Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

phân tích để làm rõ các yếu tố chi phối pháp luật thuế ở nước ta hiện nay , ý kiến pháp lý của nhóm về sự thể hiện các yếu tố chi phối này trong hệ thống pháp luật thuế .”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.38 KB, 15 trang )

A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Thuế là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử .Lịch sử xã hội loài
người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự
phát triển của nhà nước. Ở Việt Nam, cùng với quá trình phát triển của đời sống
kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật thuế được hình thành và ngày càng phát triển.
Pháp luật thuế có hệ thống quy phạm phức tạp, chi tiết, thường xuyên được sửa
đổi thay thế bổ sung để đáp ứng nhu cầu của nhà nước và phù hợp với đời sống
kinh tế - xã hội. Để hiểu rõ hơn về pháp luật thuế ở Việt Nam nhóm chúng em
xin được trình bày đề tài “ Phân tích để làm rõ các yếu tố chi phối pháp luật
thuế ở nước ta hiện nay , ý kiến pháp lý của nhóm về sự thể hiện các yếu tố
chi phối này trong hệ thống pháp luật thuế .”

B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Lý luận chung về thuế, pháp luật thuế
1. Khái niệm thuế
Thuế là một phạm trù kinh tế, pháp lý mang tính lịch sử, sự xuất hiện tồn tại
và phát triển của thuế luôn luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước.
Ở Việt Nam thuế bắt đầu xuất hiện từ đầu thời kì phong kiến. Xã hội ngày càng
phát triển, đòi hỏi bộ máy quyền lực Nhà nước phải hoàn thiện dẫn tới việc gia
tăng các khoản chi tiêu cho bộ máy đó, đồng thời sự phát triển về kinh tế - xã hội
đã làm nảy sinh nhiều quan hệ phức tạp hơn. Tất cả những lý do đó mà các thứ
thuế khác nhau lần lượt ra đời với những sắc thái rất đa dạng, nguồn thu của thuế
tồn tại dưới nhiều hình thức, mỗi một loại thuế có vai trị và mục đích khác nhau
với phạm vi, đối tượng nộp thuế và cách tính thuế khác nhau. Như vậy, thuế là
hiện tượng tất yếu, xuất hiện và tồn tại cùng với hiện tượng kinh tế xã hội khác. Sự
xuất hiện và phát triển của thuế gắn với mỗi giai đoạn, lợi ích mà nhà nước sử
dụng nó làm cộng cụ điều tiết nguồn thu của nền kinh tế xã hội ấy.
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về thuế như vậy nhưng chúng ta có thể
thấy: “Thuế là một khoản thu mang tính chất bắt buộc từ các tổ chức, cá nhân
phải nộp cho nhà nước khi đủ những điều kiện nhất định”.
Với cách nhìn nhận khách quan về thuế như vậy, có thể thấy thuế là một


loại quan hệ phân phối gắn với nhà nước, loại quan hệ giữa nhà nước với người


nộp thuế. Bản chất này không thay đổi trong những xã hội có chế độ kinh tế chính
trị khác nhau. Bất kể xã hội nào cũng thể hiện quan hệ thu và nộp như nhau.
2. Đặc điểm của thuế
- Thuế do Quốc hội lập ra dưới hình thức một đạo luật – là hình thức văn
bản có tính pháp lý cao nhất do cơ quan quyền lực cao nhất, cơ quan lập pháp đặt
ra do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành qũy ngân sách Nhà nước
và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội nên thẩm quyền quy
định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội
có nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy,
do yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số loại thuế thơng qua
hình thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.
- Thuế luôn mang tính chất bắt buộc: Thuế được thu để tạo quỹ Ngân sách
nhà nước chi dùng cho việc chung, mọi cơng dân đủ điều kiện phải đóng thuế.
Việc bỏ ra một khoản tiền để đóng thuế khơng mang lại lợi ích trực tiếp cho người
nộp thuế nhưng họ vẫn phải nộp bởi nguồn thu từ thuế là nguồn thu chủ yếu của
Ngân sách nhà nước, thiếu nguồn thu này Nhà nước khơng thể tồn tại. Vì vậy, Nhà
nước sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với công dân không thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế.
- Thuế là khoản thu của Nhà nước khơng mang tính chất đối giá, tính hoàn
trả trực tiếp cho đối tượng nộp: Cả trước và sau khi nộp thuế Nhà nước không hề
đáp ứng trước hoặc bù lại một khoản lợi ích vật chất nào cho người nộp thuế, bất
kể họ có được hưởng lợi hay khơng hưởng lợi, hưởng nhiều hay hưởng ít, nếu cứ
thõa mãn những yếu tố cấu thành do luật đều phải nộp thuế. Cho nên thuế không
phải là quan hệ mua bán, không phải là khoản trả công phục vụ của Nhà nước cũng
không phải khoản vay cuat Nhà nước. Chính từ tính khơng hồn trả trực tiếp của

