Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản với việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong doanh nghiệp nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.39 KB, 118 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới và mở cửa do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta càng thấy rằng sự lãnh đạo
của Đảng ta về đổi mới một cách toàn diện để đưa đất nước ta tiến lên, mà
trọng tâm là đổi mới về kinh tế là hoàn toàn đúng đắn. Sự đúng đắn đó thể
hiện bằng việc đã đưa đất nước ta ra khỏi khủng khoảng, nền kinh tế liên tục
tăng ổn định với tốc độ cao, đời sống của đại đa số nhân dân không ngừng
được cải thiện; vị thế và tiếng nói của dân tộc ta luôn được nâng cao trên
trường quốc tế.
Về kinh tế, trước hết là sự lãnh đạo của Đảng trong việc phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng Xã hội
chủ nghĩa. Lãnh đạo nền kinh tế theo cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc
phải luôn tuân thủ những quy luật khách quan của thị trường nói chung và của
từng loại thị trường nói riêng. Trong đó, vai trò của nhà nước là hết sức quan
trọng đối với việc phát huy những thế mạnh của thị trường, thúc đẩy sự ra đời
và phát triển của từng loại thị trường; khai thác những mặt mạnh, những ưu
thế của nó, đồng thời hạn chế những tiêu cực, những tồn tại vốn có của cơ chế
thị trường, nhằm mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Trong những năm qua, chúng ta đã từng bước thúc đẩy các loại thị
trường ra đời và phát triển. Tuy nhiên, hầu hết các loại thị trường của nước ta
đều còn rất mới mẻ, họat động còn yếu. Thị trường sức lao động không nằm
ngoài những đặc trưng đó.
Thị trường sức lao động của nước ta còn yếu về mọi mặt biểu hiện ở
chỗ: cung cầu về sức lao động mất cân đối trầm trọng, chất lượng lao động
còn kém, các kênh giao dịch việc làm chưa phát triển, thông tin thị trường sức
1
lao động còn sơ khai, vẫn còn một khoảng cách khá xa giữa người mua và
người bán sức lao động. Điều đó biểu hiện ra bên ngoài là người cần sức lao
động không biết chỗ mua và ngược lại người cần bán sức lao động không biết


bán ở đâu và cuối cùng là, tỷ lệ lao động chưa có việc làm hàng năm còn cao,
sức lao động xã hội không được sử dụng hết, còn rất lãng phí.
Những tồn tại, yếu kém trên của thị trường sức lao động, một phần do
nước ta mới đi vào xây dựng nền kinh tế thị trường, song có thể nói vai trò
của nhà nước trong việc thúc đẩy và phát triển thị trường này còn rất nhiều
bất cập.
Thành phố Hải Phòng nằm ở đồng bằng châu thổ sông Hồng, với dân
số 1,8 triệu người và mức gia tăng dân số bình quân hàng năm là 1,3%. Cũng
như dân số Việt Nam nói chung, dân số Hải Phòng thuộc loại dân số trẻ, số
người trong độ tuổi lao động chiếm 64% dân số nói chung. Hàng năm có trên
2 vạn người vào tuổi lao động. Điều này vừa là một lợi thế, một nguồn lực
quan trọng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh tế -
xã hội lại vừa là thách thức lớn trong vấn đề giải quyết việc làm.
Như vậy, nghiên cứu vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường sức
lao động ở thành phố Hải Phòng, để đưa ra phương hướng và những giải pháp
nhằm phát triển thị trường sức lao động thành phố Hải Phòng trong giai đoạn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vấn đề rất quan trọng, cấp bách và lâu dài,
phục vụ đắc lực cho việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thành
phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Liên quan tới thị trường sức lao động đã có một số đề tài nghiên cứu,
đề cập ở những góc độ khác nhau, tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu
trực tiếp nào về “Vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao
động ở thành phố Hải Phòng”. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu, phân tích,
đánh giá thực trạng vai trò nhà nước đối với sự phát triển của thị trường sức
2
lao động ở thành phố Hải Phòng, từ đó đưa ra phương hướng và những giải
pháp tăng cường vai trò nhà nước nhằm phát triển thị trường sức lao động ở
thành phố Hải Phòng là một đề tài mới, chưa được nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài:

Luận văn nhằm đạt được những mục đích sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò nhà nước trong
việc phát triển thị trường sức lao động. Khảng định tính tất yếu và nội dung
nâng cao vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố
Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay-giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển thị
trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng. Từ đó, tìm ra những ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân hạn chế của vai trò nhà nước trong phát triển thị
trường sức lao động thời gian qua ở thành phố Hải Phòng.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng, đề xuất những phương
hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị
trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn lấy vai trò nhà nước đối với sự hình thành và phát triển của
thị trường sức lao động ở Hải Phòng làm đối tượng nghiên cứu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố
Hải Phòng giai đoạn từ năm 2001-2005, khi nghiên cứu thực trạng và đề xuất
phương hướng, giải pháp đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Tham khảo nghiên cứu vai trò nhà nước đối với thị trường sức lao
động một số địa phương của Việt Nam, có tính đến vai trò nhà nước đối với
thị trường sức lao động một số nước trên thế giới.
3
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp luận chung, đặc biệt trực tiếp vận dụng phương pháp trừu tượng
hóa-phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị để tiếp cận đối tượng nghiên
cứu. Ngoài ra, luận văn còn vận dụng các phương pháp hệ thống, phân tích

thống kê, phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học ...
6. Dự kiến đóng góp của luận văn:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò nhà nước trong phát
triển thị trường sức lao động.
- Đưa ra những đánh giá thực trạng vai trò nhà nước đối với thị trường
sức lao động ở thành phố Hải Phòng, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và
những giải pháp mang tính khả thi nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong
phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng trong những năm
tới.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho chính quyền địa
phương Hải Phòng tham khảo, hoạch định chính sách nhằm phát triển thị
trường sức lao động thành phố, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, về nội
dung luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò nhà nước trong phát
triển thị trường sức lao động.
- Chương 2: Thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển thị trường
sức lao động ở Hải Phòng.
- Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm tăng
cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG
1.1. Những vấn đề chung về thị trường sức lao động.
1.1.1. Thị trường sức lao động và các yếu tố cấu thành thị trường
sức lao động.
1.1.1.1. Thị trường sức lao động.

