Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.22 KB, 28 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Với tư cách là một trong những nội dung chủ yếu của quá trình Công
nghiệp hóa, vấn đề Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì Công
nghiệp hoá luôn được các nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm sâu sắc. Các
công trình nghiên cứu về kinh tế học phát triển, về những bài học kinh
nghiệm Công nghiệp hoá của các nước “đi trước”, các phân tích chính sách
Công nghiệp hoá khuyến nghị cho những nước đang phát triển “đi sau”
hiện nay…đều coi vấn đề Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một trong
những điểm trọng tâm của thời kì Công nghiệp hoá.
Ở Việt Nam, vấn đề Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì
Công nghiệp hóa đã được quan tâm từ rất lâu. Chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế là vấn đề mang ý nghĩa chiến lược, tầm vóc lớn lao cả về phương
diện lí luận lẫn thực tiễn đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi mà chúng ta
đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, em đã chọn đề tài này nhằm tìm
hiểu những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và
kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I: Lí luận về kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế
1. Cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là tương quan giữa các ngành trong tổng thể
kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng
và chất lượng giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này được hình
thành trong những điều kiện kinh tế-xã hội nhất định, luôn luôn vận động
và hướng vào những mục tiêu cụ thể.


Như vậy, cần phải hiểu cơ cấu ngành kinh tế theo những nội dung sau:
Trước hết, đó là số lượng các ngành kinh tế được hình thành. Số
lượng ngành kinh tế không cố định, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát
triển của phân công lao động xã hội. Từ đầu thế kỉ 19, nhà kinh tế học
Colin Clark căn cứ vào tính chất chuyên môn hoá của sản xuất đã chia
thành ba nhóm ngành: khai thác tài nguyên thiên nhiên( gồm nông nghiệp
và khai thác khoáng sản); công nghiệp chế biến; sản xuất sản phẩm vô
hình. Liên hợp quốc (UN) sau này, căn cứ vào tính chất hoạt động sản xuất
đã chuyển hoạt động khai thác khoáng sản sang ngành công nghiệp và gọi
sản xuất sản phẩm vô hình là dịch vụ.
Nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất phân công lao động
xã hội, biểu hiện cụ thể qua sự khác nhau về quy trình công nghệ của các
ngành trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ. Các ngành kinh
tế được phân thành ba khu vực hay gọi là ba ngành gộp: Khu vực I bao
gôm các ngành nông-lâm-ngư nghiệp; khu vực II là các ngành công nghiệp
và xây dựng; khu vực III gồm các ngành dịch vụ.
Thứ đến, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ
giữa các ngành với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số lượng và
chất lượng. Mặt số lượng thể hiện ở tỷ trọng (tính theo GDP, lao động,
vốn…) của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, còn khía cạnh
chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan trọng của từng ngành và tính chất của
sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau. Sự tác động qua lại giữa các
ngành có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực tiếp bao gồm tác
động cùng chiều và ngược chiều, còn mối quan hệ gián tiếp được thể hiện
theo các cấp 1,2,3…Quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp là mối quan
hệ truyền thống, xuyên suốt mọi giai đoạn phát triển xã hội. Nông nghiệp
yêu cầu cần có sự tác động của công nghiệp đối với tất cả các yếu tố đầu
vào, cũng như tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Công nghiệp cung cấp cho nông
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368

