1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHẠM VIẾT XUYÊN
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP VÀ ĐỀ XUẤT HƢỚNG SỬ DỤNG
HỢP LÝ TẠI HUYỆN SƠN DƢƠNG –
TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sơn Dƣơng là một huyện miền núi nằm ở phía Nam của tỉnh Tuyên
Quang có diện tích tự nhiên 78.783,51 ha, chiếm 13,43% diện tích tự nhiên
toàn tỉnh (586.732,71 ha). Trong những năm qua Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc huyện Sơn Dƣơng đã phát huy truyền thống quê hƣơng các mạng Tân
Trào, phát huy những tiềm năng lợi thế của địa phƣơng, nỗ lực phấn đấu, tích
cực, thi đua lao động sản xuất, tạo sự chuyển biến rõ rệt trên các lĩnh vực kinh
tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Tuy nhiên việc sử dụng đất của huyện trong
những năm qua cho thấy còn nhiều hạn chế: chƣa khoanh định đƣợc diện tích
đất trồng lúa cần bảo vệ, đối với đất lâm nghiệp chƣa thực hiện nghiêm ngặt
các quy định về bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, việc chuyển đổi cơ cấu
cây trồng vật nuôi theo hƣớng sản xuất hàng hóa còn chậm, phát triển nuôi
trồng thủy sản và các hoạt động dịch vụ, du lịch trên địa bàn chƣa tƣơng xứng
với tiềm năng, lợi thế của địa phƣơng. Bên cạnh đó diện tích đất nông nghiệp
ngày càng bị thu hẹp do phải chuyển mục đích sang các loại đất khác, việc bù
đắp lại diện tích đất trồng lúa bị mất là vô cùng khó khăn.
Vì vậy, việc nghiên cứu để đƣa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp đảm bảo an ninh lƣơng thực và giữ gìn đƣợc bản
sắc của địa phƣơng là một yêu cầu hết sức quan trọng và cần thiết trong thời
gian tới. Xuất phát từ thực tế đó, dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.TS Trần Viết
Khanh, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp và đề xuất hướng sử dụng hợp lý tại huyện Sơn Dương - tỉnh
Tuyên Quang"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá đƣợc thực trạng sử dụng đất nông nghiệp làm căn cứ đề xuất loại
hình sử dụng đất phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội của địa phƣơng nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất trên địa bàn huyện Sơn Dƣơng, tỉnh Tuyên Quang.
3. Yêu cầu của đề tài
- Đề tài nghiên cứu trên cơ sở các thông tin số liệu, tài liệu điều tra phải
trung thực, chính xác đảm bảo độ tin cậy, phản ánh đúng thực trạng sử dụng
đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu.
- Phân tích, xử lý số liệu khoa học, định lƣợng bằng các phƣơng pháp
nghiên cứu phù hợp và cập nhật.
- Các đề xuất phải có ý nghĩa thực tiễn và có tính khả thi cao.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền của huyện Sơn Dƣơng trong việc
quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp. Các khuyến cáo về loại hình sử dụng đất sẽ
cung cấp cho nông dân lựa chọn hợp lý để chuyển đổi cơ cấu sản xuất đạt hiệu
quả cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1 Một số lý luận về sử dụng đất nông nghiệp và tình hình sử dụng đất
nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam.
1.1.1 Một số lý luận về sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1.1 Đất nông nghiệp
Đất là nguồn tài nguyên quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho con
ngƣời, là nơi họ sinh ra, sống và lớn lên. Nhà Thổ nhƣỡng lỗi lạc ngƣời Nga,
Docutraiep cho rằng “Đất là vật thể thiên nhiên cấu tạo độc lập, lâu đời do kết
quả của quá trình hoạt động tổng hợp của 5 yếu tố hình thành bao gồm: đá,
thực vật, động vật, khí hậu, địa hình, thời gian” [4]. Về sau, một số học giả
khác đã bổ sung thêm các yếu tố nhƣ nƣớc ngầm và đặc biệt là vai trò của con
ngƣời để hoàn chỉnh khái niệm nêu trên. Học giả ngƣời Anh, Wiliam lại đƣa
ra khái niệm về đất nhƣ sau: “Đất là lớp mặt tơi xốp của lục địa có khả năng
tạo ra sản phẩm từ cây trồng” [38]. Bàn về vấn đề này, C.Mác đã viết: “Đất là
tƣ liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất của sản xuất nông nghiệp”,
là “điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại và sinh sống của loài ngƣời” [4].