thuế mà mọi khoản thu từ thuế đều được tập trung vào Ngân sách Nhà nước để sử
dụng cho mọi mục đích chi tiêu của Nhà nước (nó khơng có đối khoản như khoản
thu từ phí, lệ phí).
- Thuế ln gắn với yếu tố quyền lực: Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện
của Nhà nước, thực hiện cung cấp cơ sở vật chất cho Nhà nước thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của mình. Bằng quyền lực chính trị Nhà nước tạo ra cho thuế
tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Các yếu tố như đối tượng nộp
thuế, thuế suất…được quy định trước và mang tính ổn định trong một khoảng thời


gian nhất định. Chỉ gắn với yếu tố quyền lực, thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm
vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho nhà nước.
3. Pháp luật thuế và hệ thống pháp luật thuế
a. Pháp luật thuế
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực
hiện các mục tiêu xác định trước.
Như vậy, ta có thể thấy được vai trị quan trọng của pháp luật thuế đối với
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế. Pháp luật thuế là cơ sở pháp lý
để cho quá trình thu, nộp thuế diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục do luật định, hiệu
quả, đặc biệt nó là cơ sở pháp lý quan trọng trong giải quyết các vi phạm về thuế
và khiếu nại thuế từ đó hạn chế tình trạng trốn thuế, gian lận thuế gây thất thoát
cho nguồn thu vào quỹ ngân sách nhà nước. Tóm lại, bằng phương pháp mệnh
lệnh quyền uy, pháp luật thuế điều chỉnh những nhóm quan hệ sau: nhóm quan hệ
phát sinh trong q trình quản lí thuế, nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình thực
hiện nghĩa vụ thuế, nhóm quan hệ phát sinh trong q trình xử lý vi phạm và khiếu
nại thuế.
b. Hệ thống pháp luật thuế

Theo tinh thần của lý luận chung về nhà nước và pháp luật thì ta có thể hiểu
“hệ thống pháp luật thuế là tổng thể các quy phạm pháp luật về thuế có mối quan
hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các
ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành theo nhữn
trình tự, thủ tục và hình thức nhất định.”. Hệ thống pháp luật thuế Việt Nam gồm
các sắc thuế : Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật
thuế giá trị gia tăng, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật thuế chuyển quyền
sử dụng đất, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, Thuế
môn bài, Pháp lệnh thuế tài nguyên, Pháp lênh thuế nhà đất,…
II. Những yếu tố chi phối pháp luật thuế ở nước ta hiện nay.
1. Yếu tố trong nước
1.1. Tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế
a. Đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
Thuế và nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn đi cùng nhau, chi phối và
phụ thuộc nhau. Vì vậy, thuế vừa được hiểu là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn


tại của nhà nước và bộ máy nhà nước; mặt khác, thuế lại được nhà nước sử
dụng như là loại công cụ để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu nhất định.Việc
thực thi pháp luật thuế chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi đường lối, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Muốn thực hiện được chiến lược phát triển kinh tế- xã hội mà Đảng đề ra
trong giai đoạn 2001 – 2010 và mục tiêu đến năm 2020 thì Nhà nước ta phải có
một chính sách thuế hợp lý. Chính sách đó vừa phải đảm bảo nguồn thu cho
Nhà nước vừa “vừa sức” với người tiêu dùng nói chung. Hiện nay, quy định
hiện nay của pháp luật thuế đã thể hiện khá tốt việc thể chế hóa chiến lược phát
triển kinh tế của Đảng, Nhà nước. Có thể lấy ví dụ về Luật thuế GTGT năm
2008, bên cạnh ban hành các mức thuế suất hợp lý thì việc quy định 25 nhóm
đối tượng khơng chịu thuế GTGT cũng là một ví dụ thể hiện sự thể chế hóa
này:

