Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA MELOXICAM VÀ ACETAMINOPHEN SAU PHẪU THUẬT RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI LỆCH ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.07 KB, 31 trang )





HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA
MELOXICAM VÀ ACETAMINOPHEN
SAU PHẪU THUẬT RĂNG KHÔN HÀM
DƯỚI LỆCH
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA MELOXICAM VÀ
ACETAMINOPHEN SAU PHẪU THUẬT RĂNG KHÔN
HÀM DƯỚI LỆCH

TÓM TẮT


Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả giảm đau của
Meloxicam 15mg, Acetaminophen 1000mg sau phẫu thuật răng khôn hàm
dưới mọc lệch gần 90
0
.
Phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng so sánh theo phương
pháp mù đôi. Cường độ đau sau phẫu thuật được đánh giá bằng thang VAS.
Có 70 bệnh nhân nhận thuốc ngẫu nhiên và ghi nhận cường độ đau sau khi
hết tê môi và liên tục trong 12 giờ sau đó.
Kết quả cho thấy đỉnh đau hậu phẫu đạt được tại thời điểm hết tê môi
(khoảng 3 – 3,5 giờ sau khi kết thúc phẫu thuật), Meloxicam 15mg có hiệu
quả giảm đau mạnh hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với Acetaminophen

1000mg.
Kết luận: chưa ghi nhận tác dụng phụ khi dùng Meloxicam và
Acetaminophen với liều đề nghị kiểm soát đau sau phẫu thuật răng khôn
hàm dưới lệch gần 90
0
.
ABSTRACT
Objective: The aim of this study was to comparative the efficacy of
two analgesics (Meloxicam, Acetaminophen) in pain control after the
removal of horizontal impacted third molar surgery under local anaesthesia.
Method: A randomized, double-blind, prospective trial was
performed. Pain intensity was measured on 100mm visual analogue scales

(VAS). 70 patients were assigned randomly to receive drug.
Result: Patients recorded their pain intensity after the ending of
numbness of the lip and hourly thereafter for 12 hours. The result from the
study suggest that hyperalgic peak is reaches in the early post-operative
period (3 – 3.5 hours after surgery).
Conclusion: Meloxicam 15 mg showed a better analgesic effect in
comparison to Acetaminophen 1000mg and there was no difference in the
incidence of secondary effects between the 2 groups.
MỞ ĐẦU
Đau sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới từ lâu đã trở thành ấn tượng
gây lo sợ trong tâm trí mọi người. Các bác sĩ đã dùng nhiều loại thuốc giảm
đau để chế ngự cơn đau hậu phẫu này, thông dụng nhất là Paracetamol và

hiện nay có khuynh hướng dùng các thuốc kháng viêm không steroid
(NSAIDs) với tác dụng kép giảm đau và ức chế viêm. Nghiên cứu gần đây
tại Kho a Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược Tp.HCM so sánh hiệu quả giảm
đau sau phẫu thuật nhổ răng khôn của Nimesulide (2002), Acid Mefenamid
(2003) với Paracetamol cho thấy tác dụng giảm đau hậu phẫu vượt trội của
các NSAIDs. Tuy nhiên do thời gian bán hủy ngắn nên tác dụng giảm đau
sau một liều của hai thuốc trên không dài, vì vậy bệnh nhân phải dùng thuốc
nhiều lần trong ngày.
Trong các thế hệ NSAIDs mới, Meloxicam có thời gian bán hủy dài,
ức chế chọn lọc men chuyển cyclo-oxygenase II (COX2) nên được cho là có
hiệu quả giảm đau mạnh và kéo dài đồng thời hạn chế nhiều tác dụng phụ
trên đường tiêu hóa, thận và quá trình đông máu.

Chính vì thế, nghiên cứu này nhằm các mục tiêu sau:
- Xác định diễn biến của cơn đau sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới
lệch gần 90
0
dưới tác dụng giảm đau của Meloxicam và Acetaminophen.
- Đánh giá hiệu quả giảm đau của Meloxicam 15mg và 7,5mg so với
Acetaminophen 1000mg và 500mg sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch
gần 90
0
.
- Ghi nhận một số tác dụng phụ của Meloxicam và Acetaminophen
với liều lượng giảm đau cho sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
- 70 bệnh nhân (18-40 tuổi) ở cả hai phái, có chỉ định và nhu cầu nhổ
răng khôn hàm dưới lệch gần 90
0
tại bộ môn Nhổ Răng-Tiểu Phẫu Thuật,
Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược Tp. HCM.
- Không chọn vào nghiên cứu những bệnh nhân: Đang dùng một loại
thuốc giảm đau khác; đang điều trị với các thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc
chống đông máu; có tiền sử dị ứng thuốc hoặc dị ứng với các loại NSAIDs;
có tiền sử xuất huyết dạ dày, tá tràng; có tiền sử bệnh gan, thận, rối loạn
chuyển hóa; có thai hoặc đang cho con bú, đang có tình trạng nhiễm trùng