Trong phạm vi nghiên cứu về sử dụng đất, đất đai đƣợc nhìn nhận là một
nhân tố sinh thái, bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề
mặt trái đất có ảnh hƣởng sử dụng đất [36].
Theo quan niệm của các nhà thổ nhƣỡng và quy hoạch Việt Nam cho
rằng “Đất là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc đƣợc”
[4] và đất đai đƣợc hiểu theo nghĩa rộng: “Đất đai là một diện tích cụ thể của
bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các yếu tố cấu thành của môi trƣờng sinh thái
ngay trên và dƣới bề mặt bao gồm: khí hậu, thời tiết, thổ nhƣỡng, địa hình,
mặt nƣớc, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nƣớc ngầm và khoáng sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
trong lũng đất, động thực vật, trạng thái định cƣ của con ngƣời, những kết quả
của con ngƣời trong quá khứ và hiện tại để lại” [4].
Với ý nghĩa đó, đất nông nghiệp là đất đƣợc sử dụng chủ yếu vào sản
xuất của các ngành nông nghiệp nhƣ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản
hoặc sử dụng vào mục đích nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Khi nói đất
nông nghiệp ngƣời ta nói đất sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông
nghiệp, bởi vì thực tế có trƣờng hợp đất đai đƣợc sử dụng vào mục đích khác
nhau của các ngành. Trong trƣờng hợp đó, đất đai đƣợc sử dụng chủ yếu cho
hoạt động sản xuất nông nghiệp mới đƣợc coi là đất nông nghiệp, nếu không sẽ
là các loại đất khác (tùy theo việc sử dụng vào mục đích nào là chính).
Luật đất đai năm 2003 nêu rõ: “Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào
mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp và
nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng, bao gồm
đất sản xuất nông nghiệp, đất sản xuất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản,
đất làm muối và đất nông nghiệp khác”.
1.1.1.2 Vai trò đất nông nghiệp
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên của mỗi quốc gia, đóng vai trò quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài ngƣời, nó là cơ sở tự nhiên, là tiền
đề cho mọi quá trình sản xuất nhƣng vai trò của đất đối với mỗi ngành sản
xuất có tầm quan trọng khác nhau. C.Mác đã nhấn mạnh “Lao động chỉ là cha
của cải vật chất, còn đất là mẹ” [4]. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà
nƣớc thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật” [15], Luật đất
đai 2003 khẳng định “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tƣ
liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trƣờng
sống, là địa bàn phân bố các khu dân cƣ, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá,
xã hội, an ninh và quốc phòng”[19]. Trong sản xuất nông lâm nghiệp, đất đai
là tƣ liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế, với những đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
điểm:
- Đất đai đƣợc coi là tƣ liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông lâm
nghiệp, bởi vì nó vừa là đối tƣợng lao động vừa là tƣ liệu lao động trong quá
trình sản xuất. Đất đai là đối tƣợng bởi lẽ nó là nơi con ngƣời thực hiện các
hoạt động của mình tác động vào cây trồng vật nuôi để tạo ra sản phẩm.
- Đất đai là loại tƣ liệu sản xuất không thể thay thế: bởi vì đất đai là sản
phẩm của tự nhiên, nếu biết sử dụng hợp lý, sức sản xuất của đất đai ngày
càng tăng lên. Điều này đòi hỏi trong quá trình sử dụng đất phải đứng trên
quan điểm bồi dƣỡng, bảo vệ, làm giàu thông qua những hoạt động có ý nghĩa
của con ngƣời.
- Đất đai là tài nguyên bị hạn chế bởi ranh giới đất liền và bề mặt địa
cầu [38]. Đặc điểm này ảnh hƣởng đến khả năng mở rộng quy mô sản xuất
nông - lâm nghiệp và sức ép về lao động và việc làm, do nhu cầu nông sản
ngày càng tăng trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Việc
khai khẩn đất hoang hóa đƣa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp đã làm cho
quĩ đất nông nghiệp tăng lên. Đây là xu hƣớng vận động cần khuyến khích.
Tuy nhiên, đất đƣa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp là đất hoang
hóa, nằm trong quỹ đất chƣa sử dụng. Vì vậy, cần phải đầu tƣ lớn sức ngƣời
và sức của. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, cần phải tính toán kỹ để đầu tƣ
cho công tác này thực sự có hiệu quả.
