Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐIỀU TRỊ SỐT XUẤT HUYẾT pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.65 KB, 18 trang )

TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐIỀU TRỊ SỐT XUẤT HUYẾT


TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tình hình SXH tại tỉnh Tiền Giang trong 5 năm
(2002 – 2006) và đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng điều trị SXH.
Phương pháp: Hồi cứu cắt ngang, mô tả có phân tích.
Kết quả: Trong 5 năm (2002 – 2006), tỉnh Tiền Giang có 24.423
trường hợp SXH, 28 trường hợp tử vong. tỷ lệ mắc SXH/ 100.000 dân là
155,3; tỉ lệ chết/ mắc: 0,11%; tỉ lệ chết/ sốc: 0,86%. So với 20 tỉnh thành
khu vực phía nam và trong cả nước, Tiền Giang là tỉnh có số mắc SXH cao
nhất. Tỉ lệ chết/ mắc, tỉ lệ chết/ sốc phản ánh chất lượng điều trị SXH trong
tỉnh có nhiều tiến bộ.
Kết luận: Qua nghiên cứu này, tác giả đề ra các giải pháp nâng cao
chất lượng điều trị SXH là: tổ chức điều trị, lọc bệnh tốt; đội ngũ điều trị và
chăm sóc được huấn luyện tốt; đảm bảo cung cấp đầy đủ dịch truyền, thuốc
men và trang thiết bị y tế; người dân được giáo dục sức khỏe đầy đủ về
SXH.
ABSTRACT
STUDY ON SITUATION AND APPROPRIATE MEASURES
CONTRIBUTING
TO ENHANCE THE QUALITY OF TREATMENT OF DEGUE
HAEMORRHAGIC FEVER (DHF)
IN TIEN GIANG PROVINCE DURING 2002 – 2006
Ta Van Tram, Tran Thanh Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 –
Supplement of No 4 - 2007: 42 – 47
Objectives: evaluating the situation of DHF in Tien Giang province
during 2002 – 2006 and recommending appropriate measures to enhance
quality of treatment of DHF.
Method: Descriptive, retrospective, cross – sectional and analytical


study.
Results: During 5 years (2002 – 2006), Tien Giang province had
24.423 cases of DHF, 28 cases of death, rate of DHF/ 100.000 population
was 155,3. The case fatality rate of DHF was 0,11% and that of Dengue
shock syndrome was 0,86%.
Conclusion: Through this study, the author recommended the
appropriate measures. These included proper organization and good
selection of DHF patients in the hospital, improving case managament of
DHF/ DSS patients by the medical staff at all levels of the health care
system, supplying enough essential equipments, intravenous fluids and
blood, education for the people on DHF.
ĐẶT VẤN ĐỀ
* Bệnh Viện Đa Khoa Tiền Giang


Sốt xuất huyết là một bệnh nhiễm trùng cấp tính, thường phát triển
thành dịch do vi rút Dengue gây ra và lan truyền qua muỗi vằn Aedes
aegypti. SXH ngày nay là vấn đề y tế quan trọng ở các nước vùng nhiệt đới,
trong đó có nước ta. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), có khoảng 2,5
– 3 tỷ người thuộc 100 quốc gia trên thế giới có nguy cơ nhiễm virút
Dengue. Hằng năm, có khoảng 20 triệu người bị nhiễm virút Dengue dẫn
đến khoảng 25.000 trường hợp tử vong. Đây là 1 trong số các dịch bệnh gây
mắc và tử vong cao nhất cho trẻ em hiện nay ở nước ta. Ở các tỉnh thành khu
vực phía Nam, do địa hình, thời tiết, khí hậu và tập quán sinh hoạt của người
dân luôn luôn phù hợp với sự sống, sinh sản và phát triển của muỗi vằn
Aedes Aegypti nên tỷ lệ mắc SXH ở đây rất cao. Tiền Giang là tỉnh thuộc
Đồng bằng Cửu long có dịch SXH xảy ra hàng năm. So với 20 tỉnh thành
khu vực phía Nam, Tiền Giang là tỉnh có số mắc SXH cao nhất trong những
năm gần đây. Trong 5 năm (2002 – 2006), Tiền Giang có tổng số ca mắc
SXH là 24.423 trường hợp. Đề tài này nhằm đánh giá tình hình SXH 5 năm

