễm cao. Trong các nhà
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
xưởng không có sự chuẩn bị nào cho an toàn cháy nổ, mặc dù ở khắp làng đều tiềm
tàng những nguy cơ gây cháy do nguyện vật liệu là các sản phẩm dễ cháy không
được bảo quản đúng quy định.
Thứ tư: Tác động tới sức khoẻ cộng đồng. Tất cả các yếu tố trên tác động trực
tiếp và thường xuyên tới người lao động và dân cư trong làng nghề. Các loại bệnh
đường hô hấp, ngoài da... chiếm tỷ lệ trên 20% tổng số dân cư trong khu vực làng
nghề. Đặc biệt là tỷ lệ mắc các bệnh trên ở nhóm người tham gia sản xuất và không
tham gia sản xuất tương đương nhau.
Tóm lại, từ các kết quả nghiên cứu môi trường ở các làng nghề ở xã Tân Tiến
cũng như ở một số xã khác của huyện Chương Mỹ đã cho thấy rõ các vấn đề môi
trường bức xúc tại các làng nghề ở nước ta.
Để khắc phục tình trạng này, chúng ta phải thực hiện tốt việc quản lý và BVMT.
Chúng tôi cho rằng các địa phương có làng nghề cần sớm tiến hành những biện pháp
về quản lý và kỹ thuật cụ thể, phù hợp với quy mô và khả năng của mình.
4. Kinh Nghiệm phát Triển làng nghề nông thôn ở một số nước trên thế giới
Trung quốc: nghề thủ công ở Trung Quốc có từ lâu đời và nổi tiếng như đồ
gốm, dệt vải, dệt lụa tơ tằm, luyện kim, nghề làm giấy. Đầu thế kỷ XX Trung Quốc
có khoảng 10 triệu thợ thủ công làm việc trong các làng nghề, trong các hộ gia đình.
Đến năm 1953, số người làm TTCN được tổ chức vào HTX (sau phát triển thành xí
nghiệp Hương Trấn).
Xí nghiệp Hương Trấn là tên chung chỉ loại hình doanh nghiệp tập thể do chính
quyền hoặc tập thể nông dân ở các hương và trấn />%E1%BA%A5n_(Trung_Qu%E1%BB%91c)ở Trung Quốc thành lập từ sau cải cách
1978. Đây là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc rất nhỏ. Có tới 99% xí nghiệp

hương trấn có không quá 50 lao động. Chính quyền Trung Quốc xếp các doanh
nghiệp này vào một khu vực riêng. Năm 1997, Trung Quốc ban hành Luật Xí nghiệp
hương trấn để điều chỉnh khu vực này.Trong suốt hai mươi năm đầu tiên từ khi mở
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cửa, các xí nghiệp hương trấn là một trong những khu vực năng động nhất trong nền
kinh tế Trung Quốc và có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Trong những năm hoàng kim
(1985-95), tổng giá trị sản lượng của khu vực này tăng với tốc độ bình quân hàng
năm là 24,7% theo giá cố định (38,1% theo giá thực tế) Năm 1995, tỷ trọng của khu
vực này trong GNP của Trung Quốc là 25,5%, trong tổng giá trị sản lượng công
nghiệp là 55,8% và trong tổng giá trị xuất khẩu là 49,5%.
Mặc dù đóng tại khu vực nông thôn, song hầu hết các xí nghiệp hương trấn hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp, ngoài ra còn trong lĩnh vực nông nghiệp, thương
nghiệp, vận tải, xây dựng.
Xí nghiệp hương trấn có thể do chính quyền các hương và trấn thành lập. Giang
Tô là nơi tiêu biểu cho kiểu xí nghiệp hương trấn này.
Xí nghiệp hương trấn cũng có thể do tập thể nông dân thành lập. Ôn Châu là
nơi tiêu biểu cho kiểu này.
Kiểu xí nghiệp hương trấn thứ ba là kiểu có sự tham gia của vốn nước ngoài.
Theo luật pháp Trung Quốc thời kỳ mới cải cách thì các xí nghiệp có vốn nước ngoài
đều phải hướng vào xuất khẩu, vì thế các doanh nghiệp này đều lấy thị trường) nước
ngoài làm thị trường chính. Miền Nam Trung Quốc, nhất là Quảng Đông là nơi tiêu
biểu cho kiểu xí nghiệp hương trấn này.
Xí nghiệp Hương Trấn phát triển mạnh mẽ, thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo của
Trung Quốc trong quá trình thực hiện chiến lược CNH, lựa chọn con đường đi lên
CNXH.
Nhật Bản: nhằm mục đích thúc đẩy mạnh phát triển các sản phẩm thủ công đặc
trưng của mỗi vùng. Trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá nền kinh tế đất nước,
ngành nghề thủ công Nhật bản bị phân hoá và phát triển theo hai hướng: một số

