ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC VÀ HÓA MÔ MIỄN DỊCH
CỦA SARCÔM BAO HOẠT DỊCH
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm về tuổi, giới tính, vị trí u, mô bệnh học,
hóa mô miễn dịch của sarcôm bọc hoạt dịch.
Phương pháp nghiên cứu: khảo sát hồi cứu trên số lượng 44 cas có
chẩn đoán sarcôm bọc hoạt dịch tại Bv K Hà Nội.
Kết quả: thường gặp ở độ tuổi < 40, nam/nữ 0,76, vị trí u thường gặp
là ở chi dưới 61,37%, có 3 loại mô bệnh học, thường gặp nhất là loại đơn
pha tế bào hình thoi, các tế bào biểu mô dương tính với CK 100%, tế bào
hình thoi dương tính với vimentin 100%.
Kết luận: Sarcôm bao hoạt dịch thường gặp ở nữ, trẻ, ở chi dưới, với
loại mô bệnh học thường gặp là loại đơn pha tế bào hình thoi, dương tính
100% với vimentin.
SUMMARY
PATHOHISTOLOGICAL AND IMMUNOHISTOCHEMICAL
FEATURES
OF SYNOVIAL SARCOMA
Bui Thi My Hanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement
of No 3 – 2007: 146 - 151
Purpose: Decribes characteristies of age, gender, tumor site,
pathohistology, immunohistochemistry of synovial sarcoma.
Study methods: Retrospective study on 44 cases of synovial sarcoma
from Ha Noi K hospital.
Results: Most patients with synovial sarcoma are under 40 year old
(77,27%), male/female ratio is 0,76, most sites are extremities, especially in
lower limbs (61,37%). There are 3 histopathologic subtypes, most of them is
monophasis spindle cell synovial sarcoma. Immunohistochemically, 100%
SS having epithelial cells stained CK, spindle cells stained vimentin in 100%
cases.
Conclusion: Synovial sarcoma often occur in young female, at lower
limbs with predominent subtype is monophasis spindle cell, 100% stained in
vimentin.
ĐẶT VẤN ĐỀ
* Bộ môn Giải phẫu bệnh - Đại học Y Hà Nội
Sarcôm bao hoạt dịch là một u ác tính hiếm gặp với tỷ lệ mắc bệnh
2,75/100.000 dân (2). Mặc dù tên gọi như vậy nhưng nguồn gốc tế bào u vẫn
chưa được xác định, nên sarcôm bao hoạt dịch (BHD) được xếp vào nhóm
các sarcôm không rõ nguồn gốc và chiếm trên 10% các sarcôm mô mềm. U
có hình thái mô học khá đa dạng và phức tạp dễ nhầm lẫn với các sarcôm tế
bào hình thoi khác như sarcôm xơ, u vỏ thần kinh ngoại vi ác tính
(UVTKNVAT), u ngoại mạch, thậm chí có thể chẩn đoán nhầm lẫn với các
ung thư phần phụ của da hoặc di căn ung thư biểu mô Vì vậy để chẩn đoán
xác định sarcôm bao hoạt dịch, bên cạnh các đặc trưng về mô học, nhiều
trường hợp cần sự hỗ trợ của các kỹ thuật bổ trợ như hoá mô miễn dịch
(HMMD) và các thông tin về lâm sàng như tuổi bệnh nhân, vị trí u Do tính
hiếm gặp của này, nên ở Việt Nam còn thiếu các nghiên cứu đề cập tới. Vì
vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu:
- Xác định sự phân bố sarcôm BHD theo tuổi, giới, vị trí u.
- Tìm hiểu một số đặc điểm mô học và hoá mô miễn dịch của các
sarcôm bao hoạt dịch.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 44 sarcôm bao hoạt dịch được chẩn đoán tại khoa Giải Phẫu
Bệnh bệnh viện K Hà Nội trên các bệnh phẩm phẫu thuật, trong thời gian từ
tháng 6 năm 2000 đến tháng 6 năm 2006 có các bệnh phẩm hoặc các khối
nến.
Phương pháp nghiên cứu
- Các bệnh phẩm phẫu thuật được cố định trong focmol trung tính
10%, mỗi trường hợp được lấy 3 mảnh x1cmx1cmx0,2cm tại 3 vùng khác
nhau của u. Các mẫu bệnh phẩm được chuyển đúc trong paraffin và cắt
mỏng, nhuộm hematoxylin- eosin như thường qui.
