Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo " Pháp luật, áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ở Việt Nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiện " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.82 KB, 7 trang )



xây dựng pháp luật
Tạp chí luật học - 53












Đinh Thị Mai Phơng *
rách nhiệm bồi thờng thiệt hại ngoài
hợp đồng là nội dung quan trọng
trong chế định trách nhiệm dân sự của
pháp luật các nớc trên thế giới.
Chẳng hạn, tại Trung Quốc, việc xác
định trách nhiệm bồi thờng thiệt hại
ngoài hợp đồng đợc quy định một cách
tơng đối hoàn thiện, nhất là pháp luật về
bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng trong
mối quan hệ giữa Nhà nớc với cá nhân,
tổ chức.
Để giải quyết trách nhiệm bồi thờng
thiệt hại ngoài hợp đồng trong các trờng
hợp oan sai do công chức trong các cơ


quan nhà nớc gây ra, Trung Quốc đ ban
hành Luật nhà nớc bồi thờng thiệt hại
vào năm 1995. Luật này không chỉ cụ thể
hoá các nguyên tắc đợc ghi nhận trong
luật dân sự mà còn cụ thể hóa từng vấn đề
nh phạm vi, trình tự bồi thờng, cơ quan
có trách nhiệm bồi thờng, cá nhân, tổ
chức có quyền yêu cầu bồi thờng và chế
độ cụ thể trong quá trình giải quyết trách
nhiệm bồi thờng thiệt hại ngoài hợp
đồng. Hơn thế, các vấn đề này còn đợc
quy định một cách cụ thể trong các lĩnh
vực khác nhau nh trong tố tụng dân sự, tố
tụng hành chính và trong tố tụng hình sự.
Luật này đ dành toàn bộ Chơng 4 để
quy định về cách thức xác định thiệt hại cũng
nh các tiêu chuẩn tính để ấn định mức bồi
thờng thiệt hại về vật chất cũng nh về tinh
thần mà ngời bị hại phải gánh chịu.
Tại Nhật Bản, ngoài hệ thống các quy
phạm pháp luật tơng đối hoàn thiện điều
chỉnh về vấn đề này, các luật gia còn định kì
soạn thảo ra các cuốn hớng dẫn về các quy
định về bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng
với nội dung bao gồm:
+ Cách tính khoản bồi thờng thiệt hại về
vật chất, trong đó có các phần nhỏ nh:
- Xác định phần thu nhập bị mất:
* Đối với những ngời đang có việc làm;
* Đối với những ngời không có việc làm;

- Khấu trừ chi phí sinh hoạt phát sinh do
mức chênh lệch giữa chi phí cần thiết khi cha
bị gây thiệt hại và sau khi bị thiệt hại trong
tổng số tiền bồi thờng thiệt hại cho ngời bị
hại.
- Cách tính thiệt hại liên quan tới thu nhập lẽ
ra phải có nếu không bị gây thiệt hại.
+ Cách tính khoản bồi thờng thiệt hại về
tinh thần, trong đó bao gồm:
- Trờng hợp bồi thờng do bị thơng tật
T

* Viện nghiên cứu khoa học pháp lí
Bộ t pháp


xây dựng pháp luật
54 - Tạp chí luật học

về thân thể;
- Tiền bồi thờng do thiệt hại về
tính mạng;
- Bồi thờng sau chấn thơng.
+ Cách tính bồi thờng thiệt hại trên
cơ sở lỗi, trong đó bao gồm:
- Bồi thờng thiệt hại bằng tiền;
- Các hình thức bồi thờng không phải
bằng tiền;
- Một số trờng hợp cụ thể.
Cùng với những nội dung trên, những