nghiệp phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, các công cụ sản xuất, máy móc
thiết bị phục vụ cho việc cơ giới hoá sản xuất. Sản phẩm nông nghiệp qua
chế biến sẽ được nâng cao chất lượng và hiệu quả: làm cho sản phẩm trở
nên đa dạng về mẫu mã, phong phú về khẩu vị, vận chuyển và dự trữ được
thuận lợi. Ngược lại, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến, thực phẩm cho công nhân lao động, cho mở rộng hoạt động sản
xuất công nghiệp và nó còn là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm công
nghiệp. Công nghiệp và nông nghiệp được gọi là các ngành sản xuất vật
chất, thực hiện chức năng sản xuất trong quá trình tái sản xuất. Để những
sản phẩm của hai ngành này đi vào tiêu dùng cho sản xuất hoặc tiêu dùng
cho đời sống phải qua phân phối và trao đổi. Những chức năng này do hoạt
động dịch vụ đảm nhận. Các hoạt động dịch vụ như thương mại, vận tải,
thông tin, ngân hàng, bảo hiểm…đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được
liên tục. Không có sản phẩm hàng hoá thì không có cơ sởcho các hoạt động
dịch vụ tồn tại. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, đời sống nhân dân càng
nâng cao thì nhu cầu dịch vụ càng lớn. Nói chung, mối quan hệ của các
ngành cả số và chất lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở nên
phức tạp hơn theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao
động xã hội trong nước và quốc tế.
Xét trên khía cạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế thì dạng cơ cấu
ngành được xem là quan trọng nhất, được quan tâm, nghiên cứu nhiều nhất.
Vì nó phản ánh sự phát triển của khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất,
phân công lao động chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất. Trạng thái cơ cấu
ngành là dấu hiệu phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Khái niệm:
Quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái
khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát
triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là một phạm trù động, nó luôn luôn thay đổi

theo từng thời kì phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định
(như: sự phát triển của sản xuất; sự phát triển, thay đổi của các yếu tố
nguồn lực; thay đổi của cung cầu trong nền kinh tế…)
Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là thay đổi về số lượng các
ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao gồm sự thay đổi về vị trí, tính
chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu
ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển
dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ xung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành
cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế :
Khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỉ trọng nông nghiệp trong tổng
sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng
lên. Khi nền kinh tế bước sang những giai đoạn phát triển cao thì tốc độ
tăng của ngành dịch vụ sẽ ngày càng cao hơn so với tốc độ tăng của ngành
công nghiệp. Trong ngành công nghiệp, tỷ trọng các ngành sản xuất sản
phẩm có dung lượng vốn cao ngày càng lớn và gia tăng với tốc độ nhanh,
tỷ trọng các ngành sản phẩm có dung lượng lao động cao sẽ giảm dần. Đối
với ngành dịch vụ, theo sự phát triển kinh tế, các ngành dịch vụ chất lượng
cao như: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, luật, giáo dục, y tế, du lịch sẽ có
tốc độ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao.Nền kinh tế chuyển dịch từ cơ cấu
đóng sang cơ cấu mở, nghĩa là phát triển các ngành có dấu hiệu lợi thế ( lợi
thế tuyệt đối, lợi thế so sánh, lợi thế nguồn lực).
Tuy tất cả các nước có xu hướng chuyển dịch cơ cấu như nhau
nhưng tốc độ chuyển dịch lại không giống nhau vì bị chi phối bởi nhiều
yếu tố khác nhau về tự nhiên, nhân lực, điều kiện kinh tế, kĩ thuật và văn
hoá của mỗi nước.
Ý nghĩa

Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình diễn ra liên tục và
gắn liền với sự phát triển kinh tế. Ngược lại nhịp độ phát triển, tính chất
bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch
cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp với những điều kiện bên trong, bên ngoài
và các lợi thế tương đối của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội.Và trong thời kì công
nghiệp hoá, nó phản ánh mức độ đạt được của quá trình công nghiệp hoá.
Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành với sự phát triển chung của
nền kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là cả một động thái
về phân bố các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong những thời điểm
nhất định vào những hoạt động sản xuất riêng. Sự chuyển dịch cơ cấu
ngành thể hiện tính hiệu quả của việc phân bố nguồn lực. Trong nền kinh tế
hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển thì việc lựa chọn và
chuyển dịch hợp lí cơ cấu ngành thể hiện được các lợi thế tương đối và khả
năng cạnh tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở cho
sự chủ động tham gia và thực hiện hội nhập thắng lợi.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.1. Khái niệm
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một bộ phận trong hệ
thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Nó xác định các mục tiêu cần đạt
tới về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì kế hoạch và đưa ra
các chính sách, giải pháp cần thiết để thực hiện mục tiêu đó một cách có
hiệu quả nhất.
2.2. Nhiệm vụ
Mặc dù xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là mang tính quy luật,
nhưng trong thực tế không có một mô hình chuyển dịch chung cho tất cả
các nước. Trong công tác kế hoạch những vấn đề thường phải đặt ra như
cần ưu tiên cho nông nghiệp đến mức độ nào so với công nghiệp trong thời

