Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

CHẨN ĐOÁN SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE BẰNG PHƯƠNG PHÁP ELISA PHÁT HIỆN KHÁNG NGUYÊN NS1-DEN pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.52 KB, 27 trang )

CHẨN ĐOÁN SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
BẰNG PHƯƠNG PHÁP ELISA PHÁT HIỆN
KHÁNG NGUYÊN NS1-DEN

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sốt Dengue/sốt xuất huyết Dengue (SD/SXHD) là một
trong những bệnh nhiễm quan trọng nhất tại các nước thuộc vùng nhiệt đới,
trong đó có Việt nam. Bộ test kít phát hiện kháng nguyên NS1-DEN trong
huyết thanh bệnh nhân mới đây đã xuất hiện giúp chẩn đoán bệnh trong giai
đoạn cấp.
Mục tiêu nghiên cứu: Phát hiện và xác định tỉ lệ kháng nguyên NS1-
DEN ở bệnh nhân người lớn được chẩn đoán SD/SXHD trên lâm sàng.
Phương pháp: Mô tả hồi cứu - thiết kế cắt ngang trên 66 mẫu huyết
thanh của bệnh nhân người lớn được chẩn đoán SD/SXHD trên lâm sàng tại
BV. Thống nhất TP. HCM trong tháng 12/2006.
Kết quả: Tỉ lệ kháng nguyên NS1-DEN dương tính chung của lô
nghiên cứu là 45,45%. Tỉ lệ này ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi (16-40) cao hơn
nhóm bệnh nhân lớn tuổi hơn (50,9% so với 18,18%, p<0,05).
Kết luận: Có thể dùng xét nghiệm phát hiện kháng nguyên NS1-DEN
để chẩn đoán sớm SD/SXHD và có thể kết hợp với phản ứng MAC-ELISA
để xác định hoặc loại trừ chẩn đoán SD/SXHD ở các bệnh nhân có triệu
chứng lâm sàng không điển hình.
SUMMARY
Background: Dengue Fever and Dengue Haemorrhagic Fever
(DF/DHF) is one of the most important emerging infectious diseases in
tropical developing countries, including Vietnam. More recently, detection
in patients sera of circulating NS1-DEN antigen has been described as an
alternative method for early diagnosis.
Purpose: to detect and determine percentage of the NS1-DEN antigen
on adult patients are diagnosed DF/DHF by clinical.
Method: A retrospective descriptive and cross-sectional study of 66


serum samples from patients at Thong nhat hospital in December 2006.
ELISA was tested to detect the NS1-DEN antigen.
Results: The positive NS1-DEN antigen is 45.45%, in general. This
percentage is higher in group under 40 year olds patients – 50.9%
Conclusion: Detection of NS1-DEN antigen can be used in early
DF/DHF diagnosis and can be combined with MAC-ELISA to determine or
eliminate DF/DHF diagnosis in case having atypic clinical symptoms.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi nhân loại bước vào thế kỷ 21, bệnh Sốt Dengue/ Sốt xuất huyết
Dengue (SD/SXHD) do virus Dengue gây nên vẫn là một trong những bệnh
nhiễm quan trọng nhất tại các nước thuộc vùng nhiệt đới, trong đó có Việt
nam. Bệnh thường gặp ở trẻ em nhưng trong thời gian gần đây ngày càng
nghi nhận được nhiều ca bệnh ở người lớn. Có thể gặp ở đối tượng này
những biểu hiện phức tạp, kết hợp với các bệnh lý khác gây khó khăn cho
chẩn đoán và điều trị. Phương pháp ELISA phát hiện kháng thể IgM kháng
virus dengue xuất hiện vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước và
tiếp theo là các bộ kít được thương mại hóa đã nâng cao hiệu quả chẩn đoán
bệnh nhiễm virus dengue cấp tính. Kháng thể IgM kháng virus dengue
thường chỉ được phát hiện vào ngày thứ 4 – 7 sau khởi phát (sốt), hạn chế
khả năng ứng dụng bộ kít trên lâm sàng vì bệnh nhân thường nhập viện vào
ngày thứ 2 - 4 sau sốt. Để chẩn đoán chính xác bệnh mới nhiễm virus
dengue cần kết hợp cả hai phương pháp phát hiện virus và phát hiện kháng
thể IgM kháng virus dengue. Việc phát hiện virus qua nuôi cấy tế bào, phát
hiện nucleic acid bằng các kỹ thuật sinh học phân tử hoặc phát hiện kháng
nguyên NS1 trong huyết thanh bệnh nhân chỉ được tiến hành trong những
labo nghiên cứu(3,5,9,12) trong khi test kit phát hiện kháng thể IgM kháng
virus dengue đã được lưu hành.
Mới đây hãng Bio-Rad cung cấp bộ test kít phát hiện kháng nguyên
NS1 của virus dengue (kháng nguyên NS1-DEN) trong huyết thanh bệnh