phán quyết điển hình cũng đợc dẫn chiếu
để các thẩm phán có thể áp dụng trong quá
trình xét xử các vụ việc sau này
Pháp luật về bồi thờng thiệt hại ngoài
hợp đồng của các nớc rất có giá trị để
chúng ta tham khảo.
1. Đánh giá chung pháp luật hiện
hành về trách nhiệm bồi thờng thiệt
hại ngoài hợp đồng ở nớc ta
Trớc khi có BLDS, vấn đề này mới
chỉ đợc đề cập trong một số văn bản
hớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao
nh Thông t số 173/UBTP ngày
23/03/1972 hớng dẫn xét xử về bồi
thờng thiệt hại ngoài hợp đồng; Thông t
số 03/TATC ngày 05/04/1983 hớng dẫn
giải quyết một số vấn đề về bồi thờng
thiệt hại trong tai nạn ô tô.
Với sự ra đời của BLDS, các quy định
pháp luật về trách nhiệm bồi thờng thiệt
hại ngoài hợp đồng đ đợc ghi nhận một
cách tơng đối đầy đủ. Sự ghi nhận trách
nhiệm bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng
trong BLDS đ tạo ra cơ sở pháp lí cho các
tòa án trong công tác xét xử những tranh
chấp liên quan tới trách nhiệm bồi thờng
thiệt hại ngoài hợp đồng, góp phần quan trọng
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể trong giao lu dân sự.
Trong BLDS, trách nhiệm bồi thờng thiệt

hại ngoài hợp đồng đợc quy định tại Chơng
V, Phần thứ ba. Bên cạnh các quy định cơ bản
đợc quy định trong chơng này, các quy định
khác có liên quan còn nằm trong nhiều phần
khác nhau của BLDS nh Phần thứ nhất về các
quy định chung, các quy định về nghĩa vụ dân
sự và trách nhiệm dân sự.
Ngày 3/5/1997, Chính phủ đ ban hành
Nghị định số 47/CP về việc giải quyết bồi
thờng thiệt hại do công chức, viên chức nhà
nớc, ngời có thẩm quyền trong các cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra; Bộ tài chính đ ban
hành Thông t số 38/1998-TT-BTC ngày
30/3/1998 hớng dẫn việc lập dự toán, sử
dụng và quyết toán ngân sách nhà nớc cho
bồi thờng thiệt hại do công chức, viên chức
nhà nớc, ngời có thẩm quyền của cơ quan
nhà nớc, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra;
Ban tổ chức - cán bộ Chính phủ đ ban hành
Thông t số 54/1998-TT-TCCP ngày 4/6/1998
hớng dẫn thực hiện một số nội dung Nghị định
số 47/CP ngày 3/5/1997 của Chính phủ.
Kể từ khi BLDS có hiệu lực, các cơ quan
nhà nớc có thẩm quyền đ ban hành số lợng
đáng kể các văn bản hớng dẫn về vấn đề bồi
thờng thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, ở
mức độ khái quát có thể thấy, các quy định
pháp luật về bồi thờng thiệt hại ngoài hợp
đồng vẫn tồn tại một số bất cập sau:
1.1. Các quy định pháp luật nớc ta về

trách nhiệm bồi thờng thiệt hại ngoài hợp
đồng cha có sự gắn kết với các quy định
trong những phần khác của BLDS. Điều này


xây dựng pháp luật
Tạp chí luật học - 55

gây ra tình trạng khó áp dụng luật. Thật
vậy, vấn đề trách nhiệm bồi thờng thiệt
hại ngoài hợp đồng đợc quy định tại
Chơng V, Phần thứ ba (về Nghĩa vụ dân
sự và Hợp đồng dân sự); Chơng I về
Những quy định chung tại Mục 3 (Trách
nhiệm dân sự). Theo quan điểm của chúng
tôi, bố cục nh vậy cha thực sự hợp lí.
Xét về bản chất, trách nhiệm bồi
thờng thiệt hại ngoài hợp đồng là dạng
đặc biệt của trách nhiệm dân sự. Tuy
nhiên, xem xét các quy định tại mục 3,
Chơng I, Phần thứ ba, BLDS, mối quan
hệ giữa trách nhiệm dân sự và trách nhiệm
bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng cha
đợc thể hiện một cách rõ ràng. Nếu chỉ
căn cứ vào quy định tại Điều 308 và Điều
310 chúng ta cha thể thấy đợc mối quan
hệ này. Cách xây dựng hai điều luật này
cha thật hợp lí. Quy định tại các Điều
308 cũng nh tại Điều 310 cha nêu rõ
đợc nội hàm và ngoại diên của khái niệm

