Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

SALBUTAMOL KHÍ DUNG TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN Ở TRẺ EM pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 18 trang )

SALBUTAMOL KHÍ DUNG TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM
TIỂU PHẾ QUẢN Ở TRẺ EM


TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của salbutamol khí dung trên các trẻ
viêm tiểu phế quản.
Phương pháp: Bệnh nhi được chia làm 2 nhóm có khí dung
salbutamol với liều 0,15mg/kg/lần pha với 2 ml natricloride 0,9%, dùng 2lần
cách nhau 30phút và nhóm đối chứng. Trước và sau mỗi lần khí dung đánh
giá độ bão hoà oxy, nhịp tim, nhịp thở. So sánh các chỉ số này tại các thời
điểm trước khí dung (T
1
) và SAU KHÍ DUNG 15 PHÚT (T
2
), SAU 30 phút
(T
3
); sau 60 phút (T
4
). So sánh diễn biến các triệu chứng lâm sàng và số
ngày điều trị trung bình giữa 2 nhóm.
Kết quả: Từ tháng 7/2004 đến tháng 7/2005 có 80 trẻ dưới 1 tuổi bị
VTPQ, trong đó có 53(66,3%) trẻ trai và 27(33,7%) trẻ gái được đưa vào
nghiên cứu. Tuổi trung bình là 5,4  2,69 tháng. Có 59 trẻ ở thể nhẹ và
trung bình và 21 trẻ ở thể nặng. Số trẻ được khí dung là 47 và nhóm chứng
là 33. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ bão hòa oxy, nhịp
tim và nhịp thở trước và sau khí dung. Không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về diễn biến của các triệu chứng lâm sàng và thời gian nằm viện
giữa hai nhóm.
Kết luận: Salbutamol khí dung không có tác dụng trong điều trị viêm


tiểu phế quản cấp ở trẻ em.
ABSTRACT
SALBUTAMOL NEBULISER IN THE TREATMENT OF
BRONCHIOLITIS IN INFANTS
Nguyen Tien Dung, Vu Thi La * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 –
Supplement of No 4 - 2007: 17 – 21
Objective: To evaluate effects of sabutamol nebuliser for infants with
bronchiolitis.
Method: Patients were divided into two groups. Treatment group
were given salbutamol nebulaser with dose of 0.15mg/kg/time, aded by 2ml
sodium 0.9%, 2 times with 30 minute interval and control group. Indicators
of SaO
2
, heart rate and respiratory rate were measured before and after
nebuliser of salbutamol. This indicators were compared at times before
nebuliser (T
1
) and after nebuliser 15 minute(T
2
), 30 minute (T
3
), 60 minute
(T
4
). Clinical trends and mean treatment days were compared between two
groups.
Results: There were 80 infants under 1 year old with bronchiolitis to
be studied during from July 2004 to July 2005. Of those, there were
53(66.3%) male and 27(33.7) female. Mean age were 5.4  2.69 months.
There were 59 infants with mild and moderate classifications and 21 infants

with severe classification. There were 47 infants using salbutamol nebuliser
and 33 infants in the control group. There were no significant difference of
clinical trends and mean treatment days between two groups.
Conclusion: Sabutamol nebuliser do not have effect on the treatment
of acute bronchiolitis in infants.
ĐẶT VẤN ĐỀ
* Khoa Nhi – Bệnh viện Bạch Mai


