Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.86 KB, 4 trang )

Mở bài
Vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự về quan
hệ bồi thường thiệt hại mà trước khi xảy ra thiệt hại, các bên chủ thể là bên gây
thiệt hại và bên bị thiệt hại không có thoả thuận hoặc hợp đồng nào. Các bên nói
trên vẫn có trách nhiệm với nhau trong việc bồi thường thiệt hại trước sự kiện gây
ra thiệt hại ngoài dự kiến về tài sản hoặc về tinh thần. Cụ thể người gây thiệt hại là
người duy nhất phải thực hiện trách nhiệm trước người bị hại và người bị hại có
quyền yêu cầu người gây hại phải thực hiện những hành vi nhất định nhằm đảm
bảo lợi ích của mình.
Nội dung
Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, vấn đề bối
thường thiệt hại ngoài hợp đồng được giải quyết không trên cơ sở của pháp luật
quy định là thiệt hại thực tế đã gây ra.
Trách nhiệm bối thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong TPQT được hiểu là
quan hệ trách nhiệm có yếu tố nước ngoài. Quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ trách nhiệm có một trong các
yếu tố sau đây.
- Thứ nhất, các bên chủ thể tham gia trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đông bao gồm các bên gây hại và bên bị hại có quốc tịch khác nhau hặc
nới cư trú khác nhau (đối với cá nhân) hoặc có trụ sở ở các nước khác nhau
(đối với pháp nhân).
- Thứ hai, hành vi gây ra thiệt hại hoặc hậu quả thực tế của hành vi gây ra
thiệt hại xảy ra ở nước ngoài.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tốc nước ngoài theo
hệ thống pháp luật việt nam được quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam (Điều
1
773), Nghị định 138/2006/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan.
Điều 773 BLDS Việt Nam quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
có yếu tố nước ngoài, theo quy định của điều này quy tắc chung để giải quyết xung
đột pháp luật đối với nghĩa vụ ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo hướng


đưa ra các quy phạm xung đột để lựa chọn pháp luật của quốc gia này hay quốc gia
khác nhằm giải quyết vụ việc.
Theo các quy định tại điều 773 BLDS quy tắc chung để xác định pháp luật
trong việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là pháp luật
nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây
thiệt hại. Như vậy ta có thể thấy nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại và nơi phát sinh
hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại có thể trùng nhau hoặc không trùng nhau.
Đối với vấn đề trùng nhau thì không có vấn đề gì trong việc giải quyết. còn đối với
việc không trùng nhau giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả thực tế gây ra thì vấn
đề chọn luật cần được xem xét. Ví dụ: công ty Honda Việt Nam sản xuất xe hơi tại
Việt Nam và xuất khẩu sang Lào tiêu thụ. Sau một thời giản sử dụng tại Lào thì
hậu quả thiệt hại và được xác định do lỗi kĩ thuật trong quá trình sản xuất tại Việt
Nam. Như vậy trong trường hợp này đã xuất hiện hiện tượng xung đột pháp luật
mà trong điêù 773 chưa chỉ rõ được hệ thống pháp luật cụ thể nào sẽ điều chỉnh. Vì
vậy cần chỉ rõ hơn trong việc giải quyết xung đột pháp luật này. Điều 773 khoản 1
quy định về việc lựa chọn pháp luật giữa nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại và nơi
hậu quả thực tế xảy ra thì chúng ta nên cần hiểu theo hướng khi không xác định
được nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại mới áp dụng nguyên tắc nơi phát sinh hậu
quả thực tế của hành vi gây thiệt hại. Bởi vì nếu chũng ta hiểu theo cách có thể áp
dụng nguyên tắc bất kì trong 2 nguyên tắc trên thì rất nguy hiểm và sai lầm, bởi vì
nó dẫn tới sự nghi ngờ về sự vô tư khách quan của quan tòa từ phía các bên và thực
tế có thểt dẫn tới sự không vô tư, khách quan từ phía quan tòa. Cụ thể, ví dụ như:
2
áp dụng pháp luật nơi xảy ra hành vi sẽ bất lợi hơn cho người nước ngoài so với
việc áp dụng pháp luật nơi xảy ra thiệt hại thực tế của hành vi. Nếu không có quy
định rõ ràng sẽ dẫn tới tiêu cực từ chính phía tòa án.
Trong trường hợp tổ chức, cá nhân nước ngoài gây thiệt hại cho Nhà nước,
tổ chức và cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân Việt nam gây thiệt hại cho tổ
chức, cá nhân nước ngoài tại vùng trời, vùng biển thuộc quyền tài phán của Việt
Nam thì việc bồi thường thiệt hại được xác định theo quy định của pháp luật Việt

Nam.
Trong trường hợp thiệt hại do tàu bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế
hoặc biển cả được xác định theo pháp luật của nước mà tàu bay, tàu biển mang
quốc tịch (lex banderae), trừ trường hợp pháp luật về hàng hải, pháp luật về hàng
không của Việt Nam có quy định khác (Điều 773 khoản 2). Trong trường hợp này,
áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của phương tiện. Ở đây chúng ta hiểu áp dụng
pháp luật của quốc gia mà tàu bay, tàu biển gây hại có quốc tịch. Trong các trường
hợp như vậy, nguyên tắc nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu
quả thực tế của hành vi gây thiệt hại không thể áp dụng được bởi nó là nơi không
phận quốc tế chỉ tồn tại quyền tài phán của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ, bởi
vậy việc áp dụng nguyên tắc này là rất đúng đắn và thuyết phục. Đa số các quốc
gia trên thế giới cũng thường xuất phát từ nguyên tắc đó để xử lí trong hoàn cảnh
như vậy.
Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam mà
người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân hoặc pháp nhân Việt Nam,
thì áp dụng pháp luật Việt Nam – Lex Nationalis (Điều 773 khoản 3). Tức áp dụng
hệ thuộc luật quốc tịch của đương sự.
Kết Luận
3
Như vậy, trong việc điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, TPQT Việt Nam áp dụng pháp luật nới xảy ra hành vi vi phạm pháp luật với
việc kết hợp cả hai quan điểm là theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây
thiệt hại hoặc theo pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi
gây thiệt hại và áp dụng pháp luật của các đương sự, luật quốc tịch của phương
tiện.

4

×