- Để phát triển, nâng cao trình độ internet, viễn thông cho người dân: quy
định đối tượng không chịu thuế là dịch vụ bưu chính, viễn thơng cơng ích và
In-ter-net phổ cập theo chương trình của Chính phủ. (Khoản 10, Điều 5 Luật
thuế GTGT 2008).
- Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp: quy định đối tượng không chịu thuế
là tưới, tiêu nước; cày, bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng phục vụ sản xuất
nông nghiệp; dịch vụ thu hoạch sản phẩm nông nghiệp. (Khoản 3, Điều 5, Luật
thuế GTGT 2008).
- v.v..
b. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bên cạnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước,
thực trạng tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng là một nhân tố
làm ảnh hưởng đáng kể tới pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay.
Thuế có vai trị quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Thuế có ảnh
hưởng trực tiếp đến giá cả và thu nhập nên căn cứ vào từng tình huống kinh tế,
Nhà nước có thể sử dụng thuế làm công cụ điều chỉnh nền kinh tế. Các qui
định về đối tượng, pham vi đánh thuế, thuế suất,điều kiện miễn, giảm thuế…
Tóm lại, thơng qua thuế Nhà nước tác động tích cực đến việc thúc đẩy sản
xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý mọi nguồn lực của đất
nước trong việc điều chỉnh quan hệ cung cầu và cơ cấu kinh tế.
Như vậy, việc thực thi thuế là nhằm những mục đích về kinh tế - xã hội. Vì
vậy, sự phát triển của nền kinh tế - xã hội sẽ có những tác động nhất định tới
việc thực thi pháp luật thuế. Hiện nay, nước ta đang bước vào nền kinh tế thị


trường với những thành tựu đáng kể. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt
5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ tăng trong quý I/2009. Đáng chú ý là sự phục hồi
diễn ra ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt: Giá trị sản xuất
nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,8%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng
13,6%; thị trường trong nước tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng

cao, trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế
tăng 24,1%, hoạt động du lịch sơi nổi…
Nhìn một cách tích cực, mọi mặt của đời sống, kinh tế, xã hội đều có sự
tiến bộ rõ rệt. Vì thế, về phía nhà nước, khoản thuế thu thêm sẽ ngày càng tăng.
Bởi lẽ, người tiêu dùng (người chịu thuế) có đời sống khá giả hơn, sẵn sàng bỏ
ra khoản tiền lớn để mua những hàng hóa đã được tính thuế. Về phía người nộp
thuế, họ cũng sẽ thực thi pháp luật thuế hiệu quả hơn nếu như bước vào nền
kinh tế thị trường, nền kinh tế phát triền.
Ngược lại, nếu tình hình kinh tế - xã hội khó khăn thì việc thực thi pháp
luật thuế sẽ có thể tiển theo chiều hướng xấu. Lúc đó, sự làm ăn gặp nhiều khó
khăn hơn thì có thể lợi nhuận, tiền bạc mới là cái mà các doanh nghiệp đặt lên
hàng đầu.
Bên cạnh việc chịu chi phối bởi nền kinh tế - xã hội trong nước, nền kinh
tế quốc tế cũng có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực thi pháp luật thuế. Hiện
nay, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xu hướng chung
là phải mở cửa, giảm thuế quan đối với hàng hóa, dịch vụ nói chung.
Nếu các mức thuế suất mà Luật thuế Việt Nam phù hợp với những cam
kết quốc tế thì việc thực thi sẽ có chiều hướng tốt. Đối với chủ thể nộp thuế,
chịu thuế cũng cảm thấy dễ chịu và chủ thể thực thi việc thu thuế cũng sẽ dễ
dàng hơn trong việc thực thi nhiệm vụ của mình.
1.2. Chi phối bởi nhu cầu ngân sách của nhà nước
Dựa vào chức năng phân phối và phân phối lại: là chức năng cơ bản, đặc
thù của thuế.Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồn
tài chính vào ngân sách Nhà nước (có ở tất cả các kiểu Nhà nước). Về mặt lịch
sử, chức năng huy động nguồn tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh
nguyên nhân nảy sinh ra thuế. Thông qua chức năng này, các qũy tiền tệ tập
trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự hoạt
động thường xuyên và tồn tại của Nhà nước. Bằng chính chức năng này, Nhà
nước tiến hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân trong xã hội. Chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập

của thuế là sự huy động một bộ phận thu nhập quốc dân dưới hình thức tiền tệ


vào ngân sách Nhà nước. Phần lớn thuế đánh trên hàng hóa và thu nhập. Người
có thu nhập cao và sử dụng nhiều hàng hóa, dịch vụ là người nộp thuế nhiều
hơn. Số tiền này sau đó lại được Nhà nước chi nhằm thực hiện chính sách kinh
tế-xã hội, tạo ra tính cơng bằng tương đối cho xã hội. có vai trò đặc biệt đối với
ngân sách nhà nước nên hệ thống pháp luật thuế cần phải đạt hiệu quả để đảm
bảo nhu cầu của ngân sách nhà nước.
Trong bối cảnh kinh tế xã hội trong 10 năm tới được dự báo có nhiều
thay đổi và tác động khơng nhỏ đến hệ thống pháp luật thuế. Đó là, Việt Nam
vừa thoát khỏi danh sách các nước nghèo đồng nghĩa với việc giảm đáng kể các
nguồn lực tài trợ từ bên ngoài, kể cả viện trợ cho phát triển nguồn nhân lực.
Thực thi đầy đủ cam kết quốc tế song phương và đa phương, mở cửa hoàn toàn
thị trường nội địa chắc chắn làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách nhà nước
từ hàng hóa nhập khẩu, vừa tạo cơ hội nhưng cũng vừa tăng sức ép đối với việc
cơ cấu lại các thu ngân sách nhà nước. Như vậy, để đảm bảo nhu cầu của ngân
sách nhà nước trong bối cảnh mới thì hệ thống pháp luật thuế cũng phải có sự
thay đổi phù hợp để đảm bảo cho sự phát triển của đất nước.
1.3. Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân
Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân là yếu tố có ảnh hưởng
quyết định tới việc thực thi pháp luật thuế. Ý thức chấp hành này thể hiện rõ rệt
qua hành vi tự khai nộp thuế của các đối tượng kinh doanh.
Các Doanh nghiệp ít khi vi phạm về thời gian quy định nộp tờ khai thuế
mà chủ yếu vi phạm về cơ chế tự khai, tự nộp thuế. Nguyên nhân là do ý thức
tự giác chấp hành pháp luật thuế của người dân Việt Nam cịn kém. Nhiều
người có tư tưởng, nộp đủ thuế là “khác người”, vậy nên, họ tìm mọi cách để
gian lận, mà gian lận dễ dàng nhất là dùng hóa đơn chứng từ khống để nộp thuế
và hồn thuế. Chất lượng kê khai được thông qua việc thực hiện đúng theo biểu
mẫu quy định, các chỉ tiêu kê khai phù hợp với thực tế phát sinh trong quan hệ

mua, bán hàng hoá dịch vụ tại cơ sở kinh doanh.
Hiện nay, qua số liệu kê khai nộp thuế cho thấy, tỷ lệ giữa số thuế GTGT
phát sinh âm trên số thuế GTGT phát sinh dương của các doanh nghiệp ngồi
quốc doanh ln lớn hơn so với doanh nghiệp nước ngồi; có nhiều doanh
nghiệp liên tục khơng phát sinh số thuế GTGT phải nộp. Đối với doanh nghiệp
nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi thường có số thuế
GTGT phát sinh dương lớn hơn thuế GTGT phát sinh âm (thuế GTGT đầu ra
lớn hơn thuế GTGT đầu vào); từ đó có số thuế GTGT nộp vào NSNN. Cịn đối
với lĩnh vực ngồi quốc doanh thì ngược lại; nhiều doanh nghiệp có quy mơ


kinh doanh khá lớn nhưng thuế GTGT đầu ra lại nhỏ hơn thuế GTGT đầu vào
nên luôn tồn tại số thuế cịn được khấu trừ.
Trong việc hồn thuế, những năm gần đây, số lượng các vụ kê khai khống
hóa đơn GTGT để được hồn thuế vẫn chưa chấm dứt. Ví dụ, về vụ việc: Chiều
ngày 11.8/2009, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về quản lý kinh tế và chức
vụ (PC15), Công an TP Đà Nẵng cho biết vừa tiến hành lệnh bắt tạm giam
nguyên Giám đốc chi nhánh Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam tại Đà Nẵng
(Vinafor Đà Nẵng, trụ sở tại KCN Hịa Khánh), ơng Nguyễn Tấn (52 tuổi, trú
41 Thủ Khoa Huân, P.An Hải Đông, Q.Sơn Trà, TP Đà Nẵng) vì hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tiền thuế GTGT với số tiền lên đến hàng tỉ đồng.
2. Yếu tố nước ngoài
2.1. Các cam kết về thuế với các nước thành viên Diễn đàn hợp tác Châu Á
Thái Bình Dương (EPEC)
- Xây dựng chương trình hành động quốc gia để thực hiện tự do hóa
thương mại vào năm 2020 với các nước đang phát triển và năm 2010 với các
nước phát triển.
- Các cam kết phải được xây dựng theo hướng: giảm dần thuế; đảm bảo sự
rõ ràng trong chế độ thuế quan; trên cơ sở tự nguyện, dành cho những ưu đãi ở
các thỏa thuận khác cho APEC.