(2002 – 2006) tại tỉnh Tiền Giang và đưa ra các giải pháp nâng cao chất
lượng điều trị SXH.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu cắt ngang mô tả và phân tích
Đối tượng
Số mắc SXH trong toàn tỉnh từ 2002 – 2006 theo số liệu báo cáo của
tất cả các cơ sở điều trị trong tỉnh Tiền Giang, có tham khảo số liệu của
Trung tâm Y tế dự phòng Tiền Giang và Viện Pasteur Tp Hồ Chí Minh.
Đánh giá tình hình tổ chức, quản lý, điều trị bệnh SXH trong toàn tỉnh
nhằm tìm ra các biện pháp nâng cao chất lượng điều trị SXH.
KẾT QUẢ
Tình hình mắc và tử vong SXH tại Tiền Giang từ năm 2002 - 2006
Bảng 1: Tình hình mắc và tử vong SXH
TS TS


m
Độ
I -II
Đ

III - IV
TS
mắc
chung
T
ử vong

Chết/

mắc
Chết/
sốc
20
02
180
2
31
0
211
2
2

0,1 0,65
20
03
650
0
10
57
755
7
8

0,13 0,75
20
04
537
5
70

9
608
4
1
0
0,16 1,40
20
05
371
5
55
8
427
3
5

0,11 0,9
20
06
380
5
49
2
429
7
3

0,06 0,6
Tổ
ng số

21.1
97
3.1
16
24.4
32
2
8
0,11 0,86
Bảng 2: Tình hình giám sát huyết thanh và vi rút Dengue
MAC-
ELISA
D
1
D
2
D
3
D
4
T
S mẫu
%
X
N (+)
TS
mẫu
%
0
4

2
4
0
1
2
5
3
43
2
1
24
72
39
87
6
2
Nhận xét: Lưu hành 4 chủng vi rút Dengue 1,2,3,4; trong đó, chủng
Dengue 2 và Dengue 4 phát hiện nhiều nhất, Dengue 1 có xu hướng tăng
trong năm 2006 so với 2005 và các năm trước.
Tổ chức quản lý và điều trị SXH
Bảng 3: Huấn luyện cho Bác sĩ và Điều dưỡng ở các tuyến
Tuyế
n TW
Tuyến tỉnh
Tuyến
Huyện, xã
Y t
ế

N

ăm
S
Đ
D S
s

lượng

Đ
D
s

lượng

C
án b

Y tế
s

lượng
S
s

lượng

2
002 lớp
3
lớp lớp

6
4
3
lớp
6
4
9
lớp
3
54

2
003 lớp
2
lớp lớp
6
0
2
lớp
6
0
9
lớp
3
00 lớp
1
50
2
004 lớp
2

lớp lớp
8
0
3
lớp
7
9
9
lớp
3
00

2
005 lớp
2
lớp lớp
5
8
2
lớp
6
0
9
lớp
3
00

2
006 lớp
2

lớp lớp
6
0
2
lớp
6
0
9
lớp
2
80 lớp
3
00
T
S 1 lớp

1
1 lớp 1 lớp

3
22
1
2 lớp
3
23
4
5 lớp
1
.534 lớp
4

50
Thuốc dịch truyền, trang thiết bị y tế
Thiết yếu: Nâng cao
Điện giải
Cao phân tử
Máu tươi
Máy đo Hct
Đếm tiểu cầu

Máy đếm giọt

Bơm tiêm t

động
Máy đo SpO
2


Mask có túi
dự trữ
N CPAP
Catheter đo
CVP
Máy giúp
thở
Khí máu
động mạch
Tes
t đông
máu toàn bộ