Có rất nhiều khái niệm về thị trường sức lao động, mỗi khái niệm có
những đặc điểm riêng phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh, vị trí nhất
định của các tổ chức hoặc các nhà khoa học đưa ra.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị trường sức lao động là
thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá
trình để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền
công”. Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định
thông qua việc làm được trả công.
Các nhà khoa học Mỹ cho rằng: “ Thị trường mà đảm bảo việc làm cho
người lao động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm thì được gọi là
thị trường sức lao động”.
Các nhà khoa học kinh tế Nga thì lại cho rằng: “Thị trường sức lao
động được hiểu như một hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế
xã hội (trong đó có cả pháp luật), đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử
dụng lao động”.
Theo một số nhà khoa học kinh tế Việt Nam thì khái niệm trên được
phát biểu: “Thị trường sức lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác
lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ
bản nhất như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo
hiểm xã hội, tranh chấp lao động), ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa
một bên là người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động”.
5
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về thị trường sức lao động, do
cách tiếp cận khác nhau, song các quan điểm trên đều thống nhất với nhau về
nội dung cơ bản để tạo nên thị trường sức lao động đó là: không gian, địa
điểm, người bán sức lao động, người mua sức lao động, giá cả sức lao động
và những ràng buộc giữa các bên tham gia thị trường này.
Thực tế cho thấy, các quốc gia phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế
thị trường có những xuất phát điểm khác nhau; có những đặc điểm về kinh tế,
chính trị, xã hội khác nhau. Do đó, khác nhau về trình độ phát triển thị trường

sức lao động.
Mỗi nhà kinh tế có thể nghiên cứu thị trường sức lao động dưới những
góc độ riêng, nên nhận thức về thị trường sức lao động không đồng nhất. Vì
vậy, việc tồn tại những quan điểm khác nhau trong quá trình khám phá các
quy luật vận động của thị trường sức lao động là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, để hiểu thị trường sức lao động dưới góc độ bao quát nhất,
cần xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác. Theo C.Mác :‘‘ . . . Tư bản
chỉ phát sinh ở nơi nào mà người chủ tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm
thấy được người lao động tù do với tư cách là bán sức lao động của mình trên
thị trường’’.
‘‘Anh ta và những chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với
nhau với tư cách là những người chủ hàng hóa bình đẳng với nhau, chỉ khác
nhau ở chỗ người thì mua, còn người kia thì bán và vì thế cả hai đều là những
người bình đẳng về pháp lý’’.
‘‘Lĩnh vực lưu thông hàng hóa hay trao đổi hàng hóa, trong đó việc
mua và bán sức lao động được thực hiện là các địa đàng thực sự của những
quyền tự nhiên của con người. Ngự trị ở đây chỉ có quyền tự do, bình đẳng,
quyền sở hữu ...’’.
Như vậy, từ sự chỉ dẫn của C.Mác có thể rút ra một số luận điểm quan
trọng về thị trường sức lao động như sau :
6
- Thị trường sức lao động là thị trường đặc biệt của thị trường hàng hóa
vì hàng hóa đem ra trao đổi không phải là hàng hóa thông thường mà là hàng
hóa sức lao động.
- Quan hệ trao đổi không phải là quan hệ ‘‘mua đứt bán đoạn’’ mà
được thực hiện thông qua ký kết một văn bản hợp đồng.
- Nguyên tắc trao đổi và những quy luật chi phối trên thị trường sức lao
động không khác gì thị trường hàng hóa thông thường, đó là: tự do, bình đẳng
và ngang giá. Tự do vì người mua và người bán chỉ phục tùng ý chí của mình;
bình đẳng vì họ quan hệ với nhau như ‘‘những chủ sở hữu hàng hóa và trao

đổi vật ngang giá lấy vật ngang giá’’.
Từ đó có thể rút ra : Thị trường sức lao động là một thị trường hàng
hoá, là nơi diễn ra việc trao đổi mua bán hàng hoá sức lao động, người sử
dụng và người sở hữu sức lao động trao đổi với nhau thông qua một bản hợp
đồng, trong đó xác định quyền tự do, bình đẳng của các chủ thể sở hữu và
theo nguyên tắc trao đổi ngang giá. Ở đây, giá cả của hàng hoá sức lao động
biểu hiện dưới hình thái tiền công và tiền công chịu sự điều tiết của các quy
luật thị trường, trong đó quan hệ cung và cầu lao động là cơ chế tác động trực
tiếp tới sưc thay đổi của tiền công.
Như vậy, trên thị trường sẽ hình thành những quan hệ về việc làm, nó
xác định nội dung đích thực của thị trường sức lao động như thị trường việc
làm.
Tóm lại, có thể quan niệm một cách chung nhất về thị trường sức lao
động như sau : ‘‘Thị trường sức lao động là một bộ phận của hệ thống thị
trường, trong đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự
do (người bán sức lao động) và một bên là người có nhu cầu sử dụng sức lao
động (người mua sức lao động). Sự trao đổi này được thỏa thuận trên cơ sở
các mối quan hệ như: tiền công, tiền lương, điều kiện làm việc, bảo hiểm xã
hội, ... thông qua một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng’’.
7
1.1.1.2. Các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động.
Nói đến thị trường sức lao động là nói đến mối quan hệ giữa người có
sức lao động có thể tìm được việc làm để có thu nhập và người sử dụng sức
lao động có thể thuê được công nhân bằng cách trả công để tiến hành sản
xuất-kinh doanh. Trên thị trường sức lao động, mức cung, cầu về sức lao động
ảnh hưởng tới tiền công lao động. Đối tượng tham gia thị trường sức lao động
bao gồm: những người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, có nhu cầu sử dụng sức
lao động và những người có nhu cầu bán sức lao động có thể có việc làm và
thu nhập.
Từ đó ta thấy: Thị trường sức lao động được cấu thành bởi 3 yếu tố cơ