- Thực hiện chương trình tự do hóa tự nguyện từng lĩnh vực, cụ thể là 15
lĩnh vực, trong đó có 9 lĩnh vực đầu được đưa vào tự do bắt đầu từ năm 1999,
với các mức thuế suất cuối cùng (0-5%).
2.2. Các hiệp định tránh đánh thuế hai lần được ký kết giữa Việt Nam và
các nước
Từ năm 1990 tới nay, Việt Nam đã ký hơn 40 hiệp định về tránh đánh
thuế hai lần với các quốc gia và vùng lãnh thổ. Hiệp định tránh đánh thuế hai
lần là văn kiện pháp lý song phương trong đó đưa ra một khuôn khổ để các
nước phân chia quyền lợi về thuế từ các đối tượng nộp thuế hoạt động qua biên
giới, đồng thời loại bỏ các rào cản đối với dịng ln chuyển hàng hóa, vốn,
cơng nghệ và lao động giữa các quốc gia.
2.3. Các hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Khi thực hiện một công việc nào đó liên quan tới các nước thành viên,
các nước phải tuân theo các quy định trong Hiệp định của WTO, thông thường
các nước thành viên chú ý tới thực hiện các hiệp định: Hiệp định chung về
Thuế quan và Thương mại (GATT); Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên


quan đến thương mại (TRIMS); Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại (TRIPS); Hiệp định về xác định giá trị Hải quan (CVA).
III. Ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện về sự thể hiện của các yếu tố chi phối
này đối với hệ thống pháp luật thuế.
1. Sự tác động của các yếu tố chi phối đến hệ thống pháp luật thuế.
1.1. Thứ nhất, tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế:
Nhiệm vụ của tất cả các nước đang phát triển là tăng trưởng kinh tế, nhanh
chóng lấp đầy khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển,
Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu hướng đó. Mặc dù các nước đang phát triển
( Trong đó có Việt Nam) cũng có nhiều lợi thế để thu hút đầu tư, kích thích tăng
trưởng, chẳng hạn như sẵn sàng chấp nhận phương án đầu tư vào các lĩnh vực có
khả năng sử dụng nhiều lao động, điều kiện sử dụng lao động không cao…tuy nhiên,

những lợi thế này lại là những mặt hạn chế của sự phát triển kinh tế. Vì vậy, để đảm
bảo nền kinh tế ngày càng phát triển và phát triển một cách bền vững phải xác định
tốc độ phát triển kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Để thực hiện đầu tư với mục tiêu
tăng trưởng cao, yêu cầu thiết yếu về mức độ đầu tư tài chính, nguồn tài chính ln
là áp lực đối với mọi chủ thể trong xã hội, trong đó khơng thể phủ nhận vai trị đầu
tư từ phía Nhà nước. Bên cạnh đó, để thu hút đầu tư, thơng thường các quốc gia tìm
mọi biện pháp ưu đãi thuế. Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế
xuất khẩu thường được sử dụng để thu hút đầu tư thông qua những quy định về các
trường hợp miễn, giảm thuế hoặc quy định mức thuế suất có tính thu hút. Tuy nhiên,
khi sử dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư qua thuế, nguồn thu từ thuế bị giảm
sút do chính những yếu tố ưu đãi thu hút đầu tư. Sự giảm sút này mâu thuẫn với nhu
cầu chi tiêu ngày càng tăng của Chính phủ, gây nguy cơ thâm hụt ngân sách. Bên
cạnh đó, nền kinh tế tăng trưởng nóng chắc chắn làm cho chi phí xã hội tăng, chẳng
hạn như khấu hao tài sản cố định, chi phí tiển lương và các yếu tố đầu vào khác như
vốn, tiếp cận thị trường. Những khoản tiền này làm giảm sút số thu từ thuế của Nhà
nước, dẫn đến mất cân đối ngân sách giữa chi thường xuyên và các khoản thu bắt
buộc.
Nhiều năm trở lại đây, ở nước ta đang hình thành các cụm kinh tế, trục kinh
tế, khu kinh tế trọng điểm nổi trội hơn hẳn so với các địa phương khác. Bên cạnh
những lợi ích mà các trục kinh tế, các khu kinh tế mang lại cũng xuất hiện nhiều
những vấn đề bất cập, nổi bật là việc thu hút đầu tư ở các khu kinh tế như Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đến vấn đề thay đổi mật độ dân cư, hiện tượng di dân


từ khu vực nông thôn về khu cực đô thị, gây áp lực lớn cho khu vực đô thị như vấn
đề nhà ở, trường học, nước sạch, chất thải, vấn đề mật độ giao thơng…Về phía các
chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh ở các khu vực kinh tế trọng điểm cũng có
nhiều vấn đề phát sinh như ơ nhiễm mơi trường, cạnh tranh về nhân cơng, chi phí hạ
tầng cơ sở…Những vấn đề thực này đã và đang diễn ra vô cùng phức tạp. Do
vậy,việc xác định phát triển kinh tế - xã hội cần tính tốn cơ cấu vùng, miền, cơ cấu