nhân. Bộ test kit này đã xuất hiện ở Việt nam, thông tin về việc sử dụng
chưa được ghi nhận cho tới thời điểm chúng tôi tiến hành nghiên cứu (tháng
12/2006). Đề tài “Chẩn đoán sốt xuất huyết dengue bằng phương pháp
ELISA phát hiện kháng nguyên NS1-DEN” được tiến hành với mục đích:
- Phát hiện kháng nguyên NS1-DEN bằng phương pháp ELISA ở
những bệnh nhân có chẩn đoán SD/SXHD trên lâm sàng.
- Xác định tỉ lệ có kháng nguyên NS1 của virus dengue ở các đối
tượng trên.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hồi cứu – thiết kế cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu
66 mẫu huyết thanh của bệnh nhân người lớn được chẩn đoán
SD/SXHD trên lâm sàng (dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng của
WHO), đã được chỉ định làm xét nghiệm MAC-ELISA chẩn đoán
SD/SXHD trước đó.
Địa điểm & thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện vào tháng 12/2006 tại Khoa Vi sinh –
Bệnh viện Thống nhất TP. HCM.
Phương pháp nghiên cứu
- Kỹ thuật xét nghiệm: phương pháp ELISA phát hiện kháng nguyên
NS1-DEN có trong huyết thanh bệnh nhân SD/SXHD. Sử dụng bộ kit
“PLATELLA DENGUETM NS1 AG 72830” và máy đọc ELISA của hãng
Bio-Rad.
Nguyên lý kỹ thuật: đây là phản ứng ELISA kẹp chả trực tiếp. Kháng
thể đơn dòng kháng kháng nguyên NS1-DEN được gắn vào plate (phiến
nhựa). Cho bệnh phẩm (huyết thanh hoặc huyết tương bệnh nhân) cùng với
cộng hợp vào giếng. Nếu trong bệnh phẩm có kháng nguyên NS1-DEN thì
sẽ có phức hợp miễn dịch kháng thể - kháng nguyên – kháng thể. Phát hiện
phức hợp này bằng cơ chất tạo màu và đo ở bước sóng kép 450/620nm. Tính

kết quả dựa vào giá trị OD đo được. Độ nhạy của phương pháp được ghi
nhận từ 87,1% - 100% tùy thuộc typ virus dengue bị nhiễm, độ đặc hiệu là
99,4 - 100%(1,7,8,10,11).
- Thu thập dữ liệu nghiên cứu từ kết quả thực nghiệm và theo mẫu
phiếu xét nghiệm cận lâm sàng của từng bệnh nhân.
- Xử lý dữ liệu bằng các phương pháp Thống kê Y học.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Về đặc tính mẫu (bảng 1)
Trong thời gian nghiên cứu, có 66 bệnh nhân được xét nghiệm huyết
thanh tìm kháng nguyên NS1-DEN, gồm 31 bệnh nhân nam (46,97%) và 35
bệnh nhân nữ (53,03%). Độ tuổi của các bệnh nhân trong lô nghiên cứu phân
bố từ 16 đến 90 tuổi, được chia thành 2 nhóm: nhóm bệnh nhân dưới 40 tuổi
và nhóm bệnh nhân có lứa tuổi từ 40 trở lên. Nhóm tuổi dưới 40 chiếm tỉ lệ
ưu thế (83,33%) so với nhóm tuổi từ 40 trở lên (16,67%), sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05).
Bảng 1. Đặc tính mẫu nghiên cứu (n = 66)
Đặc tính mẫu

Tần số

Tỉ lệ %
Giới

Nam

31

46,97
Nữ


35

53,03
Lứa tuổi

< 40 tuổi

55

83,33
³ 40 tuổi

11

16,67
Số lượng và tỉ lệ kháng nguyên NS1-DEN (bảng 2)\
Bảng 2. Tỉ lệ kháng nguyên NS1-DEN (n = 66)
Số mẫu

NS1-DEN (+)
n

tỉ lệ %
66

30

45,45
Tỉ lệ kháng nguyên NS1-DEN theo thời gian khởi phát (bảng 3)
Bảng 3. Tỉ lệ kháng nguyên NS1-DEN theo thời gian khởi phát

(n=66)
Ngày sau sốt (N)

Tổng số ca

NS1-DEN (+)
n

Tỉ lệ %
N2 – N4

10

5

50,00
N5 – N8

27

12

44,44
N11

1

0

0,00

Theo dõi SXH

28

13

46,42
Tỉ lệ kháng nguyên NS1-DEN theo lứa tuổi (bảng 4)
Bảng 4. Tỉ lệ kháng nguyên NS1-DEN theo lứa tuổi (n=66)
Lứa tuổi