bản : cung, cầu và giá cả sức lao động. Ba yếu tố này có mối quan hệ tác động
lẫn nhau. Nói tới sự vận động, phát triển của thị trường sức lao động tức là
nói tới sự vận động, phát triển của các yếu tố cung, cầu, giá cả sức lao động
và quan hệ giữa chúng cả về quy mô, trình độ, cơ cấu và tính chất hoạt động .
*. Cung sức lao động.
Cung về sức lao động chính là lực lượng lao động xã hội, là toàn bộ
những người có khả năng lao động và có nhu cầu về việc làm, bao gồm cả
những người trong và ngoài độ tuổi lao động.
Cung sức lao động cần phải xem xét về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
- Về số lượng : Cung sức lao động thường được phân biệt thành 2 phạm
trù :
+ Cung thực tế về sức lao động : Gồm tất cả những người từ đủ 15 tuổi
trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp. Cung thực tế sức lao động
chính là lực lượng lao động xã hội hay dân số hoạt động kinh tế.
+ Cung tiềm năng sức lao động : Bao gồm tất cả những người từ đủ 15
tuổi trở lên đang làm việc và những người đang thất nghiệp, những người
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm
8
công việc nội trợ trong gia đình mình hoặc không có nhu cầu lao động và tình
trạng khác.
- Về chất lượng : Cung sức lao động được thể hiện ở tình trạng sức
khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, ý thức kỷ luật, phẩm
chất đạo đức của người cung sức lao động trên thị trường.
- Về cơ cấu : Cung sức lao động thể hiện ở cơ cấu của người cung sức
lao động trên thị trường sức lao động xét theo độ tuổi, giới tính, trình độ nghề
nghiệp, khu vực, ngành, nghề, thành phần kinh tế.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến cung sức lao động :
+ Một là : Quy mô và tốc độ tăng dân số: Quy mô dân số là lượng tuyệt
đối về dân số trong phạm vi một quốc gia hay một vùng lãnh thổ. Khi quy mô
dân số lớn, tốc độ tăng dân số cao thì cung sức lao động sẽ tăng và ngược lại.

+ Hai là : Tỷ lệ dân số tham gia thị trường sức lao động, tức là tỷ lệ dân
số từ đủ 15 tuổi trở lên tham gia thị trường sức lao động. Khi tỷ lệ này tăng
thì cung sức lao động sẽ tăng và ngược lại.
+ Ba là, sự di cư lao động, đây là yếu tố có tác động tức thì đến cung
sức lao đông. Nó có thể làm tăng hoặc làm giảm đột ngột đối với cung sức lao
động ở vùng nhập cư và vùng xuất cư.
*. Cầu về sức lao động:
Cầu về sức lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một
địa phương, một ngành hay một doanh nghiệp với những mức tiền công khác
nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Nhu cầu này thể hiện qua khả
năng thuê mướn lao động trên thị trường sức lao động.
Cầu về sức lao động được chia làm hai loại :
+ Cầu thực tế về sức lao động: Là nhu cầu thực tế cần sử dụng sức lao
động tại một thời điểm nhất định.
+ Cầu tiềm năng về sức lao động: là nhu cầu lao động cho tổng số chỗ
làm việc có thể có sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo
9
việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ và các
điều kiện khác.
Cầu tiềm năng về sức lao động = cầu thực tế về sức lao động + số chỗ
làm việc sẽ được tạo ra trong tương lai.
Giống như cung về sức lao đông, cầu về sức lao động cũng được xem
xét cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu:
- Về số lượng: Cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc
độ phát triển sản xuất, nếu năng xuất lao động xã hội không đổi và nó tỷ lệ
nghịch với năng xuất lao động xã hội, nếu quy mô sản xuất không đổi.
- Về chất lượng: Cầu về chất lượng lao động ngày một nâng cao trước
sự đòi hỏi của việc nâng cao năng xuất lao động, mở rộng quy mô sản xuất,
tăng khả năng cạnh tranh . . .
- Về cơ cấu: Cầu lao động cũng được xem xét theo các tiêu chí: lứa

tuổi, giới tính, ngành, nghề, thành phần kinh tế . . .
- Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu sức lao động:
+ Một là, phương thức tăng trưởng kinh tế được lựa chọn: nếu chính
phủ lựa chọn phương thức tăng trưởng kinh tế nhanh, nhờ vào vốn là chủ yếu
thì cầu lao động sẽ giảm và vốn khi được ưu tiên đầu tư vào ngành nào, vùng
nào thì ngành đó, vùng đó sẽ thu hút nhiều lao động hơn. Nếu chính phủ lựa
chọn phương thức tăng trưởng kinh tế dựa vào lao động là chủ yếu thì cầu lao
động sẽ tăng lên.
+ Hai là, Mục tiêu tạo việc làm của Chính phủ: Việc làm là một vấn đề
luôn được chính phủ ở hầu hết các nước quan tâm vì nó liên quan trực tiếp
đến vấn đề an sinh xã hội. Việc làm luôn là một trong những mục tiêu kinh tế
vĩ mô của các Chính phủ. Chính vì vậy, việc làm là vấn đề kinh tế xã hội có
tính bức xúc, thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành, các tổ chức chính
tri-xã hội và người lao động.
10
+ Ba là, kiểu và mức độ công nghiệp hoá lựa chọn: Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là tất yếu khách quan đối với mỗi quốc gia. Dưới góc độ việc
làm, kiểu và mức độ công nghiệp hoá được lựa chọn có ảnh hưởng không
nhỏ.
+ Bốn là, mục tiêu chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ: Ở các nước đang phát triển, thị trường sức lao động có đặc
điểm là lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn và tình trạng
người nông dân thiếu việc làm là phổ biến do thất nghiệp . . . Do đó, để tăng
cầu lao động ở khu vực nông thôn, Chính phủ cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch lao động từ nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ.
+ Năm là, cầu về hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và khuynh hướng
tiêu dùng của dân cư: Khi cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng thì cầu về sức lao
động để sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ đó cũng tăng lên và ngược lại.
Đồng thời, nếu khuynh hướng tiêu dùng của dân cư là sử dụng sản