- Đất đai có vị trí cố định và chất lƣợng không đồng đều giữa các
vùng, các miền [38]. Mỗi vùng đất luôn gắn với các điều kiện tự nhiên (thổ
nhƣỡng, thời tiết, khí hậu, nƣớc,…) điều kiện kinh tế - xã hội (dân số, lao
động, giao thông, thị trƣờng,…) và có chất lƣợng đất khác nhau. Do vậy,
việc sử dụng đất đai phải gắn liền với việc xác định cơ cấu cây trồng, vật
nuôi cho phù hợp để nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở nắm chắc
điều kiện của từng vùng lãnh thổ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Đất đai đƣợc coi là một loại tài sản, ngƣời chủ sử dụng có quyền nhất
định do pháp luật của mỗi nƣớc qui định: tạo thuận lợi cho việc tập trung, tích
tụ và chuyển hƣớng sử dụng đất từ đó phát huy đƣợc hiệu quả nếu biết sử
dụng đầy đủ và hợp lý.
Nhƣ vậy, đất đai là yếu tố hết sức quan trọng và tích cực của quá trình
sản xuất nông nghiệp. Thực tế cho thấy thông qua quá trình phát triển của xã
hội loài ngƣời, sự hình thành và phát triển của mọi nền văn minh vật chất -
văn minh tinh thần, các thành tựu vật chất, văn hoá khoa học đều đƣợc xây
dựng trên nền tảng cơ bản đó là đất và sử dụng đất, đặc biệt là đất nông lâm
nghiệp. Vì vậy, sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả là một trong những điều kiện
quan trọng nhất cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
1.1.1.3 Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
- Đất nông nghiệp phải đƣợc sử dụng đầy đủ, hợp lý. Điều này có
nghĩa là toàn bộ diện tích đất cần đƣợc sử dụng hết vào sản xuất, với việc bố
trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm của từng loại đất nhằm
nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi đồng thời gìn giữ bảo vệ và nâng cao
độ phì của đất.
- Đất nông nghiệp phải đƣợc sử dụng đạt hiệu quả cao. Đây là kết quả
của việc sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai, việc xác định hiệu quả sử dụng đất
thông qua tính toán hàng loạt các chỉ tiêu khác nhau: năng suất cây trồng, chi
phí đầu tƣ, hệ số sử dụng đất, giá cả sản phẩm, tỷ lệ che phủ đất… Muốn nâng
cao hiệu quả sử dụng đất phải thực hiện tốt, đồng bộ các biện pháp kỹ thuật
và chính sách kinh tế - xã hội trên cơ sở đảm bảo an toàn về lƣợng thực, thực
phẩm, tăng cƣờng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nông lâm sản cho
xuất khẩu [11].
- Đất nông nghiệp cần phải đƣợc quản lý và sử dụng một cách bền vững.
Sự bền vững ở đây là sự bền vững cả về số lƣợng và chất lƣơng, có nghĩa là đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
đai phải đƣợc bảo tồn không chỉ đáp ứng đƣợc nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
còn cho thế hệ tƣơng lai. Sự bền vững của đất đai gắn liền với điều kiện sinh
thái, môi trƣờng. Vì vậy, các phƣơng thức sử dụng đất nông lâm nghiệp phải gắn
liền với việc bảo vệ môi trƣờng đất, đáp ứng đƣợc lợi ích trƣớc mắt và lâu dài.
Nhƣ vậy, để sử dụng đất triệt để và có hiệu quả, đảm bảo cho quá trình
sản xuất đƣợc liên tục thì việc tuân thủ những nguyên tắc trên là việc làm cần
thiết và hết sức quan trọng với mỗi quốc gia.
1.1.2 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam
1.1.2.1 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Đất nông nghiệp là yếu tố vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông -
lâm nghiệp. Trên thế giới, mặc dù nền sản xuất nông nghiệp của các nƣớc
phát triển ở trình độ không giống nhau nhƣng tầm quan trọng của nông
nghiệp đối với đời sống con ngƣời thì quốc gia nào cũng phải thừa nhận. Hầu
hết các nƣớc coi sản xuất nông nghiệp là cơ sở của sự phát triển. Tuy nhiên, khi
dân số tăng nhanh thì nhu cầu lƣơng thực, thực phẩm là một sức ép rất lớn. Để
đảm bảo an ninh lƣơng thực, loài ngƣời phải tăng cƣờng khai hoang để có thêm
đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Thêm nữa, đất đai lại bị khai thác triệt
để, không có biện pháp ổn định độ phì nhiêu của đất. Kết quả là, hàng loạt diện
tích đất bị thoái hoá trên phạm vi toàn thế giới. Đất bị mất chất dinh dƣỡng, hữu
cơ do bị xói mòn, nhiễm mặn…Ƣớc tính có tới 15% tổng diện tích đất toàn cầu
bị thoái hoá do nhân tác [24]. Theo P.Buringh, diện tích đất có khả năng nông
nghiệp của thế giới khoảng 3,3 tỷ ha (chiếm 22% tổng diện tích đất liền), trong
đó, đất đang sử dụng khoảng 1,5 tỷ ha . Nhƣ vậy, còn 54% đất có khả năng trồng
trọt chƣa đƣợc khai thác [32].