Tổng số ca

NS1-DEN (+)
n

Tỉ lệ %
< 40 tuổi

55

28

50,90
³ 40 tuổi

11

2


18,18
5. So sánh với kết quả MAC-ELISA đã được tiến hành trước đó (bảng
5):
Bảng 5. So sánh kết quả phát hiện NS1-DEN và IgM
Ngày sau sốt (N)

NS1-DEN(+), IgM (+)

NS1-DEN(+), IgM (-)

NS1-DEN(-), IgM (+)

NS1-DEN(-), IgM (-)

Tổng số
n

%

n

%

n

%

n

%


n

%
N2 – N4

3

30,0

3

30,0

1

10,0

3

30,0

10

100,0
N5 – N8

10

37,04


1

3,74

10

37,0

6

22,22

27

100,0
N11

0



0



0




1



1


Theo dõi SXH

10

35,71

3

10,71

9

32,1

6

21,43

28

100,0
Tổng số


23

34,85

7

10,61

20

30,3

16

24,24

66

100,0
BÀN LUẬN
Về giới và tuổi trong lô nghiên cứu (Bảng 1)
Số bệnh nhân nữ có tỉ lệ cao so với nam (53,03% so với 46,97%), sự
khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỉ lệ này không khác với số
liệu của các nghiên cứu khác trong và ngoài nước(4,5,6,12,13,14,15).
Cũng theo các nghiên cứu này, người lớn không phải là đối tượng
chính mắc bệnh SD/SXHD vì chỉ chiếm tỉ lệ khoảng 10% số bệnh nhân nhập
viện do SD/SXHD. Trong những năm gần đây, SD/SXHD người lớn đã gia
tăng đáng kể tại miền Nam Việt nam, từ 14% tổng số bệnh nhân SXH nhập
viện năm 1991 đến 36% năm 2001(5,6,12). Nghiên cứu của chúng tôi chỉ
ghi nhận những ca nghi SD/SXHD ở người lớn, có lứa tuổi phân bố từ 16

đến 90. Tuy là nhóm bệnh nhân người lớn nhưng chủ yếu vẫn là nhóm tuổi
trẻ - dưới 40 tuổi (83,33%). Nhóm tuổi còn lại – từ 40 tuổi trở lên – chỉ
chiếm tỉ lệ rất thấp (16,67%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Phát hiện kháng nguyên NS1-DEN trong huyết thanh bệnh nhân
Trong 66 mẫu huyết thanh thuộc lô nghiên cứu có 30 mẫu cho kết quả
dương tính với kháng nguyên NS1-DEN, chiếm tỉ lệ 45,45% (bảng 2), giúp
chẩn đoán xác định bệnh SD/SXHD. Tỉ lệ này thấp hơn tỉ lệ kháng thể IgM
hiện diện trong huyết thanh bệnh nhân trong một nghiên cứu mới đây của
chúng tôi trên cùng một lô bệnh nhân(4) (45,45% so với 62,38%). Nếu phân
tích theo thời gian khởi phát (bảng 3), chúng tôi ghi nhận được tỉ lệ kháng
nguyên NS1-DEN dương tính ở các nhóm bệnh nhân sốt từ ngày thứ 2 đến
thứ 4 (N2-N4), N5-N8 hoặc không ghi nhận được thời gian lần lượt là
50,00%; 44,44% và 46,42%. Nhóm bệnh nhân N2-N4 có khuynh hướng cho
tỉ lệ phát hiện kháng nguyên NS1-DEN cao hơn các nhóm khác nhưng sự
khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Như chúng ta đã biết, thách thức lớn nhất để xử trí bệnh nhiễm cấp là
phát hiện nhanh và đặc hiệu virus dengue trong giai đoạn cấp để điều trị
bệnh nhân kịp thời. Phương pháp phân lập và định danh virus hoặc phát hiện
nucleic acid của virus cho phép chẩn đoán sớm trong giai đoạn sốt, nhưng cả
hai phương pháp này đều cần những labo chuyên ngành (specialized
laboratories) và không cho kết quả ngay lập tức. Phát hiện kháng thể đặc
hiệu với virus dengue đã được dùng cho chẩn đoán thường qui. Vấn đề là ở
chỗ kháng thể chỉ xuất hiện sau khi có triệu chứng, thường từ ngày thứ tư
sau sốt. Phương pháp phát hiện protein không cấu trúc (nonstructural - NS1)
của virus dengue trong máu mới xuất hiện gần đây được coi như phương
pháp chẩn đoán sớm bệnh SD/SXHD. Kháng nguyên NS1-DEN hiện diện
trong tuần hoàn từ ngày thứ nhất đến ngày thứ chín sau
sốt(1,3,7,8,10,11,12).
Về tỉ lệ kháng nguyên NS1-DEN theo lứa tuổi (bảng 4)
Phân tích tỉ lệ kháng nguyên NS1-DEN xuất hiện theo lứa tuổi bệnh