trách nhiệm dân sự nói chung và trách
nhiệm bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng
nói riêng. Hơn thế, quy định tại Điều 609
cũng không làm rõ đợc điều này.
Theo ý kiến của chúng tôi, sự cô lập
của các quy định về trách nhiệm bồi
thờng thiệt hại ngoài hợp đồng trong
BLDS trong mối quan hệ với các chế định
khác là một trong các nguyên nhân mang
tính lập pháp đ tạo ra tình trạng khó khăn
và tâm lí ngại áp dụng các quy định trên
thực tiễn.
1.2. Các quy định về xác định thiệt hại
và ấn định mức bồi thờng thiệt hại trong
BLDS cha cụ thể, mới mang tính nguyên
tắc, trong khi đó, các văn bản hớng dẫn thi
hành vẫn cha đợc ban hành.
Việc xác định thiệt hại và ấn định mức bồi
thờng đối với những thiệt hại về vật chất và
tinh thần đều đ đợc quy định tại các điều
612, 613, 614, 615 và 616. Tuy nhiên, nếu chỉ
căn cứ vào quy định trong các điều luật trên
thì thẩm phán không thể đa ra quyết định
hợp lí trong các trờng hợp cụ thể, đặc biệt
đối với những thiệt hại về tinh thần.
Tình trạng thiếu văn bản hớng dẫn đ
gây ra tình trạng mỗi thẩm phán, mỗi tòa án
hiểu và áp dụng theo một cách khác nhau.
Đối với những thiệt hại về vật chất, mặc
dù đ có Thông t liên tịch số 01/TTLT ngày

19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ t pháp, Bộ tài
chính Hớng dẫn việc xét xử và thi hành án
về tài sản nhng nhiều vấn đề liên quan tới
việc bồi thờng những thiệt hại về vật chất
vẫn cha đợc đề cập. Đối với những thiệt hại
về vật chất do tính mạng, sức khỏe, danh dự,
uy tín bị xâm phạm thì hoàn toàn không thể
áp dụng những hớng dẫn trong Thông t này.
Chúng tôi xin đơn cử một ví dụ rất phổ biến
về tình trạng này, đó là cách xác định mức
tiền cấp dỡng mà ngời ngời bị hại có nghĩa
vụ cấp dỡng trong khoản bồi thờng thiệt hại
về vật chất do tính mạng, sức khỏe bị xâm
phạm, phơng thức thực hiện việc cấp dỡng,
phạm vi các đối tợng đợc cấp dỡng vẫn là
vấn đề nan giải, gây khó khăn cho các thẩm
phán trong hoạt động xét xử.
Đối với những thiệt hại về tinh thần, cũng
tơng tự nh đối với thiệt hại về vật chất cho


xây dựng pháp luật
56 - Tạp chí luật học

tới nay vẫn cha có văn bản hớng dẫn chi
tiết. Hơn thế, theo quy định tại các Điều
613 (khoản 4); Điều 614 (khoản 4); Điều
615 (khoản 3) thì chính bản thân thẩm
phán là ngời có quyền ra quyết định ấn

định mức bồi thờng đối với những thiệt
hại về tinh thần. Điều này đ gây ra tình
trạng thiếu thống nhất trong hoạt động xét
xử của tòa án, tình trạng đơn th khiếu nại,
tố cáo và tình trạng kháng cáo diễn ra rất
phổ biến trong các vụ án liên quan tới việc
xác định trách nhiệm bồi thờng thiệt hại
ngoài hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 310, trách
nhiệm bồi thờng thiệt hại bao gồm thiệt
hại về tinh thần và bồi thờng thiệt hại về
vật chất. Do vậy, theo quan điểm của
chúng tôi, khi xảy ra thiệt hại về vật chất,
thiệt hại về tinh thần, các chủ thể bị thiệt
hại đều có quyền yêu cầu tòa án buộc
ngời đ gây ra thiệt hại phải bồi thờng.
Việc có yêu cầu bên gây thiệt hại phải bồi
thờng thiệt hại về vật chất, tinh thần hay
không hoàn toàn thuộc quyền của ngời bị
hại, tòa án chỉ giữ vai trò là ngời xem xét
yêu cầu đó và ra quyết định.
1.3. Các quy định về bồi thờng thiệt hại
ngoài hợp đồng trong BLDS không những mới
chỉ dừng lại ở các quy định mang tính nguyên
tắc mà còn tồn tại những khoảng trống cha
đợc điều chỉnh trớc yêu cầu phát sinh trong
thực tiễn.
Ví dụ: Hiện nay, các quy định pháp luật
tạo cơ sở pháp lí cho việc giải quyết yêu cầu
bồi thờng thiệt hại về vật chất và tinh thần do