Viêm tiểu phế quản thường gặp ở trẻ dưới 1 tuổi, nguyên nhân do
virus, trong đó chủ yếu là do virus hợp bào hô hấp (RSV: Respiratory
Syncytial virus) gây nên. Diễn biến lâm sàng khá phức tạp, có thể nhanh
chóng dẫn đến suy hô hấp nặng do tắc nghẽn đường hô hấp dưới. Hiện nay chưa
có thuốc điều trị đặc hiệu mà chủ yếu là chữa triệu chứng.
Trên thế giới đã có những nghiên cứu về hiệu quả của thuốc giãn phế
quản trong điều trị VTPQ nhưng kết quả không thống nhất. Có những
nghiên cứu cho rằng salbutamol không hiệu quả
(3;4;5)
. Ngược lại cũng có
nghiên cứu chứng minh được tính an toàn và hiệu quả của thuốc trong điều
trị VTPQ cấp
(2)
. Tuy nhiên vấn đề này ở nước ta chưa có nghiên cứu nào đề
cập đến. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu đánh giá hiệu
quả điều trị phối hợp của khí dung salbutamol trong viêm tiểu phế quản
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu
Là các bệnh nhi được chẩn đoán VTPQ điều trị tại khoa nhi bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 7/2004 đến tháng 7/2005.
Tiêu chuẩn chẩn đoán

Dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán của MC Connochi (1983)
(8)
đó là:
Bệnh xảy ra cấp tính với các dấu hiệu viêm long đường hô hấp cộng với khò
khè lần đầu ở trẻ dưới 1 tuổi.
Tiêu chuẩn loại trừ
Loại ra khỏi nghiên cứu những trường hợp: Trẻ khò khè từ lần thứ 2
trở đi hoặc Xquang phổi có tổn thương nhu mô hoặc khò khè do các nguyên
nhân khác như hen, dị vật đường thở, trào ngược dạ dày thực quản.v.v
Chẩn đoán mức độ nặng VTPQ khi vào viện chia làm 3 mức độ suy hô
hấp theo WHO (1994):
- Nhẹ: Không có suy hô hấp SaO
2
≥ 95%.
- Trung bình: Có suy hô hấp SaO
2
: 90 - 94%
- Nặng: Có suy hô hấp SaO
2
< 90%
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng
Phương pháp
Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào 2 nhóm:
- Nhóm 1: Nhóm khí dung salbutamol: Mỗi bệnh nhân được dùng 2
lần khí dung salbutamol, liều 0,15mg/kg/lần pha với 2 ml natricloride 0,9%
cách nhau 30phút.
-Nhóm 2: Không khí dung salbutamol
- Trước và sau mỗi lần khí dung đánh giá các chỉ số sau:

+ Đo độ bão hoà oxy, nhịp tim, nhịp thở bằng máy bedside monitoring
của Nhật. So sánh các chỉ số này tại các thời điểm: Trước khí dung (T
1
) và
SAU KHÍ DUNG 15 PHÚT (T
2
), SAU 30 phút (T
3
); sau 60 phút (T
4
)
+ So sánh diễn biến các triệu chứng lâm sàng và số ngày điều trị trung bình
giữa 2 nhóm.
Ngoài ra các bệnh nhân này đều được điều trị theo phác đồ chung là:
Nuôi dưỡng, bù dịch bằng đường uống hoặc qua sonde dạ dày hoặc tĩnh
mạch. Hút dịch mũi họng, thở oxygen hoặc hô hấp hỗ trợ. Kháng sinh nếu
có bội nhiễm vi khuẩn.
- Xử lý số liệu bằng phần mềm Epi - Info 6.04 và áp dụng các test thống kê
dùng trong y học.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung
Trong 80 trẻ VTPQ có 53(66,3%) trẻ trai và 27(33,7%) trẻ gái. Tuổi
trung bình là 5,4  2,69 tháng. Theo mức độ nặng nhẹ của bệnh có 59 trẻ ở
thể nhẹ và trung bình và 21 trẻ ở thể nặng. Kết quả nghiên cứu so sánh trước
và sau điều trị salbutamol khí dung ở cả 2 thể bệnh được trình bày trong các
bảng sau:
Bảng 1: Thay đổi nhịp thở tại các thời điểm trước và sau khí dung
Thể
bệnh
Thời

điểm
VTPQ
nhẹ + TB
(n = 34)