lao động, pháp lật thuế phải tính tốn để giải quyết tình trang mất cân đối vùng
miền, cơ cấu lao động.
Một vấn đề nóng cũng gây tác đọng khơng nhỏ, đó là vấn đề ơ nhiễm môi
trường từ các hoạt động kinh doanh.Vấn đề khai thác, kinh doanh và hệ quả là ơ
nhiễm khơng khí, nguồn nước không phải là vấn đề mới đặt ra nhưng hiện tượng này
diễn ra ngày càng trầm trọng ở Việt Nam.Các kết quả phân tích ơ nhiễm mơi trường
cho thấy vẫn đề này không chỉ đặt ra cho các vùng kinh tế lớn, các khu đơ thị mà
cịn là vấn đề nghiêm trọng đối với khu vực nông thôn. Tỉ lệ bụi, tỉ lệ kim loại nặng
trong nước, tỉ lệ độc tố trong các sản phẩm tiêu dùng tăng theo cấp số nhân, trong
khi đó, tỉ lệ tăng trưởn kinh tế không tăng được theo cấp số cộng, cho thấy các cơ
quan có thẩm quyền cần xem xét việc đầu tư và xem xét kĩ các tiêu chuẩn sản xuất.
Tuy nhiên, theo kết luận của các chuyên gia kinh tế, hoạt động đầu tư kinh doanh về
nguyên tắc là tìm kiếm thu nhập nên cũng cần sử dụng các biện pháp tài chính thay
cho các biện pháp hành chính phi kinh tế, Vì thế, việc hồn thiện hơn nữa Luật thế
mơi trường và thực thi có hiệu quả Luật thuế môi trường là vấn đề cần thiết.
Đồng thời cần triển khai thực thi có hiệu quả Luật thuế tài nguyên.Bởi Việc
khai thác cạn kiệt và khơng có quy hoạch các loại tài nguyên diễn ra phổ biến ở Việt
Nam hiện nay không chỉ dẫn đến hậu quả triệt tiêu tài ngun mà cịn trực tiếp gây
ra tác động đến mơi trường sống của con người.
1.2. Thứ hai, về nhu cầu tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước:
Kết quả nghiên cứu về lịch sử phát triển của thuế qua các thời kì, cho thấy
thuế chiếm phần lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Hệ thống pháp luật thuế
đang tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành nguồn thu ổn định với tỉ trọng ngày càng
cao trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Thu từ thuế đã thực hiện được nguyên tắc
cân đối: các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu bắt buộc khác khơng
những đảm bảo chi trả cho toàn bộ các khoản chi thường xuyên mà còn đáp ứng
được một phần cho chi đầu tư phát triển. Tuy nhiên, với hệ thống pháp luật thuế hiện
hành cùng với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã, đang và sẽ phải thực hiện,
nguồn thu từ thuế có thể bị giảm sút. Sự giảm sút không chỉ là hệ quả của việc sửa
đổi thuế xuất khẩu, nhập khẩu mà còn là hệ quả của việc sửa đổi các khoản thu từ



thuế nội địa. Thực tế đó đặt ra cho hệ thống pháp luật thuế là phải tìm ra các phương
thức thích hợp để tăng nguồn thu từ thuế.
1.3. Thứ ba, là sự tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Trong tiến trình hội nhập sâu rộng vào các quan hệ quốc tế, Việt Nam đã kí
kết nhiều điều ước quốc tế với các nước trên thế giới, trong đó có những điều ước
liên quan đến thuế. Do vậy, Cần đảm bảo mức độ tương thích của luật thuế với các
điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia. Vấn đề này đặt ra khi Việt Nam
không chỉ ký kết các điều ước quốc tế song phương và đa phương với rất nhiều quốc
gia mà cịn cơng nhận và cam kết tn thủ với nhiều điều ước quốc tế đa phương
trước đó. Yêu cầu cơ bản đạt ra là phải đảm bảo tính tương đồng về nguyên tắc, định
hướng. Nguyên tắc cơ bản nhất về thuế theo thỏa thuận với các quốc gia khác
thường được đặt ra như yêu cầu tiên quyết là nguyên tắc không phân biệt đối xử,
nguyên tắc ràng buộc và cắt giảm thuế quan, nguyên tắc công khai minh bạch. Về
mức độ tương thích với hệ thống pháp luật các nước kí kết điều ước quốc tế. Cụ thể
là khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế cần phải tuân thủ những nguyên tắc này để
đảm bảo sự phù hợp với những cam kết về thuế giữa các nước kí kết và tham gia các
cam kết quốc tế với các nước trên thế giới và trong khu vực. Đây là yêu cầu đặt ra
khi Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại thế giới trong qua trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Tính đến giai đoạn hiện tại, Việt Nam đã ký kết gần 50 Hiệp định tránh đánh
thuế hai lần với các quốc gia, vùng lãnh thổ. Nội dung thỏa thuận trong các Hiệp
định có những phần đã thể hiện tại các văn bản pháp luật trong nước nhưng còn
nhiều nội dung cần phải tiếp tục nội luật hóa, khả năng thích ứng của đội ngũ cán bộ
trong ngành thuế cũng gặp nhiều khó khăn. Thực hiện các cam kết Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần thực chất liên quan đến quyền lực của Nhà nước về thuế trước xu
thế tồn cầu hóa.Quan hệ pháp luật thuế khơng chỉ chịu tác động của q trình hội
nhập mà cịn chịu tác động của quá trình tái cơ cấu các quan hệ kinh tế giữa các
quốc gia.Chính những tác động này ảnh hưởng đến chính sách thuế và hệ thống