- 20 trường hợp được nhuộm hoá mô miễn dịch theo phương pháp
miễn dịch men Avidin Biotin Complex tại khoa GPB bệnh viện K Hà Nội
với CK, EMA, vimentin, CD34, S100, CD99, LCA, chromoganin,
synaptophysin.
Đánh giá kết quả
- Các tiêu bản mô học được quan sát dưới kính hiển vi quang học,
xem xét hình thái tế bào, cấu trúc mô u.
- Các tiêu bản nhuộm HMMD: phản ứng dương tính khi tế bào u bắt
màu nâu. Phản ứng âm tính khi các tế bào u không bắt màu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phân bố sarcôm bao hoạt dịch theo giới
Trong nghiên cứu này, sarcôm bao hoạt dịch thường gặp ở nữ hơn
(56,82%) ở nam giới (43,18%), tỷ lệ nam/nữ là 0,76.
Bảng 1. Phân bố sarcôm mô mềm theo giới
Giới Số
trường hợp
T
ỷ lệ
%
Nam 19 43,18
Nữ 25 56,82
Tổng
cộng
44 100
Phân bố sarcôm bao hoạt dịch theo nhóm tuổi
Trong nghiên cứu, chúng tôi không gặp trường hợp nào dưới 10 tuổi,
tuổi trẻ nhất là 10 tuổi (1 trường hợp, nữ), già nhất là 76 tuổi
(1 trường hợp, nam), nhóm tuổi thường gặp nhất là 20-29 (36,36%),
dưới 40 tuổi chiếm 77,27%, dưới 50 tuổi chiếm 90,91%.
Bảng 2. Phân bố sarcôm bao hoạt dịch theo nhóm tuổi
Tuổi Số
TH
T
ỷ lệ
%
0-9 0
10-19 8 18,18
20-29 16 36,36
30-39 10 22,73
40-49 6 13,64
50-59 3 6,82
>=60 1 2,27
Tổng
cộng
44 100
Phân bố sarcôm bao hoạt dịch theo vị trí u
Bảng 3. Phân bố sarcôm bao hoạt dịch theo vị trí u
Vị trí Số
trường
hợp
T
ỷ lệ
%
Đ
ầu mặt
cổ
5 11,36
Thân
mình
1 2,27
Chi trên
11 25,00
Chi dưới
27 61,37
Tổng
cộng
44 100
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, sarcôm bao hoạt dịch hầu hết gặp ở chi,
gần khớp, đặc biệt chi dưói (27/44 trường hợp 38,84%), trong đó chủ yếu là vùng
bẹn đùi (18/44 trường hợp), chi trên gặp 11 trường hợp (25%), thân mình chỉ gặp
1 trường hợp ở thành bụng (2,27%), khu vực đầu cổ gặp 5 trường hợp (11,36%),
trong đó 1 trường hợp ở thái dương, 4 trường hợp ở vùng cổ trước dưới.
Mô bệnh học
Trong số 44 sarcôm bao hoạt dịch được nghiên cứu, chúng tôi thấy
18/44 trường hợp (40,91%) loại hai pha (biphasic), đơn pha hình thoi gặp
20/44 trường hợp (45,45%), loại biệt hoá kém có 6 trường hợp (13,64%),
không gặp trường hợp nào loại biểu mô đơn thuần.
Bảng 4. Sự phân bố các dưới typ mô bệnh học
Dư
ới typ
mô bệnh học
Số
trường
hợp
T
ỷ lệ
%
Hai pha 18 40,91
Đơn pha
hình thoi
20 45,45
Đơn pha
biểu mô
0
Bi
ệt hoá
kém
6 13,64
Tổng
cộng
44 100
Sarcôm bao hoạt dịch hai pha chứa cả 2 thành phần: tế bào biểu mô và
tế bào hình thoi với tỷ lệ khác nhau, đan xen vào nhau nhưng ranh giới khá
rõ ràng.
+ Thành phần biểu mô chứa những cấu trúc ống tuyến, một số trường
hợp có cấu trúc nhú hoặc hình thành các ổ, dải đặc. Các ống tuyến được lót
bởi những tế bào biểu mô hình khối vuông hoặc hình trụ, trong khi các cấu
trúc nhú thường được lót bởi những tế bào biểu mô dẹt có lõi là các tế bào
hình thoi. Hiện tượng biệt hoá vảy không gặp.