phẩm làm từ công nghệ nhiều lao động thì cầu về sức lao động sẽ tăng và
ngược lại.
Ngoài ra, cầu về sức lao động còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác
như: tình hình kinh tế, chính tri, xã hội (ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu
hẹp sản xuất, khuyến khích hay hạn chế đầu tư ...) ; yếu tố tiền công lao động
(khi tiền công lao động tăng lên cầu về sức lao động có xu hướng giảm và
ngược lại), và các yếu tố tạo ra việc làm như: đất đai, vốn, trình độ tổ chức
quản lý, tôn giáo, phong tục tập quán...
*. Giá cả sức lao động:
Tiền công là giá cả sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị
sức lao động; cũng như các loại hàng hoá khác, giá cả hàng hoá sức lao động
không chỉ bị quy định bởi giá trị của nó, mà còn chịu ảnh hưởng của quan hệ
cung -cầu sức lao động. Khi cung vượt quá cầu thì giá cả sức lao động sẽ thấp
11
hơn giá trị sức lao động và ngược lại. Mối quan hệ cung-cầu trên thị trường
sức lao động sẽ dẫn đến việc xác định giá cả sức lao động.
*. Mối quan hệ giữa giá cả và cung -cầu trên thị trường sức lao động.
- Sự hoạt động của thị trường sức lao động được thể hiện thông qua mối
quan hệ giữa giữa giá cả và cung, cầu trên thị trường sức lao động.
Cung, cầu và giá cả sức lao động có mối quan hệ qua lại với nhau trên
thị trường sức lao động. Nếu cung phù hợp với cầu và cung-cầu điều chỉnh
linh hoạt theo tiền công thì thị trường sức lao động vận hành có hiệu quả, thất
nghiệp không xảy ra. Nếu mức cung cao hơn mức cầu thì lao động sẽ thừa,
tiền công giảm xuống và ngược lại. Mặt khác, quan hệ cung cầu về sức lao
động cũng được điều tiết phù hợp với quy luật giá trị. Việc hạ giá hay tăng giá
hàng hoá sức lao động cũng tác động đến cung và cầu. Giá cả của sức lao
động cũng như ‘cái van’ điều chỉnh quan hệ cung, cầu sức lao động.
Cơ sở khách quan của những biến động trong mối quan hệ cung cầu và
giá cả sức lao động là trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội và giá trị
hàng hoá sức lao động. Ngoài ra, chúng còn chịu sự tác động của nhà nước

thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, như luật lao động, luật thuế thu nhập,
chính sách bảo hiểm xã hội, lương tối thiểu ...
- Sự hoạt động của thị trường sức lao động tạo ra cạnh tranh mạnh mẽ
trên thị trường này : Đó là sự cạnh tranh giữa người mua (người thuê mướn
sức lao động) và người bán (người cung ứng sức lao động); giữa người mua
với người mua ... từ đó tác động đến việc hình thành giá cả sức lao động. Vì:
Thông qua tín hiệu giá cả, cả người mua và người bán đều theo đuổi tối
đa lợi ích kinh tế của mình, từ đó tác động đến giá cả, làm cho giá cả chuyển
động về vị trí cân bằng.
Cạnh tranh giữa người mua và người bán sức lao động diễn ra theo biến
động của cung cầu sức lao động trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu thì
người mua trả tiền công thấp hơn cho người lao động và họ dễ dàng thuê
12
mướn được nhân công. Ngược lại, khi cung nhỏ hơn cầu thì người bán đòi hỏi
được trả mức tiền công cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn.
Cạnh tranh giữa người mua với người mua thường được diễn ra khi
cung sức lao động nhỏ hơn cầu sức lao động hoặc chất lượng cung sức lao
động thấp hơn chất lượng cầu sức lao động. Những người mua thường trả tiền
công cao hơn cho người lao động để thu hút, lôi kéo lao động về phía mình,
nên dễ gây ra sự biến động mạnh về di chuyển nhân công trên thị trường sức
lao động.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của thị trường sức lao động trong nền
kinh tế thị trường.
1.1.2.1. Đặc điểm của thị trường sức lao động.
Hàng hóa sức lao động có những thuộc tính chung như những hàng hóa
thông thường khác, song nó cũng có những thuộc tính riêng mà chỉ hàng hóa
sức lao động mới có. Xuất phát từ những thuộc tính riêng của hàng hóa này
mà thị trường sức lao động có những đặc điểm cơ bản sau :
- Hàng hóa sức lao động không tách rời giữa quyền sở hữu và quyền
sử dụng. Trên thị trường sức lao động, người mua chỉ có quyền sử dụng và

làm chủ từng phần khả năng lao động-sức lao động của người lao động, mà
hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định.
- Giữa người bán và người mua sức lao động có trách nhiệm phối hợp
hành động tương đối dài với nhau. Người lao động như một cá thể, có thể tự
kiểm soát chất lượng công việc của mình với những nỗ lực khác nhau, thể
hiện mức độ trung thực khác nhau với chủ sử dụng lao động đã thuê họ.
Người thuê phải tính đến những yếu tố đó để quản lý sản xuất, nghĩa là phải
xây dựng một cơ chế đãi ngộ, kích thích, tạo động lực đối với người lao động
một cách phù hợp như: điều kiện làm việc, tiền lương, tiền thưởng và các
phúc lợi xã hội khác.
13
- Thị trường sức lao động tồn tại một số cấu trúc thể chế loại đặc biệt
(hệ thống pháp luật phân nhánh, những chương trình kinh tế - xã hội, dịch vụ
việc làm các tổ chức công đoàn, liên hiệp hội các nhà doanh nghiệp, v.v..)
sinh ra đặc thù quan hệ giữa các chủ thể của thị trường sức lao động. Vì vậy,
cần phải thể chế hóa thật chi tiết mọi hướng hoạt động khác nhau của họ.
- Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới
tính, tuổi tác, thể lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động
lực làm việc v.v… Vì vậy, mức độ cá thể hóa cao khi ký kết giao kèo, gắn với
trình độ chuyên môn khác nhau của sức lao động, sự đa dạng của công nghệ
và tổ chức lao động, nên việc đánh giá chất lượng lao động khi tuyển dụng,
trả công phù hợp cho từng người gặp nhiều khó khăn và phức tạp;
- Trong trao đổi hàng hóa sức lao động có nhiều điểm khác so với trao
đổi hàng hóa vật chất. Quá trình trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng
hóa vật chất được bắt đầu trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa - quyền sử dụng
khả năng lao động được chuyển sang người mua theo những gì đã được ấn
định trong hợp đồng hay thoả ước lao động tập thể. Quá trình trao đổi được
tiếp tục trong sản xuất dưới hình thức trao đổi sức lao động đang hoạt động,
lao động thực tế thành lương danh nghĩa và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông
của cải vật chất, có nghĩa là trên thị trường hàng hóa và dịch vụ được trao đổi