pháp luật thuế.Nếu khơng có chính sách và lộ trình, bước đi cụ thể, tác động của hội
nhập có thể ảnh hưởng đến quyền tự quyết và quyền chính trị quốc gia.Chính vì vậy,
Đảng và Nhà nước ta cần đưa ra những đường lối, chính sách đúng đắn và hệ thống
pháp luật thuế phải trên cơ sở đường lối, chính sách mà Đảng, Nhà nước đưa ra.
1.4. Thứ tư, về ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân:
Ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người dân chưa cao. Trong lịch sử hình
thành và phát triển pháp luật thuế, dường như thuế luôn gắn với quan niệm của sự ép


buộc, cưỡng bức, ln có tính chất cưỡng chế đặc biệt, nên chế độ tự kê khai và nộp
thuế đối với các khoản thuế ở khâu xuất nhập khẩu và thuế nội địa rất dễ dẫn đến
hiện tượng khai man tiền thuế, trốn lậu thuế diễn ra phổ biến, đặt ra yêu cầu mới cho
hệ thống cơ quan thu và các cơ quan có thẩm quyền tham gia vào hoạt động thu
cũng như bản thân những người nộp thuế.
2. Các giải pháp nhằm khắc phục sự hạn chế của các yếu tố chi phối, góp
phần hồn thiện hệ thống pháp luật thuế.
Hệ thống pháp luật thuế của nước ta hiện nay đang trong giai đoạn hồn thiện
nên khơng tránh khỏi những bất cập.Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển nhanh bỏ xa
những quy định pháp luật hiện hành cũng là một thực tế đáng suy nghĩ.Hiện nay hệ
thống pháp luật thuế còn nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo và không hợp lý,
nên khi áp dụng vào thực tiễn sẽ gặp khó khăn, khơng hiệu quả. Từ việc tìm hiểu các
yếu tố chi phối pháp luật thuế và sự thể hiện của các yếu tố này trong hệ thống pháp
luật thuế Việt Nam, nhóm thực hiện xin đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục
những hạn chế thực tiễn của các yếu tố chi phối, tăng cường hiệu quả áp dụng pháp
luật trong lĩnh vực thuế.
2.1. Thứ nhất, hồn thiện nhanh chóng hệ thống pháp luật thuế.
Hiện nay tiến trình cải cách hệ thống pháp luật thuế của nước ta đang bước
vào giai đoạn thứ tư, giai đoạn hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế để đáp ứng nhu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế.Tuy nhiên, rất nhiều quy định pháp luật thuế hiện nay
chưa được kịp thời sửa đổi cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế, nên đã không

phát huy được hiệu qảu khi áp dụng.Chính vì vậy, trong những năm tới, tiến trình
cải cách hệ thống pháp luật thuế cần phải được thực hiện nhanh chóng hơn nữa.
2.2. Thứ 2, cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ chấp hành pháp luật
thuế của doanh nghiệp để phục vụ công tác kiểm tra, giám sát.
Với cơ chế tự khai, tự nộp thuế, cơ quan quản lý thuế sẽ dành nhiều thời gian
hơn để thực hiện công tác giám sát thông qua hoạt động thanh tra và kiểm tra thuế.
Tuy nhiên, để hoạt động kiểm tra thuế được thực hiện hiệu quả, cần xây dựng hệ
thống chỉ tiêu đánh giá mức độ chấp hành pháp luật thuế của doanh nghiệp để việc
kiểm tra được thuận lợi hơn. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá sẽ giúp cơ quan quản lý thuế
phân loại các chủ thể nộp thuế, từ đó, tập trung nhiều hơn đối với những chủ thể có
mức độ chấp hành pháp luật thấp để giám sát. Với một hệ thống chỉ tiêu đánh giá
hợp lý, chắc chắn công tác kiểm tra, giám sát sẽ được thực hiện hiệu quả hơn.