tài sản vô hình, đặc biệt đối với các đối tợng
sở hữu trí tuệ vẫn cha đợc ghi nhận trong
BLDS; các quy định liên quan tới cơ sở pháp lí
nhằm xác định trách nhiệm bồi thờng thiệt
hại đối với pháp nhân, tổ chức gây thiệt hại
cho tới nay cũng cha đợc ghi nhận. Tình
trạng này gây ra rất nhiều khó khăn cho các
thẩm phán trong công tác xét xử, đặc biệt đối
với những vi phạm về môi trờng.
2. Thực trạng giải quyết các vụ việc dân
sự liên quan tới trách nhiệm bồi thờng
thiệt hại ngoài hợp đồng
2.1. Về số liệu thụ lí và giải quyết các yêu
cầu đòi bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng
tại các tòa án đợc thể hiện ở bảng dới đây:
(1)

Năm 1996 Năm 1997
Đòi bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng
Thụ lí Giải quyết Thụ lí Giải quyết
- Bồi thờng thiệt hại do tai nạn giao thông 890 547 877 664
- Bồi thờng thiệt hại do tai nạn lao động 184 142 175 162
- Bồi thờng thiệt hại do hành hung 2.563 1.832 3.016 2.593
- Bồi thờng thiệt hại do các nguyên nhân khác 2.020 1.271 2.066 1.718
Tổng số 5.657 3.819 6.179 5.137



xây dựng pháp luật
Tạp chí luật học - 57



Năm 1998 Q.I Năm 1999
Đòi bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng
Thụ lí Giải quyết Thụ lí Giải quyết

- Thiệt hại về tài sản 1.598 1.098 478 182
- Thiệt hại về sức khỏe, tính mạng 5.488 4.204 1.539 692
- Thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín 347 272 84 25
- Thiệt hại trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh 484 292 128 50
Tổng số 7.917 5.866 2.229 949

Từ những số liệu trên đây cho thấy,
cùng với công tác xét xử của các cấp tòa
án, các quy định về trách nhiệm bồi thờng
thiệt hại trong BLDS đ phát huy hiệu lực
thực tế trong việc giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong đời sống. Quyền và lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, tổ chức đ đợc
quan tâm và giải quyết đợc một phần
đáng kể.
Bên cạnh những kết quả đạt đợc,
những số liệu trên đây cũng cho thấy, tình
trạng xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín và tài sản đối với các
cá nhân, tổ chức hiện đang ngày một gia
tăng. Tuy nhiên, qua sự chênh lệch giữa số
liệu án đ thụ lí và số liệu án đ giải quyết
chứng tỏ, trong quá trình xét xử loại tranh
chấp này, các tòa án còn gặp rất nhiều khó

khăn. Vấn đề giải quyết các yêu cầu đòi
bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng, đặc
biệt bồi thờng tổn thất về tinh thần vẫn là
chủ đề luôn đợc bàn luận và quan tâm của
những ngời làm công tác xét xử và các đối
tợng áp dụng pháp luật khác thông qua
các diễn đàn công khai và các phơng tiện
thông tin đại chúng. Ví dụ, trong bài bồi
thờng thiệt hại về tinh thần trong BLDS của
tác giả Tô Quốc Kì đợc đăng trong Tạp chí
Tòa án số 10/1999 có đoạn: Mặc dù, từ khi
BLDS có hiệu lực tới nay, các vụ kiện về yêu
cầu bồi thờng thiệt hại ngoài về tinh thần mà
tòa án phải giải quyết ngày một nhiều hơn.
Tuy nhiên, do cha có văn bản hớng dẫn cụ
thể nên các tòa địa phơng rất lúng túng trong
khâu giải quyết.
Vấn đề xác định trách nhiệm bồi thờng
thiệt hại ngoài hợp đồng trong các vụ án hình
sự cũng là vấn đề khó khăn còn gây nhiều
tranh ci. Vì vậy, vấn đề giải quyết các tranh
chấp, yêu cầu về bồi thờng thiệt hại ngoài
hợp đồng luôn đợc đề cập trong các báo cáo
công tác ngành tòa án, cũng nh trong những
công văn hớng dẫn công tác xét xử trong lĩnh
vực hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và tố
tụng của Tòa án nhân dân tối cao.
2.2. Một số nét về thực trạng hoạt động xét
xử các vụ án liên quan tới trách nhiệm bồi
thờng thiệt hại ngoài hợp đồng