Những tế bào biểu mô thường nhạt màu hơn, bào tương rộng hơn
những tế bào hình thoi, ranh giới bào tương thường rõ. Nhân tế bào hình tròn
hoặc hình túi. Các tế bào biểu mô chế một loại chất nhày mucicarmin ưa
acid, dạng hạt hoặc giống chất keo và được chứa trong lòng tuyến. Số lượng
thành phần biểu mô trong sarcôm bao hoạt dịch hai pha rất khác nhau tuỳ
theo từng trường hợp.
+ Thành phần tế bào hình thoi được tạo nên từ những tế bào hình thoi
nhỏ, đồng dạng, tỉ lệ nhân/bào tương cao, sắp xếp thành bó giống như
sarcôm xơ hoặc thành mảng. Một số tế bào hơi tròn hơn, sáng hơn tạo thành
nhóm nhỏ hoặc đứng xen kẽ giữa các tế bào hình thoi khác, nhưng chúng
vẫn có kích thước nhỏ, không rõ bào tương. Nhân của các tế bào hình thoi có
hình bầu dục và thường gối lên nhau, chất nhiễm sắc đậm nhưng mịn và
phân bố đều. Hoạt động nhân chia thay đổi tuỳ trường hợp, nhưng nhìn
chung nhân chia thường không nhiều (dưới 20 nhân chia/10 vi trường). Bào
tương dạng dải, mảnh, khó phát hiện, ranh giới tế bào không rõ.
Sarcôm bao hoạt dịch đơn pha hình thoi: Chỉ gồm các tế bào hình thoi
giống như những tế bào hình thoi trong sarcôm bao hoạt dịch hai pha với các
tế bào nhỏ đồng dạng, một số tế bào hơi tròn hơn, sáng hơn như được gói lại
gợi sự biệt hóa biểu mô. Các tế bào thường vây quanh các khe mạch chia
nhánh (75% các trường hợp).
Sarcôm bao hoạt dịch kém biệt hoá: gồm nổi trội các tế bào u kém
biệt hoá, tròn nhỏ hoặc hơi thoi, kiềm tính đậm tạo thành mảng đặc hoặc xen
kẽ với những ổ nhỏ sarcôm bao hoạt dịch 2 pha (2 trường hợp) hoặc xen lẫn
với các thành phần tế bào hình thoi giống như trong sarcôm bao hoạt dịch
đơn pha hình thoi (4 trường hợp). Một số tế bào kém biệt hoá hình thành cấu
trúc hoa hồng giả (2 trường hợp) giống như trong u thần kinh ngoại bì
nguyên thuỷ (PNET).
Trong cả 3 dưới typ mô học, hiện tưọng can xi hoá chỉ gặp ở 3 trường
hợp (6,71%) dưới dạng lắng đọng can xi thành ổ giữa các tế bào hình thoi
(loại hai pha gặp 1 trường hợp và đơn pha hình thoi gặp 2 trường hợp). Mô
đệm dạng keo hầu hết có thể gặp trong các trường hợp nhưng chỉ thực sự nổi
trội thành các dải đặc trong 5/44 trường hợp. Sự xâm nhập các tế bào mast
trong mô đệm rất hiếm gặp (3/44trường hợp). Hoại tử u cũng ít thấy và chỉ
là những ổ nhỏ.
Hoá mô miễn dịch
20 trường hợp được nhuộm HMMD trong đố có 4 sarcôm BHD 2 pha,
10 sarcôm BHD đơn pha thoi, 6 sarcôm BHD kém biệt hoá đã cho thấy:
- Sarcôm BHD 2 pha: tất cả các tế bào biểu mô biệt hoá rõ trên mô
học dương tính mạnh với CK, dương tính yếu hơn với EMA, âm tính với
vimentin. Các tế bào hình thoi dương tính mạnh với vimentin, CK và EMA
chỉ dương tính rải rác với 1 số tế bào có xu hướng biệt hoá biểu mô (tế bào
hoi tròn, sáng màu).
- Sarcôm BHD đơn pha thoi: các tế bào u dương tính mạnh với vimentin
(10/10), rải rác 1 vài tế bào dương tính với CK (8/10), nhuộm EMA kết quả
không rõ ràng, âm tính với CD34, S100 dương tính dạng ổ trong 2 trường hợp.
- Sarcôm BHD kém biệt hoá: 6/6 trường hợp có các tế bào u âm tính
với CD99, LCA, desmin, Chromoganin, S100, dương tính với CK thành
mảng hoặc thành ổ trong những vùng có xu hướng biệt hoá biểu mô. Nhuộm
EMA dương tính yếu hơn hoặc không rõ ràng.