2.3. Thứ ba, cần tăng cường công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức thuế và phát
triển cơ sở hạ tầng ngành thuế.
Như đã phân tích ở mục 1, sự phát triển ngày càng phức tạp của nền kinh tế
đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng phải phát triển
tương xứng. Bên cạnh đó, những cải cách trong hoạt động quản lý Nhà nước và ứng
dụng cơng nghệ thơng tin địi hỏi đội ngũ công chức quản lý thuế phải được bồi
dưỡng nâng cao trình độ để đáp ứng u cầu cơng tác. Cơ sở hạ tầng ngành thuế
cũng cần phải tiếp tục được hồn thiện nhằm gia tăng tính hiệu quả của cơng việc,
giảm thiểu thời gian và chi phí cho chủ thể nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
2.4. Thứ tư, cần đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính thuế và phịng,
chống tham nhũng trong ngành thuế.
Thủ tục hành chính nói chung và thủ tục hành chính thuế nói riêng hiện nay
đã có nhiều cải cách nhằm phục vụ xã hội được tốt hơn. Tuy nhiên, nhiều thủ tục
vẫn còn rườm rà, gây nhiều bất cập cho chủ thế nộp thuế cần được tiếp tục cải tiến.
Bên cạnh đó, cơng tác phịng chống tham nhũng cần phải được đẩy mạnh, thường
xuyên, để đảm bảo công bằng và tránh thất thoát nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

2.5. Thứ năm, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế.
Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật thuế cần đa dạng, phù hợp với
những đối tượng khác nhau và tránh hình thức.Có thể sử dụng nhiều kênh thơng tin
hiệu quả như truyền hình, báo viết và đặc biệt là internet để thực hiện công tác tuyên
truyền pháp luật thuế. Cơ quan quản lý thuế có thể thiết kế đường dây nóng để tư
vấn trực tiếp cho chủ thể nộp thuế để họ thực hiện nghĩa vụ thuế được nhanh chóng,
thuận lợi hơn

C/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Pháp luật thuế nứơc ta được ban hành trên cơ sở yêu cầu thực tiễn và học
hỏi , tiếp thu tinh hoa hệ thống luật thuế đã và đang áp dụng ở các quốc gia điển
hình .Từ những phân tích trên của nhóm về các yếu tố chi phối hệ thống pháp
luật thuế ở nước ta hiện nay và ý kiến pháp lý của nhóm về sự thể hiện các yếu tố
chi phối này trong hệ thống pháp luật thuế của nước ta cịn nhiều thiếu sót do
hiểu biết cịn hạn chế mong thầy cơ xem xét và góp ý thêm cho nhóm hồn thiện
bài làm của nhóm . Chúng em xin cảm ơn!

MỤC LỤC


A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

Lý luận chung về thuế, pháp luật thuế
1. Khái niệm thuế
2. Đặc điểm của thuế
3. Pháp luật thuế và hệ thống pháp luật thuế
II. Những yếu tố chi phối pháp luật thuế ở nước ta hiện nay.
1. Yếu tố trong nước

1.1. Tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế
1.2. Chi phối bởi nhu cầu ngân sách của nhà nước
1.3. Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân
2.Yếu tố nước ngoài
2.1 Các cam kết về thuế với các nước thành viên Diễn đàn hợp tác Châu
Á Thái Bình Dương (EPEC)
2.2. Các hiệp định tránh đánh thuế hai lần được ký kết giữa Việt Nam
và các nước
2.3. Các hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
III. Ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện về sự thể hiện của các yếu tố chi phối
này đối với hệ thống pháp luật thuế.
1. Sự tác động của các yếu tố chi phối đến hệ thống pháp luật thuế.
2. Các giải pháp nhằm khắc phục sự hạn chế của các yếu tố chi phối, góp
phần hồn thiện hệ thống pháp luật thuế.

C/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Luật thuế GTGT 2008
2. Luật thương mại năm 2005.

3. Luật NSNN năm 2002.
4.

“Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật thuế Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế”, Đề tài khoa học cấp trường năm 2008.


5.

Khương Thị Quỳnh Hương, Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
chi NSNN ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, 2006.

Nông trần thu 362617
Hoàng thị phượng 361801
Hồ thị dịu 361751


Bùi thị dung 361046
Phạm thị hà phương 360835
Phan thị xuyến 360832
Nơng thị n 352634
Dỗn thị loan 352537
Phạm thị nga 352531
Lê thị thắm 352512
Nguyễn thị thu huyền 352314
Nguyễn mạnh thắng 352132
Nguyễn trỌng nghĩa 352106



×