Huyết t
ương
tươi đông lạnh
XQ tại chỗ
Giáo dục sức khỏe về SXH.
Truy
ền thông
trong trường học.
Truyền
thông đại chúng.
T
ập huấn cho
giáo viên
Sinh hoạt dư
ới
cờ
H
ọc sinh quản
lý hộ gia đình
Tham gia chi
ến
dịch diệt lăng quăng
Truyền
hình
Truyền
Thanh
Băng
cassete
Phim
Video

Bài báo

ớm (tờ
rơi), áp phích.
BÀN LUẬN
Tình hình mắc và tử vong do SXH từ năm 2002 – 2006 tại Tiền
Giang
Tình hình mắc SXH:
Sau vụ dịch đầu tiên xuất hiện ở huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang năm
1960, đã được Zéville mô tả đầy đủ và xác định là SXH, bệnh liên tục xảy ra
trong những năm tiếp theo và phát thành dịch lớn vào các năm 1979, 1983,
1987, 1988. Qua kết quả nghiên cứu 5 năm từ năm 2002 – 2006, Tiền Giang
có 24.423 trường hợp mắc SXH và 28 trường hợp tử vong. Tỷ lệ
mắc/100.000 dân là 155,3. Số mắc trung bình 5 năm của Tiền Giang là 4885/
năm. So với 20 tỉnh thành khu vực phía Nam và trong cả nước, Tiền Giang
là tỉnh có số trường hợp mắc SXH cao nhất.
Qua kết quả này cho thấy, SXH là bệnh dịch lưu hành ở mức độ nặng,
xuất hiện khắp các thị thành trong toàn tỉnh vào mọi tháng trong năm. Với
đặc tính phân bố của các yếu tố thời tiết, khí hậu trong năm tại Tiền Giang
thường xuyên đạt mức khá cao và tương đối ổn định (từ 25,9 – 28,9
OC
đối
với nhiệt độ, 80,5% - 87,1% đối với độ ẩm), cùng với lượng mưa nhiều vào
6 tháng cuối năm và tập quán sinh hoạt của người dân Tiền Giang, là những
điều kiện thuận lợi cho Aedes aegypty sinh sản, phát triển và lan truyền virút
Dengue, dẫn đến sự xuất hiện của SXH quanh năm, có thể phát thành dịch ở
các tháng mưa nhiều. Mặc dù trong thời gian vừa qua, việc xã hội hóa công
tác phòng chống SXH trong cả nước nói chung và ở Tiền Giang nói riêng,
việc phòng chống SXH chủ yếu dựa vào cộng đồng đề tham gia diệt muỗi
truyền bệnh, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp

chặt chẽ của các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội và sự tham gia hưởng
ứng mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, việc hạ thấp tỉ lệ mắc bệnh SXH vẫn
còn gặp nhiều khó khăn, tốn kém, mất nhiều thời gian, nhưng hiệu quả rất
giới hạn mà trong thời gian tới cần phải có sự quyết tâm, ý chí tiến công của
ngành y tế và toàn xã hội để thực hiện việc quản lý muỗi dựa vào cộng đồng.
Tỉ lệ SXH nặng (SXH độ III-IV)/ số mắc là 12%, nói chung là thấp so
với ước tính của TCYTTG là khoảng 30%. Như vậy, số trường hợp độ I-II
đã được báo cáo nhiều, đã làm cho tổng số mắc SXH tăng cao. Điều này gợi
ý cho chúng ta cần phải chú ý đến sự chính xác trong chẩn đoán SXH.
Tỉ lệ chết/ mắc là 0,11%, so với tỉ lệ chết/ mắc giai đoạn 1996 – 2000
là 0,24%, giảm 54%. Điều này nói lên khả năng điều trị SXH trong tỉnh có
nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác hiệu quả điều trị SXH, cần
khảo sát tỉ lệ chết/ sốc vì tỉ lệ này phản ánh chất lượng điều trị, cứu sống
bệnh nhân. Qua khảo sát tỉ lệ chết/ sốc 0,86%; so với các nước tiên tiến
trong khu vực và các tỉnh thành khu vực phía Nam thì không cao hơn. Điều
này chứng tỏ khả năng điều trị cứu sống bệnh nhân SXH ở các tuyến y tế
trong tỉnh có nhiều tiến bộ và đạt kết quả cao. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
trường hợp tử vong do SXH hàng năm mà một trong những mục tiêu quan
trọng của chương trình phòng chống SXH quốc gia là giảm tử vong do SXH,
đòi hỏi ngành y tế, đặc biệt là hệ điều trị trong tỉnh cần phải phấn đấu hơn
nữa trong thời gian tới.
Tình hình giám sát huyết thanh, virut Dengue
Tỉ lệ phân lập virút Dengue dương tính trong năm là cao hơn so với
trung bình 5 năm 1996 – 2000. Cả 04 týp virút Dengue đồng lưu hành tại
Tiền Giang trong 5 năm qua với týp Dengue 2 chiếm ưu thế rõ rệt. Tỉ lệ xét
nghiệm MAC - ELISA dương tính tăng dần theo các năm và tất cả các tháng
trong năm đều có bệnh nhân bị nhiễm virút Dengue trong cộng đồng.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả điều trị SXH tại Tiền Giang
Tổ chức lọc bệnh nhân và điều trị
Yêu cầu đầu tiên giúp giảm tử vong do SXH. SXH ở Tiền Giang trong

những năm qua phát triển mạnh cả về số lượng mắc bệnh và chu kỳ dịch. Cả
04 týp huyết thanh đã lưu hành tại đây và số lượng mắc SXH hàng năm ngày
càng gia tăng. Tất nhiên không phải mọi ca bệnh SXH đều được nhập viện
điều trị. Theo TCYTTG, người nhiễm virút Dengue có triệu chứng phát
bệnh chỉ chiếm 5%, còn 95% bị muỗi vằn đốt và nhiễm virút Dengue nhưng
không có triệu chứng bệnh. Đây mới chính là tảng băng chìm trong vấn đề
phòng bệnh và là nguồn lây bệnh quan trọng trong cộng đồng. Dĩ nhiên là tất
cả các trường hợp SXH khi đã biểu hiện bệnh đều được chẩn đoán sớm, theo
dõi sát và xử lý thích hợp.
Tuy nhiên, trong những trường hợp SXH tại thời điểm khám bệnh có
những trường hợp SXH thể nhẹ. Đây là những trường hợp có dấu hiệu sốt từ
2 – 7 ngày, không ho, không sổ mũi, có thể phát ban ngoài da, kèm đau nhức
cơ, đau sau hốc mắt … và tự phục hồi sức khỏe sau khoảng 1 tuần, ngoài ra
không có triệu chứng gì khác. Những trường hợp này rất dễ nhầm lẫn với
những bệnh nhân nhiễm siêu vi thông thường vì giai đoạn đầu cũng xuất
hiện bệnh cảnh như SXH.
Vấn đề đặt ra là có nên cho tất cả các trường hợp SXH nhập viện. Câu
trả lời là rất khó thực hiện. Cái khó ở đây không phải là y bác sĩ ngại khó,
ngại khổ mà số lượng giường bệnh của cơ sở y tế có hạn trong khi người bị
SXH rất đông, nhất là trong thời điểm đỉnh dịch xảy ra. Hơn nữa, trong các
trường hợp mắc SXH thì có khoảng 70% ở thể nhẹ, bệnh nhân có thể phục
hồi sau một tuần chỉ có 30% là có dấu hiệu chuyển nặng, có thể dẫn đến sốc,
xuất huyết phủ tạng, suy hô hấp, sốc kéo dài, SXH thể não… bắt buộc phải
nhập viện để điều trị. Bên cạnh đó, nếu 70% bệnh nhân SXH ở thể nhẹ nhập
viện còn kéo theo người thân phải bỏ công ăn việc làm để vào bệnh viện
chăm sóc người bệnh chưa kể phải tốn tiền viện phí… Như vậy, bệnh viện
không thể điều trị cho tất cả 100% bệnh nhân SXH bao gồm cả thể nhẹ và
thể nặng. Những trường hợp nhẹ được chăm sóc tại nhà, hướng dẫn việc
theo dõi và tái khám đúng, chỉ giữ lại những trường hợp SXH thể nặng là
một cách lọc bệnh tốt nhất trong mục tiêu quản lý dịch SXH, vừa giảm quá