tại chỗ.
- Loại khỏi nghiên cứu những trường hợp bệnh nhân không cung cấp
đầy đủ các thông tin cần thiết hoặc cung cấp thông tin mơ hồ, thiếu chính
xác
Vật liệu nghiên cứu
Mobic (Meloxicam) viên nén 7,5 mg (Boehringer Ingelheim);
Paracetamol (Acetaminophen) viên nén 500 mg (Biochemie).
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng so sánh theo phương pháp mù đôi
Mã hóa thuốc: “thuốc chính” gồm 35 phần thuốc Mobic và 35 phần
thuốc Paracetamol (mỗi phần 3 viên) cho vào 70 hộp thuốc màu xanh, đánh

số ngẫu nhiên các hộp thuốc từ 1 đến 70 và ghi nhận các số tương ứng với
các loại thuốc; sau cùng dán kín các hộp thuốc. “thuốc dự trữ” gồm 70 phần
Paracetamol (3 viên/phần) cho vào các hộp thuốc màu trắng có nhãn và dán
kín.
Thực hiện nghiên cứu
Trước can thiệp
Bệnh nhân được khám tổng quát, xét nghiệm thường qui, chụp phim
quanh chóp; được nghiên cứu viên hướng dẫn cách thức tham gia, ký tên vào
mẫu đồng ý và xác nhận các tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu. Mỗi bệnh nhân
được trao một hộp thuốc chính (chọn ngẫu nhiên), một hộp thuốc dự trữ, một
phiếu hướng dẫn bệnh nhân, và một phiếu đánh giá đau.
Trong khi can thiệp

Một phẫu thuật viên thực hiện tất cả các ca theo cùng một trình tự
phẫu thuật và ghi nhận:
- Tổng liều thuốc tê (ml) được dùng cho mỗi trường hợp.
- Thời gian gây tê (phút), thời gian bắt đầu phẫu thuật (phút).
- Thời gian phẫu thuật (phút) tính từ lúc bắt đầu rạch niêm mạc đến
khi khâu xong.
Định mức độ máu chảy
Có 3 mức độ (nhiều-trung bình-ít), tương ứng điểm 3-2-1 ghi nhận theo
kinh nghiệm của phẫu thuật viên về lượng dịch hút trung bình.
Định mức độ chấn thương
Có 3 mức độ (nhiều-trung bình-ít), tương ứng điểm 3-2-1 dựa vào
chiều sâu, chiều dài và bề dày của rãnh xương mặt ngoài:

- Ít: rãnh sâu <5mm, rộng 1mm, khu trú tại mặt ngoài răng cần nhổ.
- Trung bình: rãnh sâu >5mm, rộng 1mm, từ góc ngoài-gần đến góc
ngoài-xa răng 8.
- Nhiều: rãnh sâu >5mm, rộng >1mm, đến tận mặt xa của răng cần
nhổ.
Sau can thiệp
Tất cả các bệnh nhân đều được dùng kháng sinh Amoxicilin 500mg, 1
viên x3 lần/ngàyx 5ngày.
Về nhà bệnh nhân tự ghi nhận
+ Thời điểm (giờ, phút) hết cảm giác tê môi và cảm nhận đau lúc đó
theo thang đánh giá đau tương đồng nhìn được (VAS) 100mm
+ Thời điểm uống thuốc và theo dõi sự thay đổi mức độ đau mỗi giờ

trong vòng 12 giờ tính từ lúc uống 2 viên thuốc đầu tiên (trong hộp thuốc
chính) bằng cách lần lượt đánh dấu vào 12 thước đo VAS trong phiếu đánh
giá đau. Sau liều đầu, nếu có nhu cầu, bệnh nhân sẽ uống tiếp viên thuốc còn
lại trong hộp thuốc chính. Tương tự nếu còn đau, bệnh nhân dùng tiếp hộp
thuốc dự trữ (mỗi lần 1 viên), ghi nhận thời điểm uống các viên thuốc này,
đánh giá mức độ đau trên các thước đo VAS còn lại cho đến hết 12 giờ. Sau
12 giờ, nếu còn đau bệnh nhân tiếp tục dùng thêm thuốc trong hộp thuốc dự
trữ nhưng không cần ghi nhận thêm thông tin. Nếu hết 5 liều mà vẫn còn
đau, bệnh nhân được dùng thuốc giảm đau cứu trợ. Khi hết đau hoàn toàn,
bệnh nhân tổng kết số viên thuốc đã dùng trong 2 hộp thuốc, đồng thời ghi
nhận tác dụng phụ (nếu có).
Đánh giá kết quả:

Đánh giá hiệu quả giảm đau của thuốc:
Đánh giá cường độ đau trước và sau khi uống thuốc dựa trên: * Thang
đánh giá cường độ đau tương đồng nhìn được (VAS) 100mm.
Những chỉ số sau:
D
0
: Cường độ đau trước lúc uống thuốc
D
n
: Cường độ đau mỗi giờ sau khi uống liều thuốc đầu tiên (n: 1 - 12)
D
Liều

: Trung bình cường độ đau sau khi uống một liều thuốc (tính từ
sau khi uống thuốc đến khi uống liều thuốc tiếp theo hoặc tính đến hết 12
giờ nếu không uống thêm thuốc sau liều này).
D
0

D
Liều

 Hi
ệu quả giảm
đau của mỗi liều =

D
0

*
100
Xử lý và phân tích số liệu
Sử dụng chương trình SPSS12.0 để phân tích số liệu. Dùng t-test để
so sánh kết quả định lượng và test Mann-Whitney để so sánh kết quả định
tính giữa 2 nhóm.
KẾT QUẢ
Số liệu về bệnh nhân
Tỷ lệ nam và nữ tham gia vào hai nhóm thuốc được biểu diễn ở biểu

đồ 1
Bảng 1: Tuổi và cân nặng trung bình của bệnh nhân
X Acetaminophen

Meloxicam

p
Tuổi 25,5 ± 5,31 26,0 ± 5,06

0,671
Nam


59,36 ± 7,64
61,79 ±
10,46
0,42
8
Cân
nặng
Nữ
47,88 ± 4,97
46,58 ±
5,19
0,50

2

Biểu đồ 1: Tỷ lệ Nam và nữ tham gia vào hai nhóm thuốc
Số liệu về phẫu thuật
Liều lượng thuốc tê cho tất cả các ca nghiên cứu đều là 3,6 ml.
Bảng 2: Thời gian tê và thời gian phẫu thuật trung bình (phút)
X
Acetaminophen

Meloxicam

p

Th
ời
gian tê
198,86 ± 53,45
229,35 ±
173,84
0,327
Th
ời
gian ph
ẫu
thuật

14,66 ± 5,05
15,06 ±
7,87
0,801
Bảng 3: Mức độ chảy máu và mức độ chấn thương
Số bệnh nhân
Acetaminophe
n (n = 35)
Meloxica
m (n = 31)
p
Nhiề

u
2 1
Trun
g bình
31 27
Mứ
c đ
ộ chảy
máu
Ít 2 3
0,45
4

Mứ
c đ
ộ chấn
Nhiề
u
12 13 0,69
3
Trun
g bình
23 18
thương
Ít 0 0

Số bệnh nhân dùng thuốc ở mỗi liều
Bảng 4: Số bệnh nhân tham gia vào mỗi liều: n (%)
Acetaminophen

Meloxicam

Li
ều
1
35 (100%) 31 (100%)

Li

ều
2
21 (60%) 14
(45,16%)
Li
ều
3
7 (20%) 2 (6,45%)
Li
ều
4
4 (11,43%) 0



Diễn tiến đau sau phẫu thuật răng khôn:

Bảng 5: Cường độ đau mỗi giờ trong vòng 12 giờ đánh giá đau (mm)
X
Acetaminophen

Meloxicam

p
X

Acetaminophen

Meloxicam

p
D
0

41,29 ± 21,92
50,98 ±
19,46
0,063

D
1

28,45 ± 25,38
38,71 ±
20,45
0,078
D
2

25,63 ± 24,76
30,95 ±

21,77
0,361
D
3

20,35 ± 18,27
22,37 ±
21,88
0,684
D
4


19,74 ± 18,02
17,66 ±
17,32
0,635
D
5

18,70 ± 18,44 15
,01 ±
14,39
0,373
X

Acetaminophen

Meloxicam

p
D
6

21,44 ± 20,61
15,25 ±
15,25
0,173

D
7

22,83 ± 21,07
10,24 ±
10,24
0,003
**
D
8

22,07 ± 20,02 8,07 ± 8,07


0,000
**
D
9

21,59 ± 20,48 8,67 ± 8,67

0,003
**
D
10

19,58 ± 18,85 8,89 ± 8,89

0,014
*

D
11
15,21 ± 15,21 7,95 ± 7,95

0,025
*


D
12
14,84 ± 14,84 7,51 ± 7,51

0,025
*

Hiệu quả giảm đau của Meloxicam & Acetaminophen
Hiệu quả giảm đau của các liều thuốc:
Bảng.6: Hiệu quả giảm đau của các liều thuốc
Hi
ệu

qu
ả giảm
đau (%)
Acetaminophen

Meloxicam

p
Li
ều
1
25,74 55,91

0,042
Li
ều
2
51,96 67,65 0,134
Thời gian dùng liều thuốc thứ 2
Nhóm Acetaminophen, 66,67% bệnh nhân dùng liều 2 trong vòng 6
giờ sau khi hết tê và sau 6 giờ có 33,33% bệnh nhân uống thêm thuốc. Nhóm
Meloxicam, có 35,71% bệnh nhân dùng thêm liều 2 trong vòng 5 giờ đầu và
64,29% dùng liều 2 kể giờ thứ 6 trở đi.
Liều thuốc trung bình
12 giờ sau khi hết tê: dùng trung bình 2,45 viên thuốc Mobic hoặc

2,94 viên Paracetamol. Lượng thuốc dự trữ đã dùng để giảm đau hoàn toàn:
nhóm Meloxicam, dùng thêm trung bình 0,33 viên và nhóm Acetaminophen
là 0,65 viên.
Tác dụng phụ
Nhóm dùng Meloxicam một bệnh nhân có cảm giác buồn ngủ sau khi
dùng thuốc, một bệnh nhân có cảm giác nóng lạnh tại giờ thứ 11 sau khi
dùng liều đầu tiên, một bệnh nhân có triệu chứng quặn bụng, tiêu chảy sau
khi dùng liều đầu, một bệnh nhân thấy xuất hiện mẩn đỏ trên hai tay sau khi
dùng liều thuốc thứ 2. Nhóm dùng Acetaminophen có hai bệnh nhân bị sốt nhẹ
(38
0
C) sau khi dùng liều thuốc thứ 2, một bệnh nhân thấy xuất hiện mụn nước

rải rác ở tay, chân gây cảm giác ngứa sau khi dùng liều đầu, một bệnh nhân có
cảm giác nhức đầu trong quá trình dùng thuốc.
BÀN LUẬN
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đau sau nhổ răng
Yếu tố tâm lý và phái tính
Đa số các tác giả cho rằng yếu tố phái tính ảnh hưởng đến cường độ
đau và nữ thường có ngưỡng đau thấp hơn nam. Tuy nhiên cũng có tác giả
cho rằng nữ chịu đau tốt hơn nam. Để tránh ảnh hưởng của yếu tố này, Lê
Đức Lánh – Nguyễn Thị Bích Lý

và Huỳnh Anh Lan – Trần Ngọc Liên đã tự
cân đối tỷ lệ nam – nữ giữa hai nhóm bệnh nhân. Trong nghiên cứu này, do

chọn mẫu thuận tiện và sử dụng phương pháp mù đôi nên số nam và nữ
được phân bố ngẫu nhiên vào hai nhóm. Nhóm Meloxicam có tỷ lệ nữ ít hơn
nhóm Acetaminophen (biểu đồ 1); tuy nhiên, sự khác biệt tỷ lệ này không
tạo ra sự khác biệt cường độ đau sau khi hết tê (p > 0,05) giữa hai nhóm nên
không ảnh hưởng đến việc đánh giá hiệu quả giảm đau của thuốc.
Yếu tố tuổi và thể trọng
Theo Peterson, tuổi và thể trọng có ảnh hưởng rất lớn đến cảm nhận
đau của bệnh nhân. Tuổi và cân nặng trong nghiên cứu này khá tập trung,
giúp tránh được sự khác biệt về cảm nhận đau sau phẫu thuật giữa hai nhóm
bệnh nhân .
Thuốc tê
Nghiên cứu sử dụng cùng loại thuốc tê Lidocaine 2% có Adrenaline