VTPQ
nặng
(n =
13)
T1
58,3

5,79
(1)

68,1

2,76
(1)

T2
58,0

5,94
(2)

67,3

3,92
(2)


T3
58,5

5,43
(3)

67,0
3,89
(3)

T4
57,2

6,02
(4)

67,6

2,81
(4)

Ghi chú P
(1;2-1;3-1;4)
>0,05
Bảng 2: Thay đổi nhịp tim tại các thời điểm trước và sau khí dung
Thể
bệnh
VTPQ
nhẹ + TB

VTPQ
nặng
Thời
điểm
(n =
34)
(n =
13)
T1
126,8
 7,38
(1)

146,5
 5,54
(1)

T2
128,3
 6,91
(2)

147,2
 5,34
(2)

T3
127,5
 7,30
(3)


146,8
 6,00
(3)

T4
125,5
 7,13
(4)

145,6
 8,04
(4)

Ghi chú P
(1;2-1;3-1;4)
>0,05
Bảng 3: Thay đổi độ bão hoà oxy tại các thời điểm trước và sau khí
dung
Thể
bệnh
Thời
điểm
VTPQ
nhẹ + TB
(n =
34)
VTPQ
nặng
(n =

13)
T1
93,1

2,21
(1)

87,4

2,87
(1)

T2
93,0

2,32
(2)

87,7

3,11
(2)

T3
93,3

2,48
(3)

87,6

2,59
(3)

T4
93,1

2,61
(4)

87,6

2,71
(4)

Ghi chú P
(1;2-1;3-1;4)
>0,05
Theo kết quả ở cả 3 bảng 1;2 và 3 cho thấy không có sự thay đổi có ý nghĩa
thống kê nào tại các thời điểm 15 phút, 30 phút và 60 phút (T2, T3 và T4) sau khí
dung salbutamol so với thời điểm trước khí dung (T1) về nhịp thở, nhịp tim và độ
bão hòa oxygen ở cả 2 nhóm thể bệnh. Điều đó chứng tỏ rằng khí dung
salbutamol không có tác dụng tức thì trong VTPQ trong nghiên cứu của chúng tôi.
Có 47 bệnh nhi ở nhóm I được khí dung và 33 bệnh nhân ở nhóm II không
khí dung. Tuổi trung bình của nhóm I là 4,3 3,01 tháng và nhóm II là 4,3  2,95.
Tỷ lệ nam/nữ của nhóm I là 2,5/1 và nhóm II là 1,6/1. Nhóm I có 27,6% ở thể
bệnh nặng và 72,4% ở thể nhẹ còn các tỷ lệ tương ứng của nhóm II là 24,3% và
75,7%. So sánh các chỉ số về tuổi, giới, và mức độ nặng của bệnh giữa 2 nhóm
nghiên cứu và đối chứng đều không có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu theo
dõi diễn biến của một số triệu chứng lâm sàng giữa 2 nhóm được trình bày trong
các biểu đồ sau:


Biểu đồ 1: Thời gian thở oxygen giữa 2 nhóm
Thời gian cần thở oxy giữa 2 nhóm như nhau. Mặc dù sau 2 giờ thở
oxygen thì số bệnh nhân còn phải thở oxygen ở nhóm I có thấp hơn nhóm II một
cách có ý nghĩa với p=0,026, Tuy nhiên từ sau giờ thứ 3,5 và 8 thì số bệnh nhân
cần thở oxygen của cả 2 nhóm là tương đương nhau và không có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê. Chỉ có 1 bệnh nhân 2,5 tháng ở nhóm I vào viện có cơn ngừng
thở, tím tái, cần thở oxy vào giờ thứ 8 và sau 10h thì không có bệnh nhân nào
của cả 2 nhóm cần phải thở oxy nữa.
Tỷ lệ %