tải, giúp bệnh viện tổ chức tốt việc điều trị SXH một cách có hiệu quả, vừa
đỡ tốn kém thời gian và tiền bạc cho người bệnh nhưng vẫn đảm bảo hướng
dẫn cách chăm sóc tốt cho bệnh nhân tại gia đình.
Tóm lại, trong mùa SXH, bệnh viện cần tổ chức lọc bệnh thật tốt
thông qua tiêu chuẩn nhập viện, nằm phòng lưu theo dõi hay là điều trị ngoại
trú.
Nhân sự: yếu tố quyết định chất lượng điều trị
SXH là một bệnh nặng, diễn biến phức tạp. Trong điều trị SXH cần
được chẩn đoán sớm, xử trí thích hợp. Đội ngũ điều trị SXH kể cả bác sĩ và
điều dưỡng cần phải được huấn luyện, nâng cao kiến thức, kỹ năng lâm sàng về
điều trị và chăm sóc SXH, có kinh nghiệm và phải là một tập thể đồng bộ thống
nhất, cùng chung tiếng nói, cần có sự ổn định về nhân lực dưới sự điều hành
của một người có uy tín, có kinh nghiệm trong điều trị sốt xuất huyết.
Bệnh viện tranh thủ sự hỗ trợ thường xuyên của bệnh viện tuyến trên
trong công tác điều trị SXH, đồng thời kết hợp chặt chẽ với Trung tâm Y
Tế Dự Phòng trong phòng chống SXH. Bệnh viện cử Bác sĩ, Điều dưỡng
xuống các bệnh viện huyện, phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế tham
vấn về SXH, nhất là ở các địa phương đang xảy ra dịch SXH. Nếu cần,
bệnh viện phân công bác sĩ, Điều dưỡng ở lại đại phương tham gia điều trị,
can thiệp tại chỗ, huấn luyện kỹ năng lâm sàng về điều trị và chăm sóc
SXH cho cán bộ y tế địa phương theo phương cách “ cầm tay, chỉ việc”.
Trang bị đường dây điện thoại nóng liên hệ tất cả các đơn vị, cơ sở y tế có
điều trị SXH để kịp thời hội chẩn, trao đổi kinh nghiệm, xử trí những
trường hợp SXH nặng góp phần cứu sống bệnh nhân SXH.
Cung cấp đầy đủ thuốc, dịch truyền, trang thiết bị y tế
Yếu tố quan trọng giúp giảm tử vong SXH. Sốt xuất huyết là một bệnh
truyền nhiễm cấp tính. Sốc SXH là một sốc giảm thể tích và là 1 cấp cứu nội
khoa cần được chẩn đoán sớm, điều trị đúng và kịp thời các cơ sở điều trị SXH
cần chuẩn bị đầy đủ thuốc men, dịch truyền (điện giải, cao phân tử, máu tươi)
dự trù số lượng ngay từ đầu năm, không để bị đọng khi có dịch lớn xảy ra. Các