Qua tìm hiểu thực tiễn công tác xét xử tại
các tòa án cho thấy:


xây dựng pháp luật
58 - Tạp chí luật học

- Thứ nhất, hiệu quả công tác xét xử
của các cấp tòa án trong lĩnh vực bồi
thờng thiệt hại ngoài hợp đồng còn cha
cao, đặc biệt việc xem xét đến trách nhiệm
bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng trong
các vụ án hình sự còn cha đợc các thẩm
phán quan tâm đúng mức. Các bản án, quyết
định của tòa án về trách nhiệm bồi thờng thiệt
hại vẫn cha thực sự có cơ sở thuyết phục và
thiếu chính xác.
Ví dụ: Vụ án xét xử Nguyễn Ngọc T
về tội Vi phạm các quy định về an toàn
giao thông vận tải tại bản án hình sự sơ
thẩm số 44/HSST ngày 7/9/1999 củaToà án
huyện Tân Châu và bản án hình sự phúc
thẩm số 19/HSPT ngày 25/10/1999 Toà án
tỉnh Tây Ninh. Trong vụ án này, hành vi của
Nguyễn Ngọc T là không tuân thủ các
quy định về an toàn giao thông vận tải
trong khi lùi xe nên đ gây ra cái chết của
anh Kiên. Hậu quả xảy ra hoàn toàn do lỗi
của bị cáo. Nhng sau khi gây ra tai nạn
Nguyễn Ngọc T hoàn toàn không bồi

thờng thiệt hại cho gia đình nạn nhân. Bên
cạnh đó, toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm
đều buộc chủ phơng tiện là anh Nguyễn
Văn Phớc bồi thờng cho gia đình ngời
bị hại nhng quyết định không cụ thể, rõ
ràng từng khoản bồi thờng theo quy định
của pháp luật. Ngoài ra, toà án cấp phúc
thẩm đ buộc anh Phớc phải bồi thờng
thêm 10.000.000đ để cấp dỡng nuôi con
của nạn nhân một lần nhng không tuyên
rõ cấp dỡng theo phơng thức nào và cho
những ai.
- Thứ hai, các yêu cầu đòi bồi thờng thiệt
hại ngoài hợp đồng, đặc biệt trong các trờng
hợp oan sai do cán bộ, công chức hoặc những
ngời có thẩm quyền trong các cơ quan tiến
hành tố tụng, trong các cơ quan nhà nớc cha
đợc giải quyết một cách thỏa đáng. Ví dụ: Uỷ
ban nhân dân x An Hiệp, huyện Châu Thành,
Đồng Tháp ra quyết định tạm đình chỉ hôn
nhân giữa chị Võ Thị Bé (ở tổ 15, ấp An Hòa,
An Hiệp) và anh Lê Thanh Tùng (ngụ ở ấp
Trung 2, x Tân Hòa, Phú Tân, An Giang).
Ngày 27/11/1998, hai anh chị đ đợc Uỷ ban
nhân dân x An Hiệp cấp giấy chứng nhận kết
hôn nhng vào ngày nhóm họ (hai tháng sau
đó), Uỷ ban nhân dân x đến đọc quyết định
tạm đình chỉ hôn nhân của họ, thu lại tờ hôn
thú đ cấp và mời cô dâu, chú rể lên x làm
việc vào ngày hôm sau (tức ngày dự định diễn