1/100000, với liều lượng 3,6ml cho tất cả các ca phẫu thuật. Không có sự
khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) (bảng 1) về thời gian tê giữa hai nhóm nghiên
cứu. Điều này tạo thuận lợi cho việc đánh giá chính xác hiệu quả giảm đau
của hai loại thuốc nghiên cứu.
Thời gian phẫu thuật
Yếu tố này ảnh hưởng lớn đến phản ứng đau sau phẫu thuật vì thời
gian phẫu thuật thường tỷ lệ với độ khó của răng nhổ và mức độ tổn thương
mô quanh răng. Mức độ tổn thương mô quanh răng khôn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: độ lệch của trục răng, mối liên quan với bờ trước cành
đứng xương hàm dưới và răng cối lớn thứ hai, hình dạng chân răng… Trong
nghiên cứu này, tiêu chuẩn chọn mẫu là các bệnh nhân có răng khôn hàm
dưới lệch gần 90

0
nhằm giảm sự phân tán về độ khó của phẫu thuật và cường
độ đau hậu phẫu ở hai nhóm nghiên cứu. Hơn nữa, theo đánh giá của Pell và
Gregory Winter, phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch gần 90
0
là một phẫu
thuật đạt mức “khó” đến “rất khó” và thường gây ra cơn đau hậu phẫu trầm
trọng. Do đó, tiêu chuẩn chọn mẫu này giúp chúng tôi quan sát diễn biến cơn
đau và cung cấp chính xác thông tin về hiệu quả giảm đau của Meloxicam và
của Acetaminophen sau phẫu thuật răng khôn có độ khó cao. Không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian phẫu thuật giữa hai nhóm (p >
0,05) (bảng 2).

Mức độ chảy máu và mức độ chấn thương
Các thủ thuật xâm lấn như rạch niêm mạc, khoan xương, cắt xương là
nơi khởi đầu của chuỗi phản ứng sinh hóa dẫn đến phản ứng viêm. Đối với
phẫu thuật nhổ răng khôn dưới lệch, mức độ chấn thương tuỳ thuộc vào
phần xương được cắt bỏ khi phẫu thuật, cấu trúc giải phẫu cũng như độ lệch
của răng được nhổ
(2)
. Trong nghiên cứu này, độ lệch của răng đã được xác
định, đồng thời tất cả các ca nghiên cứu đều được một phẫu thuật viên thực
hiện với cùng một trình tự phẫu thuật; việc đánh giá mức độ chảy máu và
chấn thương của tất cả các ca nghiên cứu cũng đều dựa vào kinh nghiệm
chuyên môn của phẫu thuật viên. Kết quả ở bảng 3 cho thấy không có sự

khác biệt về mức độ chảy máu và mức độ chấn thương giữa hai nhóm bệnh
nhân (p > 0,05).
Phương pháp đánh giá đau
Cách kê toa và theo dõi sự thay đổi cường độ đau
* Chọn cách hướng dẫn bệnh nhân dùng thuốc theo nhu cầu giảm đau
vì cách kê toa này giúp ghi nhận chính xác tác dụng của thuốc lên cảm nhận
đau của bệnh nhân, tránh được tác dụng trùng lắp giữa các liều thuốc thường
thấy trong cách kê toa dự phòng đau; đồng thời bệnh nhân có thể hoàn toàn
chủ động về lượng thuốc uống để giảm đau.
* Theo Seymour và Rawlins, liều Paracetamol 1000mg giảm đau
mạnh hơn có ý nghĩa thống kê so với liều 500mg sau phẫu thuật răng khôn
hàm dưới đồng thời đây là hàm lượng thuốc cho “hiệu quả giảm đau đỉnh”

(ceiling of analgesic efficacy). Do đó, chúng tôi dùng cách kê toa liều đầu
gồm 2 viên thuốc cho cả hai nhóm thuốc.
* Theo Peterson, đỉnh đau của cơn đau sau phẫu thuật nhổ răng xảy ra
trong vòng 12 giờ sau phẫu thuật, sau thời gian này diễn ra quá trình giảm
đau tự nhiên. Do đó, chúng tôi chọn thời gian theo dõi đau là 12 giờ sau khi
bệnh nhân uống liều đầu tiên. Phương pháp theo dõi đau như trên tương tự
như các nghiên cứu của Forbes và của Gordon Macleod.
Diễn biến đau sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch gần 90
0
:
Đỉnh đau hậu phẫu
Theo biểu đồ 2, đỉnh đau hậu phẫu đạt được tại thời điểm hết tê môi