Biều đồ 2: Diễn biến triệu chứng rút lõm lồng ngực giữa 2 nhóm
Rút lõm lồng ngực (RLLN) là triệu chứng mất đi nhanh. Trên biểu đồ
2 cho thấy sau ngày thứ nhất nhóm I chỉ còn 85,3% trẻ và nhóm II còn
77,3% có RLLN. Tương tự như vậy ở ngày thứ hai là 39,2% và 36,4%.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm trong suốt quá trình
diễn biến của RLLN (Biểu đồ 2).
Tỷ lệ %

Biểu đồ 3: Diễn biến triệu chứng thở nhanh giữa 2 nhóm
Triệu chứng thở nhanh mất chậm hơn RLLN nhưng cũng giống như
RLLN, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm về tỷ lệ hết
thở nhanh theo thời gian. Chẳng hạn như sau ngày thứ nhất tỷ lệ này ở nhóm
I là 90% so với nhóm II là 93,5% và đến ngày thứ 6 là 3,2% so với 2,5%
(Biểu đồ 3)
Tỷ lệ %
14.8
23.4
31.9
42.5

65.9
85.1
95.7
100
15.5
21.2
27.2
39.3
63.6
84.8
100
90.9
0
20
40
60
80
100
120
Vào viện
Ngày 1
Ngày 2
Ngày 3
Ngày 4
Ngày 5
Ngày 6
Ngày 7
Nhóm 1
Nhóm 2












Biểu đồ 4: Diễn biến triệu chứng khò khè giữa 2 nhóm
Khò khè là triệu chứng mất đi muộn nhất. Tuy nhiên cũng như RLLN
và thở nhanh tỷ lệ hết khò khè theo thời gian giữa 2 nhóm cũng không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Chẳng hạn như sau ngày thứ nhất tỷ lệ ở
nhóm I là 90,9% so với 95,7% ở nhóm II và đến ngày thứ 7 thì tỷ lệ tương
ứng là 15,5% và 14,8% (Biểu đồ 4).
So sánh thời gian nằm điều trị cho thấy nhóm I có thời gian điều trị
trung bình là 5,6 ± 1,54 ngày còn nhóm II là 5,6 ± 1,29 ngày. Không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm (p=0,80)
BÀN LUẬN
Nghiên cứu cho thấy không có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê về
nhịp thở, nhịp tim và độ bão hòa oxygen trước và sau khí dung ở cả 2 thể
bệnh nặng, trung bình và nhẹ tại cả 3 thời điểm sau khí dung 15 phút, 30
phút và 60 phút ở cả 3 chỉ số nhịp thở, nhịp tim và độ bão hòa oxygen (bảng
1;2;3). Nghiên cứu của Ling Ho và cộng sự (1991)
(5)
chọn ngẫu nhiên, mù
đôi vào hai nhóm khí dung salbutamol và nước muối sinh lý cho thấy không
có sự thay đổi độ bão hoà oxy trước và sau điều trị ở cả hai nhóm.
Theo dõi diễn biến lâm sàng trong quá trình điều trị cho thấy sau 8-10