BÀN LUẬN
Về tuổỉ, giới và vị trí u
Về giới
hầu hết các tác giả khác đều thấy sarcôm bao hoạt dịch nổi trội hơn ở
nam giối, tỷ lệ nam/nữ là
(1,2)
, nhưng trong nghiên cứu này thì ngược lại, tỷ lệ
nam/nữ là 0,76. Điều này có lẽ do nghiên cứu của chúng tôi chỉ chọn các
sarcôm BHD được chẩn đoán tại bệnh viện K Hà Nội trên các bệnh phẩm
phẫu thuật nên không đại diện.
Về tuổi
Sarcôm bao hoạt dịch là bệnh của thiếu niên và người trẻ với tuổi
trung bình 26,5
(7)
. Theo Viện Bệnh học Quân đội Mỹ (AFIP), lứa tuổi dưới
50 chiếm 90%, dưới 40 tuổi chiếm 72%, không gặp trường hợp nào ở trẻ
mới sinh và có thể gặp ở trẻ dưới 10 tuổi
(6)
. Theo Cadman và cộng sự
(2)
lứa
tuổi từ 10-50 chiếm 83,6%. Các kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu
của chúng tôi. Theo nhiều tác giả thì tuổi cũng là một yếu tố đánh giá tiên
lượng của sarcôm BHD. Các bệnh nhân tuổi càng trẻ, đặc biệt trẻ em có tiên
lượng tốt hơn
(7)
.
Về vị trí u
Mặc dù tên gọi sarcôm BHD nhưng sarcôm này có thể gặp ở bất kỳ vị
trí nào trên cơ thể, thậm chí ở thận, phổi, mắt, hầu họng…nhưng vị trí
thường gặp nhất của chúng là mô mềm gần khớp, đặc biệt các khớp lớn. Vì
vậy, các chi đặc biệt chi dưới là vị trí hay gặp nhất của sarcôm BHD. Theo
AFIP, 83% sarcôm BHD ở chi, chi trên chiếm 23%, chi dưới 60%, 9% ở
vùng đầu cổ và 8,1% ở thân mình và các vị trí khác. Các kết quả này cũng
tương tự của chúng tôi nhưng theo họ, vùng đùi dưới- khớp gối là vị trí
thường gặp nhất (1/3 các trường hợp) thì trong nghiên cứu của chúng tôi
vùng bẹn -đùi là vị trí hay gặp nhất (18/44 trường hợp). Trong nhiên cứu này
cũng chưa gặp trường hợp nào ở các vị trí như thận, phổi, sau phúc mạc
Về đặc điểm mô bệnh học
Sarcôm bao hoạt dịch là một thuật ngữ để chỉ những sarcôm mô mềm
trước đây chỉ tìm thấy ở các khớp và có cấu trúc giống như của bao hoạt
dịch, vì vậy chỉ có biến thể hai pha được ghi nhận.
Những nghiên cứu gần đây đã cho thấy sarcôm bao hoạt dịch không
chỉ được tìm thấy ở các khớp mà còn có thể gặp ở những vùng khác như mô
mềm ở cổ, khoang miệng, thành bụng trước, sau phúc mạc
(3,10)
. Đặc biệt,
các tế bào trong sarcôm bao hoạt dịch không có liên quan về HMMD với các
tế bào biểu mô bao hoạt dịch bình thường (âm tính với CK, dương tính với
vimentin). Tuy vậy, hiện nay người ta vẫn quen dùng thuật ngữ này hơn là
chấp nhận một thuật ngữ mới. Những nghiên cứu về HMMD và di truyền tế
bào đã cho thấy các thành phần tế bào hình thoi trong sarcôm bao hoạt dịch
cũng bộc lộ dấu ấn biểu mô như CK, EMA và cũng có sự chuyển vùng
nhiễm sắc thể đặc trưng t(X;18) giống như các thành phần biểu mô. Do đó,
các sarcôm tế bào hình thoi có đặc điểm giống với thành phần hình thoi
trong sarcôm bao hoạt dịch cổ điển đã được ghi nhận là biến thể hình thoi
của sarcôm bao hoạt dịch và trở thành một chẩn đoán thường gặp hơn loại
cổ điển
(8)
. Biến thể đơn pha biểu mô cũng đã được chấp nhận về mặt lý
thuyết, nhưng thực tế rất hiếm gặp, biến thể này chỉ được khẳng định sau khi
đã loại trừ được các ung thư biểu mô.