cơ sở điều trị SXH cần có máy quay Hct, đếm tiểu cầu để giúp cho việc chẩn
đoán và theo dõi trong điều trị SXH, cần được trang bị các trang thiết bị y tế
giúp cho việc điều trị SXH có hiệu quả như: máy truyền dịch tự động, catheter
đo áp lực tĩnh mạch trung ương (CVP), Mask có túi dự trữ, máy đo SpO
2
, hệ
thống giúp thở N CPAP…
Ở Bệnh viện tuyến tỉnh và các cơ sở điều trị SXH sau nơi nhập những
trường hợp SXH nặng từ tuyến trước chuyển về cần trang bị thêm các
phương tiện chẩn đoán và điều trị các trường hợp nặng, biến chứng như:
máy đo khí máu động mạch, test đông máu toàn bộ, X quang tại chỗ, máy
giúp thở, huyết tương tươi đông lạnh. Bệnh viện cần trang bị đầy đủ dụng
cụ, phương tiện trên xe chuyển viện, huấn luyện đội ngũ chuyển viện tốt,
bảo đảm chuyển viện đúng chỉ định, an toàn tuyệt đối.
Giáo dục sức khoẻ SXH cho nhân dân: yếu tố góp phần giảm tử
vong
Bệnh SXH lây truyền từ người bệnh sang người lành do muỗi vằn Aedes
aegypti. Muỗi vằn đốt vào ban ngày, sống trong nhà đẻ trứng trong các vật
dụng có chứa nước. Vì vậy, phương pháp phòng ngừa SXH là diệt muỗi, diệt
lăng quăng với nguyên lý “ Dân chúng tạo điều kiện cho muỗi vằn phát triển và
gây bệnh SXH. Vì vậy chỉ có dân chúng mới có đầy đủ khả năng dẹp bỏ các
điều kiện trên”.
Phòng ngừa SXH dựa vào cộng đồng là biện pháp lâu dài giúp giảm tỉ
lệ mắc SXH nhưng trên thực tế gặp nhiều khó khăn vì phương pháp này đòi
hỏi phải thực hiện toàn diện và liên tục.
Hơn nữa, như phân tích trên, cũng không thể cho 100% SXH nhập
viện điều trị. Do đó, việc cho những trường hợp SXH thể nhẹ điều trị ngoại
trú và hướng dẫn cho người nhà, cho bệnh nhân biết cách chăm sóc tại nhà,
theo dõi các dấu hiệu chuyển nặng và đến bệnh viện khám kịp thời là điều
vô cùng cần thiết để tránh những trường hợp SXH chuyển sang giai đoạn

nặng mới được nhập viện điều trị.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu tình hình và các giải pháp nâng cao chất lượng điều
trị SXH tại Tiền Giang từ năm 2002 – 2006, chúng tôi có những kết luận
như sau:
Tình hình mắc và tử vong SXH
Trong 5 năm (2002 – 2006), Tiền Giang có tổng số 24.423 trường hợp
mắc SXH, và 28 trường hợp tử vong do SXH. Tỉ lệ mắc/ 100.000 dân là
155,3; tỉ lệ chết/ mắc là 0,11%; tỉ lệ chết/ sốc là 0,86%. So với 20 tỉnh thành
khu vực phía Nam và toàn quốc, Tiền Giang là tỉnh có số mắc SXH cao
nhất. Tỉ lệ chết/ mắc, chết/ sốc so với các nước tiên tiến trong khu vực và
các tỉnh thành trong cả nước thì không cao hơn, chứng tỏ khả năng điều trị
cứu sống bệnh nhân SXH ở các tuyến y tế trong tỉnh có nhiều tiến bộ và đạt
kết quả cao.
Các giải pháp nâng cao chất lượng điều trị SXH
+ Tổ chức điều trị, lọc bệnh tốt: yếu tố đầu tiên giúp giảm tử vong
+ Đội ngũ điều trị và chăm sóc SXH được huấn luyện tốt, nhiệt tình:
yếu tố quyết định chất lượng điều trị.
+ Cung cấp đầy đủ thuốc men, dịch truyền, trang thiết bị y tế: yếu tố
quan trọng giúp giảm tử vong.
+ Nhân dân được giáo dục đầy đủ về SXH: yếu tố góp phần giảm tỉ lệ
mắc bệnh và tử vong do SXH.

×