lương danh nghĩa thành phương tiện sống. Việc trao đổi hàng hóa vật chất
được bắt đầu và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa vật chất.
- Đối với người lao động, vấn đề quan trọng không chỉ là tiền công và
tiền lương, mà còn là nội dung và điều kiện lao động, bảo đảm duy trì chỗ làm
việc, tương lai công việc và triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp, bầu
không khí làm việc trong tập thể và quan hệ giữa người lao động với người
thuê lao động v.v….
1.1.2.2. Vai trò của thị trường sức lao động trong nền kinh tế thị
trường.
14
- Trước hết, thị trường sức lao động đảm bảo việc làm cho dân số tích
cực kinh tế, kết nối họ vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo khả năng cho họ
nhận được những thu nhập thiết yếu để tái sản xuất sức lao động của chính
bản thân mình, cũng như nuôi sống gia đình mình. Thị trường sức lao động dễ
dàng chuyển đổi người lao động sang chỗ làm việc thích hợp hơn với họ, nơi
mà thành quả lao động của họ có năng suất hơn và có cơ hội nhận được thu
nhập cao hơn.
- Thứ hai, thông qua thị trường sức lao động sẽ cung cấp đầy đủ những
thông tin cho cả người lao động và người thuê lao động về ngành nghề nào
đang cần, nơi nào đang dư thừa sức lao động, những người đang đi tìm kiếm
việc làm cần phải trang bị và bồi dưỡng những chuyên môn nghiệp vụ gì, phải
mở rộng những kiến thức và kỹ năng theo hướng nào để có thể nhận được
việc làm theo mong muốn. Từ đó cho thấy, thị trường sức lao động là nguồn
thông tin rất quan trọng và nó quan hệ chặt chẽ với tất cả các thị trường.
Thông tin trên thị trường sức lao động đem lại cơ sở cho cả người thuê lao
động cũng như người lao động để xây dựng kế hoạch hoạt động trong tương
lai của họ. Người lao động biết rõ rằng, giới chủ đòi hỏi ngày càng cao với
người làm thuê trên thị trường sức lao động.
- Thứ ba, cạnh tranh giữa những người lao động sẽ thúc đẩy mở rộng
vùng thợ chuyên nghiệp làm thuê, nâng cao chuyên môn và khả năng tổng

hợp của họ. Sự cạnh tranh của các ông chủ trên thị trường sức lao động sẽ bắt
buộc họ không chỉ duy trì mức lương đã đặt ra, mà còn tạo ra những môi
trường làm việc thuận lợi, thể hiện sự quan tâm nhất định về thoả mãn những
nhu cầu cần thiết và đảm bảo những quan hệ qua lại bình thường trong tập thể
lao động giữa những người lao động, cũng như giữa lãnh đạo và nhân viên.
- Thứ tư, khi ký kết hợp đồng lao động bằng miệng hoặc trên văn bản
giữa người thuê lao động với người lao động, vấn đề được xem xét không chỉ
thoả thuận về mức lương và thời gian làm việc, mà còn cả chế độ nghỉ phép,
15
chế độ nâng lương, chế độ khen thưởng, ốm đau và cả bảo hiểm xã hội cộng
với những ưu đãi khác.
- Thứ năm, thị trường sức lao động đảm bảo việc phân chia và sắp xếp
lại dân số tích cực kinh tế trong trường hợp cải cách cấu trúc nền kinh tế hiện
nay ở Việt Nam. Vấn đề này đặc biệt quan trọng và khó khăn khi đất nước
bước vào thời kỳ mới; các doanh nghiệp chịu sự sắp xếp lại theo chiều hướng
khác nhau: sáp nhập, giải thể, liên kết, liên doanh, cổ phần hoá, cho thuê hoặc
bán doanh nghiệp, đã làm cho số người mất việc làm trong các doanh nghiệp
nhà nước tới hàng triệu người. Bên cạnh đó, sự cho phép hình thành và phát
triển đa dạng các loại hình sở hữu, nhiều doanh nghiệp mới ra đời đã giải
quyết nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động và cả những người dôi dư
từ khu vực nhà nước trong nhiều năm qua. Tỷ trọng lao động trong các thành
phần kinh tế, các ngành nghề, khu vực dân cư dần dần được thay đổi theo cơ
cấu ngày càng hợp lý, uyển chuyển, thích ứng và phù hợp với cấu trúc mới
của nền kinh tế.
- Thứ sáu, thị trường sức lao động làm tăng tính cơ động của lao động
giữa các doanh nghiệp trong một ngành, giữa các ngành và các khu vực với
nhau. Trong thời kỳ đầu của cải cách kinh tế ở Việt Nam, dòng chuyển động
này vẫn chưa mang tính cơ động cao vì hàng loạt những nguyên nhân như
tính ỷ lại và trông chờ vào sự sắp xếp công việc của nhà nước là thói quen đã
ăn sâu vào tiềm thức của cả thế hệ người lao động từ thời kinh tế bao cấp, thói