Nhìn chung, chẩn đoán sarcôm bao hoạt dịch hai pha thường không
khó khăn, vì gần như không có u nào trong cơ thể giống với biến thể này.
Tuy vậy, trong những trường hợp thành phần tuyến nổi trội và rất ít tế bào
hình thoi, có thể chẩn đoán nhầm với một di căn ung thư biểu mô hoặc ung
thư biểu mô phần phụ của da. Để phân biệt, cần xem xét một cách cẩn thận
để phát hiện các thành phần tế bào hình thoi.
Những sarcôm bao hoạt dịch hai pha có sự nổi trội của thành phần tế
bào hình thoi và ít cấu trúc tuyến cũng khó phân biệt với biến thể tuyến của
UVTKNVAT hoặc lại được chẩn đoán là sarcôm bao hoạt dịch đơn pha hình
thoi. Cấu trúc tuyến trong sarcôm bao hoạt dịch có đặc điểm là chứa một
chất nhầy ưa acid thường ở trong lòng ống hơn là trong bào tương tế bào.
Cấu trúc tuyến trong UVTKNVAT thường dạng ruột.
Việc tìm kiếm thành phần biểu mô trong một sarcôm bao hoạt dịch có
sự nổi trội của các tế bào hình thoi cũng rất quan trọng vì nó liên quan đến
tiên lượng bệnh. Trong một nghiên cứu của Cagle và cộng sự đã cho thấy
thời gian sống thêm của bệnh nhân phụ thuộc vào tỷ lệ nhân chia và thành
phần tuyến. Những sarcôm bao hoạt dịch hai pha có tỷ lệ nhân chia thấp
(dưới 15 nhân chia/10 vi trường) thì tỷ lệ sống thêm 3 năm là 100%, trong
khi những sarcôm bao hoạt dịch đơn pha hình thoi có tỷ lệ nhân chia cao
(trên 15 nhân chia/10 vi trường), thời gian sống thêm 3 năm chỉ có 43%
(1)
.
Vì vậy, những mảnh sinh thiết đủ lớn hay việc lấy bệnh phẩm ở những vị trí
khác nhau của u là rất cần thiết để không những đủ tiêu chuẩn để khẳng định
sarcôm bao hoạt dịch mà còn xác định một cách chắc chắn sarcôm bao hoạt
dịch hai pha hay đơn pha. Trong thực tế nghiên cứu của chúng tôi, đã có một
truờng hợp chỉ được chẩn đoán là một sarcôm tế bào hình thoi trên bệnh
phẩm sinh thiết, nhưng sau đó trên bệnh phẩm phẫu thuật lại là một sarcôm
bao hoạt dịch hai pha điển hình; một trường hợp khác, sarcôm bao hoạt dịch
hai pha chỉ được chẩn đoán sau khi bệnh phẩm đã được lấy ở nhiều vị trí
khác nhau của u.
Với biến thể đơn pha hình thoi, việc chẩn đoán gặp khó khăn hơn.
Giống như một số sarcôm khác, các tế bào hình thoi trong sarcôm bao hoạt
dịch cũng sắp xếp thành bó giống như sarcôm xơ (trong quá khứ đã có nhiều
tranh cãi và nhiều tác giả cho rằng không thể phân biệt được với sarcôm
xơ)
(1)
; cũng có khi các tế bào tạo nên các vùng xoáy nhỏ hoặc những vùng
nhầy ít tế bào giống như UVTKNVAT. Tuy vậy, các tế bào hình thoi trong
sarcôm bao hoạt dịch cũng có những đặc điểm khá riêng biệt, có thể sử dụng
để phân biệt với các sarcôm tế bào hình thoi khác như các tế bào khá đồng
dạng, kích thước nhỏ, một số tế bào thường tròn hơn, nhạt mầu hơn như
được "gói lại" gợi sự biệt hoá biểu mô. Ngoài ra, còn có 3 dấu hiệu khác mà
chúng tôi thấy khá đặc trưng của tế bào hình thoi trong cả sarcôm bao hoạt
dịch đơn pha và hai pha, cũng được một số tác giả đề cập tới:
- Những bó sợi tạo keo dầy, giống như cuộn thừng (đôi khi kính hoá)
cùng những tế bào rất mảnh kề bên tạo hình ảnh giống như xương hoặc
những hình giả hốc.
- Sự calci hoá hoặc xương hoá.