giờ thì cả 2 nhóm đều không có bệnh nhân nào cần phải thở oxygen và tỷ lệ
các bệnh nhi cần phải thở oxygen theo thời gian giữa hai nhóm tương đương
nhau (biểu đồ 1). Co rút lồng ngực, thở nhanh và khò khè là các triệu chứng
được cải thiện dần theo thời gian và tỷ lệ các bệnh nhi còn các triệu chứng
trên theo thời gian là tương tự nhau (biểu đồ 2;3 và 4)
Langley JM và cs nhận thấy khí dung epinephine và salbutamol làm
giảm dấu hiệu suy hô hấp ban đầu, nhưng không làm giảm thời gian nằm
viện
(7)
. Cengizlive R (1997)
(3)
nghiên cứu trên 31 bệnh nhi chia làm 3 nhóm
khí dung salbutamol, uống salbutamol và không dùng thuốc giãn phế quản
cho thấy không có sự khác biệt về hiệu quả điều trị và số ngày nằm viện
giữa các nhóm. Với nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù kép có đối
chứng về tác dụng của epinephrin phun mù trong điều trị VTPQ cấp ở trẻ em
trên 194 trẻ tại 4 bệnh viện các tác giả nhận thấy không có sự khác biệt về
nhịp thở, tình trạng suy hô hấp và thời gian nằm viện trong cả 2 nhóm
(11,12)
.
Đo chức năng phổi trước và sau xịt thở salbutamol trên 41 trẻ VTPQ
từ 2-18 tháng Modl M và cs không thấy có sự thay đổi có ý nghĩa về chức
năng phổi so với ban đầu (DeltaFEV(0.5), 3.8% +/- 9.3%; DeltaFEV(0.75),
3.5% +/- 9.5%; và DeltaFEV(1.0), 4.0 +/- 9.8%). Đồng thời cũng không có
sự khác biệt về tuổi giữa nhóm cải thiện với nhóm không cải thiện hoặc
giảm chức năng phổi (9.7 +/- 4.7 so với 8.1 +/- 4.1 tháng)
(9)
. Giải thích hiện
tượng không đáp ứng với thuốc giãn phế quản đường khí dung trong VTPQ
ở trẻ em, Amirav I và cs cho rằng do thuốc ngấm vào phổi quá ít, đặc biệt là

ở vùng phổi ngoại vi do đặc điểm bệnh lý tại tiểu phế quản của trẻ nhỏ.
Chẳng hạn như nghiên cứu cho thấy chỉ có 1.5% +/- 0.7% thuốc khí dung
vào được phổi phải trong đó chỉ có xấp xỉ 1/3(0,6%) vào được vùng ngoại vi
phổi, 7.8% +/- 4.9% thuốc ở đường hô hấp trên và đường tiêu hóa
(1)
.
Theo Kellenr và cộng sự (2000)
(6)
nhận thấy thuốc giãn phế quản
không có tác dụng trên nhóm trẻ khò khè lần đầu mà chỉ tác dụng ở nhóm
khò khè tái phát, thường xảy ra trên bệnh nhân hen. Bằng cách ghi lưu tốc
khí hô hấp (pneumotachograph) để phân biệt 2 dạng khò khè là khò khè kiểu
xoang (sinusoidal wheeze) và khò khè hỗn hợp (complex wheeze), Sanchez I
và cs nhận thấy rằng chỉ có VTPQ có khò khè kiểu xoang thì mới đáp ứng
tốt với thuốc giãn phế quản còn khò khè hỗn hợp thì không đáp ứng. Với
phương pháp này có thể tiên đoán được trẻ VTPQ nào thì điều trị được bằng
thuốc giãn phế quản
(10)
.
Những đặc điểm về lâm sàng và những phát hiện về sinh lý bệnh cho
thấy rõ ràng VTPQ cấp là bệnh của đường hô hấp nhỏ, dẫn tới hẹp đường hô
hấp, nguyên nhân chủ yếu do virus. Sử dụng các thuốc giãn phế quản để
điều trị bệnh này có thể chỉ đưa lại những lợi ích tạm thời mà không làm
thay đổi diễn biến lâm sàng.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng chứng minh rằng giữa 2 nhóm có sử
dụng khí dung salbutamol và không dùng khí dung salbutamol phối hợp
trong điều trị VTPQ không có sự khác biệt về số ngày nằm viện điều trị
cũng như các thông số như nhịp tim, nhịp thở, độ bão hoà oxy và các triệu
chứng lâm sàng khác do vậy không có cơ sở để chỉ định điều trị salbutamol
cho tất cả các trẻ viêm tiểu phế quản

KẾT LUẬN
Salbutamol khí dung không làm thay đổi tình trạng bệnh cũng như
thời gian nằm viện của các trẻ viêm tiểu phế quản cấp

×