quen thích ứng với nơi đã sống thường xuyên, sự gắn bó với công việc, gánh
nặng gia đình cùng việc học hành của con cái, những thủ tục hành chính phức
tạp như chế độ hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng. Sau hơn 20 năm thực hiện công
cuộc đổi mới, nước ta đã có nhiều thay đổi trong chính sách điều tiết kinh tế
vĩ mô, cải cách từng bước các thủ tục hành chính cũng như hoàn thiện dần cơ
sở hạ tầng của thị trường sức lao động thì tính cơ động của lao động cũng
16
đang dần có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt là trong đội ngũ người lao
động trẻ.
Thứ bảy, cùng với việc hoạt động tương hỗ để giải quyết những vấn đề
kinh tế xã hội quan trọng khác, thị trường sức lao động cũng đem đến những
hậu quả tiêu cực:
- Tăng sự phân lập về lương và thu nhập của người lao động, làm giảm
tỷ lệ lương trong thu nhập, tăng bất công là nguyên nhân sinh ra đói nghèo.
Thị trường lao động Việt Nam đang trong giai đoạn hình thành và phát triển,
vì thế nó không thể tránh khỏi bị những ảnh hưởng trực tiếp từ kết quả cải
cách toàn diện nền kinh tế trong những năm qua.
- Thị trường lao động làm tổn hại tới tinh thần đoàn kết, nhất trí của
người lao động. Cạnh tranh giữa những người lao động dẫn đến tách rời ý
kiến, cá thể hoá quyền lợi, làm yếu đi sự đồng nhất quan điểm trong đàm
phán với người thuê lao động.
1.2. Sự cần thiết và nội dung tăng cường vai trò nhà nước trong
phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.2.1. Sự cần thiết phải tăng cường vai trò nhà nước trong phát
triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
Theo các nhà kinh tế học cổ điển, J.M.Keynes, P.A.Samuenson và các
nhà kinh tế học hiện đại, thì sự can thiệp của nhà nước vào thị trường sức lao
động được thể hiện trên 2 khía cạnh:
- Nhà nước tạo lập môi trường, kích thích đầu tư và tiêu dùng của nhân
dân nhằm kích thích cầu sản phẩm, ngăn chặn khủng hoảng, thất nghiệp, tạo

việc làm đầy đủ cho lao động xã hội.
- Nhà nước đảm bảo các điều kiện để thị trường sức lao động vận hành
thắng lợi, đảm bảo công bằng xã hội, khắc phục sự phân hóa giàu nghèo quá
mức, bảo vệ nhóm lao động yếu thế, giảm thiểu rủi ro cho thị trường sức lao
động.
17
Trong nền kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa, sự phát
triển của thị trường sức lao động (một bộ phận của hệ thống thị trường) chịu
sự tác động của các thể chế, chính sách cũng như các công cụ vĩ mô khác của
nhà nước can thiệp vào nhằm hạn chế mặt trái của thị trường này và thúc đẩy
nó phát triển theo những mục tiêu đã định. Thị trường sức lao động không thể
phát triển mạnh nếu không có sự ổn định của môi trường chính trị, tách rời
của quản lý nhà nước.
Hệ thống các loại thị trường nói chung (trong đó có thị trường sức lao
động) ở Hải Phòng cũng như trong cả nước còn đang trong giai đoạn hình
thành và phát triển. Do đó, cần thiết phải tăng cường vai trò nhà nước đối với
việc phát triển các loại thị trường, đặc biệt là thị trường sức lao động. Khi thị
trường sức lao động phát triển, nó có vai trò tiên phong lôi kéo các loại thị
trường khác cùng phát triển.
Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở
Hải Phòng là một vấn đề cần thiết, có tính khách quan, do những nguyên nhân
chủ yếu sau:
1.2.1.1. Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức
lao động ở Hải Phòng do yêu cầu tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng và phát triển một hệ thống thị trường đầy đủ, đồng bộ có vai
trò đặc biệt quan trọng và là một yêu cầu khách quan đối với nước ta nói
chung, thành phố Hải Phòng nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Thực tế cho
thấy, hệ thống thị trường với tư cách là tổng hòa những quan hệ kinh tế khách
quan. Trong một chừng mức nhất định, tự nó đang dần dần phát triển, hoàn

thiện, tuân theo những quy luật, nguyên tắc, chuẩn mực của thị trường. Mặt
khác, hiểu theo nghĩa đầy đủ của từ “Thị trường” thì không thể tự nó thực
hiện mà phải thông qua những thể chế mang tính chủ quan do nhà nước tạo
lập và triển khai. Dưới góc độ này, thị trường đang trở thành cơ chế quan
18
trọng để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho phát triển, đồng thời
tạo cơ sở cho nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy, việc tăng cường
vai trò nhà nước trong phát triển một hệ thống thị trường đồng bộ trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa luôn được
Đảng và nhà nước quan tâm. Những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới đất
nước và quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa,
hệ thống thị trường ở nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng dần dần hình
thành và phát triển, nhưng nhìn chung vẫn mang tính manh mún, sơ khai, kém
hiệu quả. Do đó, việc tăng cường vai trò nhà nước trong việc phát triển hệ
thống thị trường một cách đồng bộ có liên quan chặt chẽ với nhau tạo nên môi
trường kinh doanh mạnh mẽ, lành mạnh để phát triển và một việc làm hết sức
quan trọng.
Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của Đại hội IX Đảng
cộng sản Việt Nam đã nêu rõ “Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường,
đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước”, trong đó nhấn
mạnh “Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị
trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm đến các thị
trường quan trọng nhưng chưa có hoặc còn sơ khai như thị trường lao động,
thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công
nghệ ...”
Ngoài việc hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, việc
tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường còn đòi hỏi phải có sự đồng bộ từ
các yếu tố của từng loại thị trường. Vai trò tạo lập sự đồng bộ thị trường nằm
trong tay nhà nước mà chỉ có chủ thể có sức mạnh như nhà nước mới có khả
năng can thiệp, tạo lập, định hướng và hỗ trợ sự đồng bộ này.