ngành tiểu thủ công nghiệp đi lên CNH (chiếm ưu thế); một số khác tiếp tục theo
hướng thủ công truyền thống. Bước vào những năm 1970, nhu cầu về hàng hoá tiêu
dùng từ chỗ coi trọng tính hợp lý cơ năng, chuyển sang xu hướng đa dạng hoá và đề
cao cá tính, coi trọng chất lượng, tính độc đáo hơn là số lượng theo kiểu tiêu chuẩn
hoá đồng loạt. Các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu và một số tài nguyên thiên nhiên
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khác trên thế giới vào những năm đó khiến Chính phủ Nhật Bản phải suy nghĩ lại về
giá trị của các nghề thủ công truyền thống đã tồn tại lâu đời, sử dụng tài nguyên tiết
kiệm, hiệu quả. Trong khi đó hàng thủ công truyền thống Nhật Bản mất dần khả năng
cạnh tranh so với hàng tiêu dùng sản xuất bằng công nghiệp, lại vấp phải hàng loạt
khó khăn về thông tin thị trường, tiêu thụ, nguồn nguyên vật liệu tự nhiên, vấn đề ô
nhiễm môi trường, nguồn nhân lực bị hút ra thành thị, vào các ngành sản xuất hiện
đại hoá ... Vì thế các ngành nghề thủ công Nhật Bản đã bị suy thoái.
Trong bối cảnh đó Nghị viện Nhật Bản năm 1974 đã ban hành Luật Phát triển
nghề thủ công truyền thống. Được sự hỗ trợ của Chính phủ, phong trào “mỗi làng
một sản phẩm” được khai sinh tại quận Oita vào năm 1979 với ý tưởng làm sống lại
các ngành nghề thủ công truyền thống. Có hai khẩu hiệu nổi tiếng là: “Nghĩ về tổng
thể, hành động ở địa phương” và “Độc lập và sáng tạo”. Nhờ phong trào, một số sản
phẩm truyền thống của Oita trở thành nổi tiếng không chỉ trong Nhật bản, mà còn cả
trên thị trường nhiều nước.
Từ thành công của quận Oita, sau 5 năm phát động cả nước Nhật đã có 20 quận
hưởng ứng với các dự án tương tự như “sản phẩm của làng”, “chương trình phát triển
thành phố quê hương”, “chương trình làm sống lại địa phương”.... Tinh thần của
phong trào này còn hấp dẫn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
Thái Lan có tên gọi “One Tambon, One Product” hay còn gọi là “Thai Tambon
Project” (tiếng Thái “Tambon” nghĩa là “làng”), được phát động sau khi Thủ tướng
Thái Lan đi thăm cửa hàng “One Village, One Product” tại Nhật Bản. Chương trình
này được giới thiệu tại Thái lan vào năm 1999 và chính thức đi vào hoạt động vào

tháng 10 năm 2001. Trong chương trình này, Chính phủ Thái Lan hỗ trợ để mỗi làng
làm ra một sản phẩm tiêu biểu, đặc trưng và có chất lượng cao, chủ yếu hỗ trợ ở khâu
tiếp thị, xúc tiến bán hàng, huấn luyện và chuyển giao công nghệ cho nông dân.
Chính phủ Thái Lan cho biết chỉ trong 4 tháng đầu năm 2002 chương trình này đã
đem lại 3,66 tỷ Baht (84,2 triệu USD) lợi nhuận cho nông dân. Năm 2003 doanh số
bán hàng của các làng tham gia Chương trình “mỗi làng một sản phẩm” đã đạt mức
30,8 tỷ Baht, tăng 13% so với năm 2002. Dự kiến đạt 40 tỷ Baht trong năm 2004 và
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhờ phong trào này mà nhiều người nước ngoài đã biết đến sản phẩm thủ công của
Thái Lan
* Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam:
Từ thực tiễn phát triển làng nghề ở một số nước trên, chúng ta có thể rút ra một
số kinh nghiệm sau:
- Phát triển làng nghề gắn với quá trình CNH nông thôn. Khi tiến hành CNH họ
thường kết hợp thủ công với kỹ thuật cơ khí hiện đại tuỳ điều kiện cơ sở vật chất của
mỗi nước mà áp dụng công nghệ cổ truyền hay công nghệ hiện đại. Đồng thời tổ
chức các cơ sở sản xuất gần vùng nguyên liệu và đặt tại làng xã có truyền thống để
tiện cho việc phát triển sản xuất, giao lưu hàng hoá.
- Chú trọng đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông thôn. Đầu tư cho giáo
dục và đào tạo tay nghề cho người lao động để họ tiếp thu được kỹ thuật tiên tiến.
- Để nâng cao vai trò của nhà nước trong việc giúp đỡ, hỗ trợ về tài chính cho
làng nghề phát triển sản xuất kinh doanh.
- Nhà nước có chính sách thuế và thị trường phù hợp để thúc đẩy làng nghề phát
triển.i đôi với việc hỗ trợ tài chính, tín dụng là chính sách thuế và thị trường của Nhà
nước để khuyến khích làng nghề, ngành nghề truyền thống phát triển.
- Khuyến khích sự kết hợp giữa công nghiệp và TTCN và trung tâm công
nghiệp với làng nghề.Để tạo dựng cho mối quan hệ này, ở hầu hết các nước đều thiết
lập chương trình kết hợp giữa các trung tâm công nghiệp với làng nghề

.
Nguyễn Tuấn Thanh Lớp: Kinh tế phát triển 48A
25

×