kì đầu phát triển, các mối liên kết kinh tế được phát huy thế nào qua từng
thời kì. Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế là :
- Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Nó bao hàm các vấn đề về kinh tế - xã hội, khoa học,
công nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước.
- Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hoá bằng
các quan hệ tỉ lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế biến
đổi chung và phản ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong những điều
kiện cụ thể.
- Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc
biệt là cơ cấu vốn đầu tư và cơ cấu lao động nhằm đảm bảo được cơ cấu
đầu ra theo hướng đã xác định.
- Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế - xã hội cần thiết để
hướng dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu của sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2.3. Vai trò trong hệ thống kế hoạch hoá
Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một bộ phận trong hệ
thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế. Nó là bộ phận kế hoạch mục tiêu,
phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (ở góc độ kinh tế).Nó gắn liền
với kế hoạch tăng trưởng và kế hoạch các yếu tố nguồn lực.
2.4. Nội dung kế hoạch
a. Phân tích thực trạng thực hiện kế hoạch thời kì trước và các nhân tố
tác động đến kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì kế hoạch
Phân tích thực trạng thực hiện kế hoạch ở thời kì trước về các mặt: tỷ
trọng đóng góp của từng ngành trong GDP, cơ cấu lao động làm việc trong
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các ngành kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành… để thấy được cơ cấu

ngành kinh tế đang chuyển dịch theo hướng nào, sự chuyển dịch trong nội
bộ ngành ra sao, những thành tựu đạt được và những hạn chế còn tồn tại,
rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, biết được hiện tại chúng ta đang
ở đâu, có những thuận lợi và khó khăn gì khi bước vào thời kì kế hoạch. Từ
đó để có thể đề ra được một kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành hợp lý cho
thời kì tiếp theo và thực hiện thắng lợi kế hoạch đó.
Nhìn chung kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một nước
thường chịu tác động của các nhân tố sau:
* Ở trong nước đó là:
- Các lợi thế về tự nhiên của đất nước cho phép có thể phát triển ngành
sản xuất nào một cách thuận lợi; quy mô dân số của quốc gia; trình độ
nguồn nhân lực; những điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước.
- Ngoài ra, nhu cầu của từng xã hội, thị trường ở mỗi giai đoạn lại là cơ
sở để sản xuất phát triển đáp ứng nhu cầu không chỉ về số lượng mà cả chất
lượng hàng hóa, từ đó dẫn đến những thay đổi về vị trí, tỷ trọng của các
ngành nghề trong nền kinh tế.
- Mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế của từng quốc gia
có tác động quan trọng đến sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế vì mặc dù cơ
cấu kinh tế mang tính khách quan, tính lịch sử xã hội nhưng lại chịu tác
động, chi phối rất lớn bởi mục tiêu của Nhà nước. Nhà nước có thể tác
động gián tiếp lên tỷ lệ của cơ cấu ngành kinh tế bằng các định hướng phát
triển, đầu tư, những chính sách khuyến khích hay hạn chế phát triển các
ngành nghề nhằm bảo đảm sự cân đối của nền kinh tế theo mục đích đề ra
trong từng giai đoạn nhất định.
- Cuối cùng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nước cho
phép sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm, hiệu quả đến mức
nào...
* Bên cạnh những nhân tố tác động từ bên trong, những nhân tố tác
động từ bên ngoài gồm có:
- Xu hướng chính trị, kinh tế, xã hội của khu vực và thế giới. Sự biến