(khoảng 3 – 3,5 giờ sau khi kết thúc phẫu thuật). Kết quả này tương tự
nghiên cứu của Rodrigo (3-3,5 giờ) cũng như nghiên cứu của Huỳnh Anh
Lan, Trần Ngọc Liên (3-4 giờ). Trên lâm sàng, thông thường sự chấm dứt
tác động của thuốc tê đi kèm với đau dữ dội vì thời điểm này trùng hợp với
đỉnh phóng thích của các chất trung gian gây viêm. Tuy nhiên, kết quả ở
bảng 5 cho thấy, cường độ đau trung bình của hai nhóm bệnh nhân tại thời
điểm này chỉ ở mức đau vừa (41,29 mm ở nhóm Acetaminophen, 50,98 mm
ở nhóm Meloxicam). Cường độ đau khởi điểm này thấp hơn cường độ đau
khởi điểm trong nghiên cứu của Rodrigo (66 mm ở nhóm Acetaminophen,
58 mm ở nhóm Diflunisal), trong nghiên cứu của Seymour (50,6 mm ở
nhóm Acetaminophen, 57,4 mm ở nhóm Aspirin hòa tan) và trong nghiên
cứu của Lê Đức Lánh, Nguyễn Thị Bích Lý (57,20mm ở cả hai nhóm thuốc

Acetaminophen và Nimesulid). So sánh với nghiên cứu của Huỳnh Anh Lan,
Trần Ngọc Liên (nghiên cứu thang đánh giá đau diễn tả bằng lời với 4 điểm
tương ứng với bốn mức độ: không đau, đau ít, đau vừa, đau nhiều và chọn
cách kê toa cho một liều giảm đau dự phòng trước phẫu thuật), chúng tôi
nhận thấy cho dù không có tác động của liều thuốc giảm đau dự phòng,
cường độ đau cao nhất sau phẫu thuật răng khôn vẫn chỉ ở mức đau vừa.
Điều này phù hợp với nhận định của Peterson về tính chất đau sau phẫu
thuật nhổ răng (thường chỉ ở mức đau nhẹ đến trung bình) và phù hợp vơí
kết quả nghiên cưú của Gustafsson, Nystrom và Quiding cho rằng việc kê
toa thuốc giảm đau trước phẫu thuật không có tiện ích về mặt lâm sàng cho
bệnh nhân.
Sự thay đổi cường độ đau hậu phẫu dưới tác dụng của thuốc giảm

đau:
- Đường biểu diễn sự thay đổi cường độ đau hậu phẫu trong vòng 12 giờ
ở nhóm Acetaminophen (biểu đồ 3.2) cho thấy cường độ đau giảm mạnh trong
vòng 1 giờ sau liều đầu. Từ giờ thứ 2 đến giờ thứ 5, cường độ đau chỉ giảm từ
nhẹ đến rất nhẹ (giờ thứ 2-3) và gần như không tiếp tục giảm (giờ thứ 4-5). Tại
giờ thứ 6 sau liều đầu, cường độ đau tăng trở lại và chỉ giảm nhẹ sau giờ thứ 8.
Từ giờ thứ 11 trở đi đường biểu diễn đau có dạng bình nguyên (cường độ đau
hằng định ở khoảng 15 mm). Thời điểm bệnh nhân dùng thêm liều thứ 2 ở
nhóm Acetaminophen trùng với các thời điểm cường độ đau đang giảm mạnh
trở nên giảm nhẹ, hoặc đang giảm nhẹ đột ngột chựng lại hoặc tăng lên. Đó là
các giờ thứ 2, 4, 6. Điều này phù hợp với động học của thuốc. Thuốc đạt nồng
độ đỉnh trong huyết tương sau 30 – 60 phút tạo ra “dốc giảm đau” sau 1 giờ

trên đường biểu diễn; sau đó nồng độ thuốc trong huyết tương giảm nhanh và
gần như hết hẳn sau 4 – 6 giờ (thời gian bán hủy: 2-4 giờ).
- Đường biểu diễn sự thay đổi cường độ đau hậu phẫu trong vòng 12 giờ
ở nhóm Meloxicam (biểu đồ 2) cho thấy cường độ đau giảm mạnh liên tục
trong vòng 5 giờ sau liều đầu, tăng rất nhẹ tại giờ thứ 6 (15,01mm15,25mm)
và tiếp tục giảm sau đó. Đường biểu diễn trên phản ánh rõ động học của

×