ra lễ cới). Sự việc nêu trên đ gây thiệt hại về
danh dự, uy tín và vật chất cho cả cô dâu, chú
rể và gia đình đôi bên. Sau sự việc trên, chị Bé
đ gửi đơn khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân
huyện. Mặc dù Uỷ ban nhân dân nhìn nhận vụ
việc này là sai thẩm quyền, tuy nhiên vẫn bác
yêu cầu đòi bồi thờng thiệt hại của chị Bé.
Không đồng ý với quyết định trên, chị Bé đ
khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Châu
Thành và yêu cầu Uỷ ban nhân dân bồi thờng
cho chị khoản tiền là 10.600.000đ đối với
những thiệt hại về vật chất, và tinh thần đ gây
ra. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân huyện Châu
Thành vẫn ra quyết định bác toàn bộ yêu cầu


xây dựng pháp luật
Tạp chí luật học - 59

đòi bồi thờng thiệt hại của chị Bé (tại
phiên tòa sơ thẩm ngày 17/03/2000).
Những vụ án đợc trích dẫn trên đây
chỉ phần nào nói lên thực trạng xác định
trách nhiệm bồi thờng thiệt hại tại các cấp
tòa án. Thực trạng này, nếu không sớm
đợc khắc phục sẽ làm suy giảm lòng tin
của quần chúng nhân dân vào tính nghiêm
minh của pháp luật, pháp chế x hội chủ
nghĩa, gây mất công bằng x hội.
3. Một số kiến nghị

Qua phần tích trên đây, trong phạm vi
bài viết của mình, chúng tôi xin nêu ra một số
kiến nghị để cùng trao đổi với các bạn đọc:
3.1. Về khía cạnh lập pháp:
- Cần sửa lại cách sắp xếp các quy định
trong BLDS về bồi thờng thiệt hại ngoài
hợp đồng theo hớng chỉ đa vào BLDS
các quy định chung mang tính nguyên tắc
về trách nhiệm bồi thờng thiệt hại ngoài
hợp đồng và chuyển lên mục kế tiếp với
mục trách nhiệm dân sự hoặc có thể ghép
vào mục về trách nhiệm dân sự và sửa đổi,
bổ sung một số quy định nh đ phân tích
trên đây.
- Cần rà soát toàn bộ các quy định về
bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng trong
các lĩnh vực pháp luật khác nhau để tiến
hành sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới
nhằm bảo đảm tính thống nhất với các quy
định mang tính nguyên tắc trong BLDS.
- Cần ban hành các văn bản hớng dẫn
mang tính định hớng chung cho việc xác
định và ấn định mức bồi thờng thiệt hại về vật
chất và tinh thần trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn hoạt động xét xử các loại án này của các
tòa án.
3.2. Về cơ chế phối hợp giải quyết yêu cầu
đòi bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng:
Theo quy định của BLDS, ngời bị thiệt
hại có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền

hoặc tòa án giải quyết yêu cầu đòi bồi thờng
thiệt hại. Do vậy cần có văn bản quy định cụ
thể về cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong
các vụ việc khác nhau cũng nh cơ chế phối
hợp giải quyết giữa các cơ quan cùng liên đới
chịu trách nhiệm bồi thờng thiệt hại, đặc biệt
đối với trờng hợp bồi thờng thiệt hại do cán
bộ, công chức nhà nớc, ngời có thẩm quyền
trong các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
3.3. Nâng cao hiểu biết pháp luật của
ngời dân nói chung và của các cán bộ, công
chức nhà nớc, ngời có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tố tụng nói riêng trong lĩnh vực
bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng thông qua
việc đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền,
giáo dục và phổ biến pháp luật. Qua đó giúp
mỗi ngời ý thức đợc hơn trách nhiệm của
mình đối với chính các quyền dân sự của
mình, đối với các quyền dân sự của ngời khác
và đối với lợi ích chung của toàn x hội./.

(1). Vì từ năm 1999 trở lại đây cha có số liệu thống kê
riêng biệt về loại án này nên chúng tôi tạm thời trích
dẫn số liệu từ năm 1996 tới quý I năm 1999 trong Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tòa án nhân dân tối
cao về Vấn đề áp dụng một số chế định của Bộ luật dân
sự trong thực tiễn xét xử của tòa án, năm 1999.

×