động của chính trị, kinh tế, xã hội của một nước, hay một số nước, nhất là
các nước lớn sẽ tác động mạnh mẽ đến dòng hàng hóa trao đổi, từ đó ảnh
hưởng đến nguồn thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ... buộc các
quốc gia phải điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế của
mình nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia và sự phát triển trong động thái chung
của thị trường thế giới.
- Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế hiện nay có tác động rất mạnh mẽ
đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng nước, vì chính sự phân công
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lao động diễn ra trên phạm vi quốc tế ngày càng sâu sắc và cơ hội thị
trường rộng lớn được mở ra trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế,
cho phép các nước có khả năng khai thác những thế mạnh của nhau để trao
đổi các nguồn lực, vốn, kỹ thuật, hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả...
Quá trình đó vừa bắt buộc, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự phân công lao động trên
quy mô toàn thế giới.
- Những thành tựu của cách mạng khoa học, kỹ thuật, đặc biệt sự bùng
nổ của công nghệ thông tin tạo nên những bước nhảy vọt trong mọi lĩnh
vực sản xuất góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
các nước vì thông tin nhanh chóng làm cho sản xuất, kinh doanh được điều
chỉnh nhanh nhạy, hợp lý hơn, dẫn đến cơ cấu sản xuất được thay đổi phù
hợp hơn với thị trường và lợi ích của từng nước.
Dưới tác động tổng hợp của các nhân tố trên, các ngành kinh tế (thông
thường bao gồm 3 ngành chính: nông, lâm nghiệp, thủy sản - còn gọi là
nông nghiệp; công nghiệp, xây dựng - còn gọi là công nghiệp; và dịch vụ)
phát triển một cách không đồng đều, tạo nên những tỷ lệ khác nhau trong
cơ cấu ngành kinh tế của các nước. Song điểm đáng lưu ý là trong thời đại
ngày nay, bất cứ nhà nước nào cũng đều quan tâm xác định cho nền kinh tế
của nước mình phát triển theo hướng có lợi nhất và phấn đấu đạt được cơ

cấu kinh tế đem lại hiệu quả cao. Vì vậy, và qua những thực tiễn, hầu hết
các nước hiện nay đều lựa chọn mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
nước mình theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu nhằm phát huy mọi lợi thế của
đất nước, tham gia được vào sự phân công lao động trên quy mô toàn thế
giới, tận dụng mọi cơ hội đem lại của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang
diễn ra ngày càng sâu rộng.
b. Định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì kế
hoạch.
Mục tiêu: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ trong GDP, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Định hướng: phát triển các ngành kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so
sánh của từng ngành, chú trọng đối với các lĩnh vực quan trọng nhằm tạo ra
sự chuyển dịch trong nội bộ ngành.
Tuỳ từng giai đoạn phát triển cụ thể, mục tiêu và định hướng được điều
chỉnh cụ thể hơn cho phù hợp với giai đoạn đó.
Các mục tiêu và định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có vai trò
làm cơ sở để định hướng sự phát triển, xác định các chỉ tiêu cụ thể cần đạt
được trong thời kì kế hoạch. Từ đó đề ra các giải pháp, phương án thực
hiện.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
c. Xác định các chỉ tiêu kế hoạch
• Các chỉ tiêu
Vì cơ cấu kinh tế phản ánh cả về lượng lẫn về chất mối tương quan tỉ lệ
giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế nên khi đánh giá quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần chú ý cả những quan hệ tỉ lệ về mặt lượng
cũng như phân tích sự thay đổi về chất (theo quan điểm lượng đổi chất đổi)
của các mối tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá,
không thể không chú ý tới những đặc điểm riêng cuả mỗi loại cơ cấu kinh
tế. Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế những tiêu chí cơ

bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô bao gồm: cơ cấu GDP,
cơ cấu lao động, cơ cấu vốn
• Các phương pháp tiếp cận.
Phương pháp tiếp cận theo mô hình I/O
Mô hình này nghiên cứu những mối quan hệ tỷ lệ cân đối đặc trưng cho
việc phân phối sản phẩm giữa các ngành và mối quan hệ giữa khối lượng
sản phẩm và chi phí để sản xuất ra những sản phẩm này.
Nguyên lí của mô hình: đứng trên góc độ phân tích sự giao lưu của sản
phẩm hàng hoá từ khi ra đời, chuyển từ ngành này sang ngành khác và đi
vào tiêu dùng cuối cùng.
Ngành
sử dụng
Ngành sản xuất
Sử dụng cuối
cùng
TSP sử dụng
1 2 3 … N Tổng cộng
1 x
11
x
12
x
13
… x
1n

=
n
j
j

x
1
1
Y
1
X
1
2 x
21
x
22
x
23
… x
2n

=
n
j
j
x
1
2
Y
2
X
2
3 x
31
x

32
x
33
… x
3n

=
n
j
j
x
1
3
Y
3
X
3
… … … … … … … … …
n x
n1
x
n2
x
n3
… x
nn

=
n
j

nj
x
1
Y
n
Y
n
Tổng
cộng
∑x
j1
∑x
j2
∑x
j3
… ∑x
jn

=
n
j
ij
x
1
=

=
n
i
ij

x
1
Giá trị
gia tăng
VA
1
VA
2
VA
3
… VA
n

=
n
j
j
VA
1
=

=
n
i
i
Y
1
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tổng

chi phí
X
1
X
2
X
3
… X
n
∑∑
==
=
n
i
i
n
j
j
xx
11
Việc phân phối sản phẩm trong nền kinh tế được đặc trưng bằng quan
hệ tỷ lệ:
X
i
= x
i1
+ x
i2
+x
i3

+…+x
in
+y
i
(i = 1,2,…, n) (1)
Trong đó:
X
i
: Tổng sản phẩm của ngành i
x
ij
: Khối lượng sản phẩm ngành i tiêu dùng cho sản phẩm ngành j với
tư cách là chi phí trung gian.
Y
i
: Khối lượng sản phẩm cuối cùng của ngành i
Tổng số x
ij
phản ánh khối lượng sản phẩm ngành i sẽ tiếp tục chế biến
trong các ngành sản xuất, lượng sản phẩm này được gọi là sản phẩm trung
gian. Sản phẩm cuối cùng (Y
i
) là những sản phẩm được đưa ra khỏi sản
xuất hàng năm được dùng để bù đắp hào mòn, sử dụng cho tiêu dùng, tích
luỹ và khối lượng chênh lệch xuất-nhập khẩu.
Khi xây dựng mô hình I/O người ta thường giả thiết rằng khối lượng sản
phẩm của ngành i tiêu dùng cho ngành j tỷ lệ thuận với khối lượng sản
phẩm của ngành j: x
ij
= a

ij
X
j
( i,j = 1,2,…,n) (2)
Trong đó:
a
ij
là hao phí trực tiếp sản phẩm ngành i để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm ngành j – được gọi là hệ số hao phí trực tiếp. Hợp nhất phương trình
(1) và (2) sẽ có: X
i
= a
ij
X
j
+ Y
i
(i = 1,2,…,n)
Dưới dạng ma trận có thể viết: X = AX + Y
Và lời giải sẽ là: X = (E – A)
-1
. Y
Trong đó: E: ma trận đơn vị
A: ma trận hệ số chi phí trực tiếp
Y: véc tơ sản phẩm cuối cùng
Như vậy, để xác định cơ cấu ngành của nền kinh tế người ta thường dựa
vào kế hoạch về sản phẩm cuối cùng của các ngành với hệ số hao phí trực
tiếp phù hợp với trình độ kĩ thuật của từng ngành.
Phương pháp ngoại suy (thống kê thực nghiệm)
Xác định xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành qua các năm : dựa vào sự