nhân chúng ta nhận thấy: ở nhóm tuổi trẻ, dưới 40 tuổi, có 28 trong số 55 ca
được chỉ định làm xét nghiệm cho kết quả dương tính với kháng nguyên
NS1-DEN, chiếm tỉ lệ 50,9%, cao hơn hẳn tỉ lệ này ở nhóm tuổi từ 40 trở lên
(18,18%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả ghi nhận được
chứng tỏ: ở nhóm tuổi càng trẻ, chẩn đoán lâm sàng “sốt xuất huyết” càng
phù hợp với kết quả phát hiện kháng nguyên NS1-DEN do tỉ lệ dương tính
càng cao.
So sánh với kết quả MAC-ELISA
Đã được tiến hành trước đó (bảng 5) chúng tôi ghi nhận được:
- Có 23 ca (34,85%) cho kết quả dương tính với cả hai phương pháp,
nghĩa là phát hiện được cả kháng nguyên NS1-DEN và kháng thể IgM của
virus dengue. Đây là những ca được chẩn đoán chính xác là SD/SXHD vì
kháng nguyên NS1-DEN xuất hiện từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 9 sau sốt,
kháng thể IgM của virus dengue bắt đầu xuất hiện vào ngày thứ 4 với tỉ lệ
30-40%, ngày thứ 5 (75%) và có thể phát hiện được ở 100% bệnh nhân bị
SD/SXHD vào ngày thứ 10 sau sốt(3,4,5,9,12).
- Với 7 ca (10,61%) phát hiện được kháng nguyên NS1-DEN nhưng
không có kháng thể IgM của virus dengue, chúng ta vẫn khẳng định đây là
những bệnh nhân mắc SD/SXHD. Ơ nhóm này, kháng thể IgM chưa kịp
xuất hiện trong khi kháng nguyên đang hiện diện trong huyết thanh bệnh
nhân.
- Với 16 ca (24,24%) không phát hiện được cả kháng nguyên NS1-
DEN và kháng thể IgM của virus dengue, chúng ta cũng có thể xác định
được rằng các bệnh nhân này không mắc bệnh SD/SXHD. Kết quả xét
nghiệm âm tính cả kháng nguyên và kháng thể IgM của virus dengue cho
phép chúng ta loại trừ chẩn đoán SD/SXHD ở bệnh nhân người lớn có
những biểu hiện phức tạp và chỉ mắc các bệnh lý khác như nhiễm khuẩn
huyết, sốt thương hàn, sốt do nhiễm siêu vi khác,
- Có 20 ca (30,3%) không phát hiện được kháng nguyên NS1-DEN
nhưng lại phát hiện được kháng thể IgM của virus dengue.

Có thể lý giải như sau:
Bệnh nhân thực sự không mắc bệnh SD/SXHD nên không phát hiện
được kháng nguyên NS1-DEN. Kháng thể IgM của virus dengue hiện diện
có thể là do bệnh nhân bị SD/SXHD trước đó ít lâu vì kháng thể IgM của
virus dengue có thể tồn tại trong máu 90 ngày sau sốt.
Bệnh nhân mắc bệnh SD/SXHD nên phát hiện được kháng thể igm
của virus dengue. Không phát hiện được kháng nguyên NS1-DEN do kháng
nguyên đã biến mất dần dù vẫn còn có thể phát hiện được vào ngày thứ 9 sau
sốt. Một nghiên cứu trên 177 bệnh nhân(8) cho thấy: khả năng phát hiện
kháng nguyên NS1-DEN khi bệnh nhân bắt đầu sốt (N0) là 100%, sau sốt 1
– 4 ngày (N1 – N4): tỉ lệ này dao động trong khoảng 88 – 96%, nhưng đến
ngày thứ năm (N5) tỉ lệ kháng nguyên NS1-DEN giảm hẳn: chỉ còn 53%,
ngày thứ sáu (N6) là 36% và đến ngày thứ mười (N10) sau sốt sẽ không còn
phát hiện được kháng nguyên NS1-DEN (0%). Như vậy, có sự biến đổi
kháng nguyên NS1-DEN theo thời gian: tỉ lệ phát hiện cao vào những ngày
đầu sau sốt, giảm dần và biến mất hẳn sau ngày thứ 9 (N9), tương tự như kết
quả của phương pháp phát hiện virus (nuôi cấy) và phát hiện bộ gen virus
dengue (RT-PCT). Con số 37% cho kết quả kháng nguyên NS1-DEN âm
tính nhưng lại phát hiện được kháng thể igm của virus dengue trong nhóm
huyết thanh được khảo sát vào ngày N5-N8 sau sốt so với 10% của nhóm

×