Ở Hải Phòng, Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành
phố đã nhận rõ tầm quan trọng của việc “tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị
trường trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ
19
nghĩa”, nên luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện việc hình thành, phát triển đồng
bộ hệ thống thị trường trên địa bàn thành phố, đặc biệt quan tâm phát triển các
thị trường mới còn manh nha, yếu kém như: thị trường sức lao động, thị
trường vốn, thị trường khoa học và công nghệ ... thành phố luôn định hướng,
hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các loại thị trường phát triển, từng
bước hoàn thiện trong mối quan hệ tương hỗ và thúc đẩy nhau cùng phát
triển.
1.2.1.2. Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức
lao động ở Hải Phòng để đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghịêp hóa,
hiện đại hóa đất nước:
Cả lý luận và thực tiễn đều khảng định rằng: công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là con đường duy nhất, tất yếu của nước ta để thoát khỏi tình trạng nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa, với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự hình thành và phát
triển nền kinh tế tri thức trên thế giới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
được Đại hội X của Đảng xác định: “ ...tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghịêp hóa-hiện đại hóa đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa gắn liền
với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và thành phố, Hải Phòng luôn chú trọng đến các nhân tố tác động đến
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kể cả nhân tố bên trong (như vốn, khoa học
công nghệ, nguồn nhân lực, cơ chế chính sách, kết cấu hạ tầng kinh tế) và các
nhân tố bên ngoài (như: vốn, công nghệ tiên tiến, thị trường quốc tế ...). Trong

tất cả nhân tố đó, Hải Phòng luôn khảng định: nguồn nhân lực có chất lượng
cao là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến kết quả và tính bền vững của công
20
nghiệp hóa. Nguồn lực này bao gồm: lực lượng lao động được đào tạo và có
tay nghề; đội ngũ cán bộ công chức có trình độ, năng lực và phẩm chất; đội
ngũ cán bộ kinh doanh có trình độ, phẩm chất và sự năng động, sáng tạo ...
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải Phòng đang đặt ra nhu
cầu lớn về lực lượng lao động và chất lượng của nguồn nhân lực. Đặc biệt,
một vấn đề đáng chú ý là công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải Phòng cũng
như cả nước đang diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế, thị trường sức lao động ở Hải Phòng đang đứng trước thách thức lớn
về chất lượng nguồn nhân lực. Khi đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới,
yếu tố cạnh tranh sức lao động là rất lớn, số lao động nước ngoài (chuyên gia)
vào làm việc trên địa bàn thành phố chắc chắn sẽ gia tăng mạnh hơn trong
thời gian tới, do đó đòi hỏi không chỉ bản thân người lao động phải nỗ lực mà
doanh nghiệp cũng phải tạo điều kiện để người lao động được học tập, qua đó
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để đáp ứng nhu cầu lao động cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đòi hỏi Hải Phòng phải quan tâm đến chiến lược phát triển nguồn nhân
lực (cả về số lượng và chất lượng, cả về đào tạo, bố trí, sử dụng lao động ...)
và trong tính đồng bộ của phát triển hệ thống thị trường phải đặc biệt chú
trọng phát triển thị trường sức lao động, coi đây là thị trường đầu tầu lôi kéo
các thị trường khác, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và thành phố.
1.2.1.3. Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức
lao động ở Hải Phòng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của
địa phương.
Nghị quyết số 32-NQ-TW, ngày 05/08/2003 của Bộ chính trị về việc
xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa
đất nước đến năm 2020 nêu rõ: “Hải Phòng tập trung xây dựng và phát triển

để xứng đáng là thành phố cảng, công nghiệp hiện đại; là đô thị trung tâm
21
quốc gia; đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh
phía Bắc; một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía
Bắc; một trọng điểm phát triển kinh tế biển; một trong những trung tâm công
nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch, thủy sản,
giáo dục và y tế của vùng duyên hải Bắc bộ”.
Các mục tiêu cụ thể là: Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng đạt mức
tăng trưởng 14%/năm; lĩnh vực dịch vụ đất đạt tốc độ tăng trưởng 14,2% (giai
đoạn 2006-2010); 14,4% (giai đoạn 2011-2020)lĩnh vực nông-lâm-thủy sản
đạt tốc độ tăng trưởng 5,5% (giai đoạn 2006-2010); 6,4% (giai đoạn 2011-
2020); tốc độ tăng trưởng GDP bình quân từ 13 -13,5% (giai đoạn 2006-
2010) và 13,5-14% giai đoạn 2011-2020.
Cơ cấu kinh tế chung của Hải Phòng chuyển dịch theo hướng tăng dịch
vụ, công nghịêp-xây dựng và giảm lĩnh vực nông-lâm-thủy sản cụ thể là: giai
đoạn 2006-2010, tỷ trọng dịch vụ 52-53%, công nghiệp-xây dựng: 30-40%,
nông-lâm-thủy sản: 7-8%. Giai đoạn 2011-2020, tỷ trọng dịch vụ chiếm 63-
64%, công nghiệp-xây dựng:33-34%, nông-lâm-thủy sản:3-4%.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 1,9-2 tỷ USD vào năm 2010 và khoảng 6 tỷ
USD vào năm 2020.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 5% vào năm 2010.
Trên 90% hộ nông thôn dùng nước sạch; 100% số hộ có điện sử dụng.
Cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học và nghề vào năm
2008.
Tỷ lệ qua đào tạo ở các trình độ đạt 60-65% trong tổng số lao động
trong độ tuổi vào năm 2020.
Với mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội như trên, đặt ra nhu cầu rất lớn
về lực lượng lao động (cả số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu ...). Do đó, để
có đủ lực lượng lao động cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong kỳ quy
hoạch và đáp ứng nhu cầu tăng trưởng theo mục tiêu đề ra, đòi hỏi Hải Phòng