thay đổi tỉ trọng từng ngành (TL
i
)
Xác đinh xu thế tăng trưởng kinh tế của từng ngành qua các năm : dựa
vào sự thay đổi trong tăng trưởng kinh tế của từng ngành (g)
Phương pháp được sử dụng: OLS.
Trên cơ sở tính toán cho 2 nhóm ngành ta xác định được nhóm ngành
thứ 3 dựa vào kết quả của 2 nhóm ngành trên.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
d.Các giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Thứ nhất, đối với nhóm ngành có năng lực cạnh tranh. Đây là các ngành có
lợi thế so sánh dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguồn lao đông,
chủ yếu là ngành nông nghiệp-thuỷ sản như gạo, cà phê, điều, chè , cao su
tự nhiên, thuỷ sản và các ngành công nghiệp dệt may, da dầy. Tuy nhiên lợi
thế cuả những ngành này về giá rẻ đang bị thu hẹp dần sau khủng hoảng tài
chính khu vực với sự mất giá các đồng bản tệ ở nhiều nước. Cũng có nguy
cơ những lợi thế so sánh này tiếp tục bị giảm sút trong những năm tới khi
các nước trong khu vực phục hồi được nền kinh tế.
Đây là nhóm ngành ít bị ảnh hưởng của việc hội nhập quốc tế, mà
ngược lại còn có cơ hội tốt để mở rộng thị trường quốc tế với nhu cầu tiêu
dùng tương đối ổn định (đa số các mặt hàng là tiêu dùng hàng ngay). Tuy
nhiên, giá trị gia tăng được tạo ra trong nhóm ngành hàng này không cao,
do đó cần chú ý giảm giá thành sản phẩm.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường đối với những
mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu, việc chuyển dịch cơ cấu của từng ngành
hàng trong nhóm này cần tập trung vào những công việc sau:
- Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường, đảm
bảo thị trường lâu dài có quy mô thích hợp. Xây dựng hệ thống thông tin,
dự báo sự biến động của thị trường. Thành lập trung tâm xúc tiến thương

mại đối với từng mặt hàng.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách thương mại và cơ chế điều hành xuất
nhập khẩu theo hướng hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính đơn
thuần; đơn giản hoá và rút ngắn thời gian làm các thủ tục liên quan đến
hoạt động xuất nhập khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp.
- Nâng cấp hạ tầng cơ sở, bao gồm cả hệ thống dịch vụ chuyên môn có
liên quan như ngân hàng, tư vấn quản lí và tư vấn pháp luật.
- Nâng cao công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, vận
chuyển, dịch vụ. Chú trọng tính chất đồng bộ trong đầu tư giữa các khâu
sản xuất, chế biến, cung cấp nguyên liệu. Việc cắt giảm thuế quan có thể
tiến hành với tốc độ nhanh, trong thời gian ngắn với nguyên tắc hàng sơ
chế chịu thuế quan thấp hơn hàng chế biến; Nguyên liệu chịu thuế thấp hơn
thành phẩm; nhưng mức chênh lệch thuế này là thấp.
Thứ hai, đối với nhóm ngành hàng có khả năng cạnh tranh trong
tương lai với điều kiện được hỗ trợ có thời gian và tích cực nâng cao năng
lực cạnh tranh. Đây là nhóm ngành hàng trước mắt còn gặp nhiều khó khăn
trong việc cạnh tranh với hàng nhập khẩu, nhưng có khả năng nâng cao
được cạnh tranh nếu hiện tại được hưởng những hỗ trợ nhất định. Đa số
11

×