- Mạng lưới mao mạch phong phú giống u ngoại mạch.
Một số tác giả còn nhấn mạnh đến sự xâm nhập của các dưỡng bào
trong cả loại hai pha và đơn pha
(2,4,10)
. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của
chúng tôi ít thấy sự xuất hiện của loại tế bào này.
Gần đây biến thể sarcôm BHD kém biệt hoá được thừa nhận, nhưng
do tính hiếm gặp và sự kém biệt hoá của nó để khẳng định cần nhuộm
HMMD để tìm sự biệt hóa biểu mô của các tế bào u. Nhìn chung saôm BHD
kém biệt hoá có tỷ lệ nhân chia cao hơn và có thể thấy hoại tử u trong khi
các biến thể khác gần như không gặp hoại tử u. Các tế bào kém biệt hoá
trong biến thể này rất giống với các tế bào trong các u tế bào tròn nhỏ khác
đặc biệt thần kinh ngoại bì nguyên thuỷ (PNET), nên trên mô học cần xác
định được các thành phần của sarcôm BHD 2 pha hoặc đơn pha
(5)
.
Về hóa mô miễn dịch
Trong nhiều trường hợp, sarcôm bao hoạt dịch khó phân biệt với các
sarcôm tế bào hình thoi khác, đặc biệt là sarcôm xơ, UVTKNVAT, u ngoại
mạch ác tính… Khác với các sarcôm này, các tế bào trong sarcôm bao hoạt
dịch bộc lộ các dấu ấn của biểu mô gồm cả CK và EMA trong khi âm tính
với S-100, CD34, desmin, actin và rất nhiều dấu ấn khác
(1)
.
Theo Kempson và các cộng sự thì 100% sarcôm bao hoạt dịch hai pha
dương tính với CK và EMA, các thành phần hình thoi cũng dương tính với
CK và EMA nhưng thường thành ổ, yếu hơn và chỉ gặp trong 3/4 các trường
hợp, trong khi chỉ 50% sarcôm bao hoạt dịch đơn pha hình thoi dương tính
với CK và EMA. Chỉ 15-30% các trường hợp sarcôm bao hoạt dịch hai pha
có thành phần biểu mô dương tính với vimentin, trong khi 80-90% sarcôm
bao hoạt dịch đơn pha và đa pha có thành phần hình thoi dương tính với
vimentin
(6)
.
Theo Brooks, gần 90% sarcôm bao hoạt dịch đơn pha hình thoi bộc lộ
CK và EMA, thậm chí trong thực tế, sarcôm bao hoạt dịch còn chứa một CK
đặc hiệu là CK19.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, cả 20 trường hợp được nhuộm CK
đều dương tính, nhưng không phải tất cả các tế bào u, mà chỉ nhuộm những
tế bào biểu mô hoặc có xu hướng biệt hoá biểu mô trong biến thể tế bào hình
thoi và biến thể kém biệt hoá. Nhuộm EMA của các tế bào trong các sarcôm
BHD bắt màu yếu hơn CK ngay cả với các sarcôm BHD kém biệt hoá và
loại hình thoi mà theo một số tác giả trong những trường hợp này EMA lại
tỏ ra hữu dụng hơn để phát hiện sự biệt hoá biểu mô.
Nhiều tác giả thấy rằng các sarcôm bao hoạt dịch có thể dương tính
với CD99 nhưng ở nghiên cứu này cả 6 sarcôm BHD kém biệt hoá nhuộm
CD99 đều âm tính.
KẾT LUẬN
Sarcôm bao hoạt dịch thường gặp ở người trẻ, dưới 40 tuổi
(77,27%%), nữ giới thường gặp hơn nam giới, tỷ lệ nam/nữ là 0,76. Vị trí
hay gặp nhất của sarcôm bao hoạt dịch là ở chi (86,37%), trong đó chủ yếu
là chi dưới (61,37%), ít gặp nhất ở thân mình (2,5%). Sarcôm BHD đơn pha
hình thoi và sarcôm BHD kém biệt hoá thường khó chẩn đoán hơn loại hai
pha. Đặc điểm nổi bật của u là chứa những tế bào thoi đồng dạng, nhỏ, xếp
gối lên nhau, vây quanh các khe mạch chia nhánh, ít hoại tử u. Nhuộm
HMMD, CK chứng tỏ là một dấu ấn nhạy hơn EMA để phát hiện sự biệt hoá
biểu mô trong sarcôm bao hoạt dịch.