22
phải phát triển thị trường sức lao động, chăm lo phát triển nguồn nhân lực,
quan tâm đội ngũ lao động có trình độ cao. Nguồn nhân lực được phát triển sẽ
là nhân tố quan trọng, quyết định thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội
của thành phố.
1.2.2. Nội dung tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị
trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.2.2.1. Tăng cường vai trò nhà nước trong việc nâng cao chất lượng
và số lượng cung sức lao động trên thị trường sức lao động.
Đặc điểm nổi bật của cung sức lao động trên thị trường sức lao động
của Hải Phòng hiện nay là: Lao động chủ yếu vẫn là lao động nông nghiệp,
nông thôn, (chiếm 50%), trong đó gần 20% lực lượng lao động trong khu vực
này thiếu việc làm; lực lượng lao động chưa qua đào tạo gần 60%, trình độ
chuyên môn, tay nghề chưa cao, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công
nghiệp kém ... cơ cấu ngành nghề được đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu
thị trường sức lao động, thiếu sức lao động có kỹ thuật cao; thể lực người lao
động yếu (cả về chiều cao và cân nặng) không phù hợp với việc sử dụng máy
móc, thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy, khả năng cạnh tranh yếu, nhất
là ở thị trường sức lao động yêu cầu lao động có trình độ kỹ thuật cao như các
khu công nghịêp, khu chế xuất và xuất khẩu lao động.
Từ đặc điểm trên đây của cung sức lao động trên thị trường sức lao
động, nó đòi hỏi thành phố Hải Phòng phải tăng cường hơn nữa, chú trọng tới
chất lượng cung của sức lao động trên thị trường. Thành phố cần có chiến
lược sát sao hơn, thực tiễn hơn, khả thị hơn trong vấn đào đào tạo nguồn nhân
lực để đáp ứng thị trường sức lao động của thành phố. Vấn đề đào tạo không
chỉ chú trọng đến trình độ, tay nghề của người lao động mà còn quan tâm tới
cơ cấu ngành nghề, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp của người lao động.
Đào tạo cho người lao động không chỉ đáp ứng theo yêu cầu trước mắt, mà
còn là vấn đề lâu dài. Đào tạo nguồn nhân lực không chỉ cho thị trường trong
23

nước mà còn phải vươn ra thị trường quốc tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay
nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Công tác đào tạo nguồn
nhân lực cần được đen xen với các chương trình khác để đảm bảo nâng cao
thể lực cho người lao động cả về cân nặng và chiều cao.
Để đảm bảo nâng cao chất lượng và số lượng cung sức lao động trên
địa bàn Hải Phòng, một yếu tố không thể không tính đến đó là việc tiếp nhận
lao động từ nước ngoài vào làm việc, khi mà chất lượng lao động của Hải
Phòng còn nhiều yếu kém, tình trạng thiếu lao động có trình độ quản lý, lao
động có tay nghề cao để đáp ứng cho các doanh nghiệp khá phổ biến. Các cơ
quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân thành phố, đặc biệt là các sở: Sở Lao
động Thương binh và Xã hội,Công an, Y tế, Tư Pháp cần phối hợp chặt chẽ
trong việc xây dựng kế hoạch tiếp nhận lao động nước ngoài vào làm việc để
bù đắp sự thiếu hụt lao động có tay nghề cao hiện nay. Bên cạnh đó, phải kiên
quyết không để các doanh nghiệp tự do tuyển chọn lao động phổ thông là
người nước ngoài vào làm việc trên địa bàn thành phố.
1.2.2.2. Tăng cường vai trò nhà nước trong việc nâng cao chất lượng,
số lượng cầu của thị trường sức lao động.
Cung và cầu sức lao động trên thị trường có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Khi chất lượng cầu sức lao động đòi hỏi ở mức độ nào thì kéo theo
cung sức lao động phải biến động cho phù hợp với cầu.
Số doanh nghiệp trên địa bàn Hải Phòng (cầu sức lao động) hiện nay
còn ít, quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé, bình quân mỗi doanh nghiệp khoảng
50 lao động, phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, họat động gia công là chủ
yếu, giá trị gia tăng thấp, khả năng đầu tư phát triển sản xuất, thu hút lao động
hạn chế, tiền lương thấp, điều kiện lao động khó khăn ảnh hưởng đến quan hệ
lao động trong doanh nghiệp.
Như vậy, với số lượng và chất lượng trên đây của các doanh nghịêp
(cầu sức lao động) có thể thấy rằng, chất lượng cầu đòi hỏi không cao. Do đó,
24
Hải Phòng cần tăng cường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh

nghịêp mở rộng sản xuất, tăng quy mô, đặc biệt là áp dụng những thành tựu
khoa học kỹ thuật, công nghệ mới để nâng chất lượng cầu, từ đó kéo theo chất
lượng cung trên thị trường sức lao động.
Tăng cường vai trò nhà nước trong việc nâng cao chất lượng cầu sức
lao động còn đòi thành phố Hải Phòng tăng đầu tư ngân sách cho phát triển
nguồn nhân lực và tạo việc làm cho lao động. Hàng năm, ngân sách thành mới
dành 4 tỷ đồng cho chương trình việc làm là quá ít, chỉ đáp ứng được khoảng
20% nhu cầu về vốn bổ sung để tạo việc làm. Việc quy hoạch phát triển các
khu công nghiệp, khu đô thị mới phải gắn với các giải pháp chuyển đổi nghề,
tái tạo việc làm, tạo việc làm ổn định cho lao động trong khu vực chuyển đổi
mục đích sử dụng đất. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội nói chung của Hải
Phòng, nhất là phát triển các ngành, khu công nghiệp, doanh nghiệp cần đồng
bộ với quy hoạch đào tạo, sử dụng nguồn lao động. Hiện nay, công tác này
mới chú trọng đến đất đai, vốn và công nghệ.
1.2.2.3. Tăng cường vai trò nhà nước đối với việc phát triển hệ thống
thông tin thị trường lao động.
Hiện nay, hệ thống thông tin thị trường sức lao động của cả nước nói
chung, Hải Phòng nói riêng còn yếu kém về mọi mặt. Việc kết nối cung-cầu
sức lao động, tạo cơ hội cho người lao động, đặc biệt là thanh niên tiếp cận
với các dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm, dạy nghề ... còn nhiều hạn chế.
Các trung tâm giới thiệu việc làm còn ít về số lượng, chất lượng họat động
còn kém hiệu quả. Việc thu thập thông tin để xây dựng cơ sở dữ liệu về thị
trường sức lao động của thành phố, thông tin về thị trường sức lao động, tổ
chức sàn giao dịch việc làm chưa làm được. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến
việc phát triển thị trường sức lao động của Hải Phòng. Đây là một nội dung
quan trọng mà Hải Phòng cần phải tăng cường tổ chức triển khai nhằm phát
triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
25

×