Đất đai trên thế giới phân bố ở các châu lục không đều. Tuy có diện tích
đất nông nghiệp khá cao so với các Châu lục khác nhƣng Châu Á lại có tỷ lệ
diện tích đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất tự nhiên thấp. Mặt khác,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Châu Á là nơi tập trung phần lớn dân số thế giới, ở đây có các quốc gia dân số
đông nhất nhì thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia. Ở Châu Á, đất đồi
núi chiếm 35% tổng diện tích. Tiềm năng đất trồng trọt nhờ nƣớc trời nói
chung là khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang đƣợc
trồng trọt và khoảng 100 triệu ha chủ yếu nằm trong vùng nhiệt đới ẩm của
Đông Nam Á. Phần lớn diện tích này là đất dốc và chua; khoảng 40-60 triệu
ha trƣớc đây vốn là đất rừng tự nhiên che phủ, nhƣng đến nay do bị khai thác
khốc liệt nên rừng đã bị phá và thảm thực vật đã chuyển thành cây bụi và cỏ dại.
Đất canh tác của thế giới có hạn và đƣợc dự đoán là ngày càng tăng do
khai thác thêm những diện tích đất có khả năng nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu
cầu về lƣơng thực thực phẩm cho loài ngƣời. Tuy nhiên, do dân số ngày một
tăng nhanh nên bình quân diện tích đất canh tác trên đầu ngƣời ngày một giảm.
Đông Nam Á là một khu vực đặc biệt. Từ số liệu của UNDP năm 1995
[14] cho ta thấy đây là một khu vực có dân số khá đông trên thế giới nhƣng diện
tích đất canh tác thấp, trong đó chỉ có Thái Lan là diện tích đất canh tác trên đầu
ngƣời khá nhất, Việt Nam đứng hàng thấp nhất trong số các quốc gia ASEAN.
1.1.2.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam
Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2010, Việt Nam có tổng diện tích tự
nhiên là 33.094.706 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp có 10.118.221 ha,
dân số là 86.927,7 nghìn ngƣời, bình quân diện tích đất sản xuất nông nghiệp
là 1.163,98 m
2
/ ngƣời.
Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhằm thoả mãn nhu cầu cho
xã hội về sản phẩm nông nghiệp đang trở thành vấn đề cáp bách luôn đƣợc
các nhà quản lý và sử dụng đất quan tâm. Thực tế cho thấy, trong những năm
qua do tốc độ công nghiệp hoá cũng nhƣ đô thị hoá diễn ra khá mạnh mẽ ở
nhiều địa phƣơng trên phạm vi cả nƣớc làm cho diện tích đất nông nghiệp ở
Việt Nam có nhiều biến động, theo những tƣ liệu của Tổng cục Thống kê và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng thì biến động về số lƣợng đất nông nghiệp của
nƣớc ta trong những năm gần đây đƣợc thể hiện ở Bảng 1.1.
Bảng 1.1. Biến động về diện tích đất sản xuất nông nghiệp và diện tích
đất trồng cây hàng năm ở Việt Nam
Năm
Tổng diện tích
đất sản xuất
nông nghiệp
(1000 ha)
Tổng diện
tích đất
trồng cây
hàng năm
(1000 ha)
Dân số
(1000
ngƣời)
Bình quân diện
tích đất sản xuât
nông nghiệp
m
2
/ngƣời
2000
12.644,3
10.540,3
77.635
1.628
2005
9.415,6
6.370,0
83.120
1.132
2006
9.436,2
6.348,2
84.156
1.121
2007
9.420,3
6.309,6
85.155
1.106
2010
10.118,2
6.437,3
86.928
1.163
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2010.
Theo Nguyễn Đình Bồng (2002) [2] đất sản xuất nông nghiệp của
chúng ta chỉ chiếm 28,38% diện tích tự nhiên và gần tƣơng đƣơng với diện
tích này là diện tích đất chƣa sử dụng. So với một số nƣớc trên thế giới, nƣớc
ta có tỷ lệ đất nông nghiệp rất thấp. Do vậy, để phát triển một nền nông
nghiệp đủ sức cung cấp lƣơng thực thực phẩm cho toàn dân và có một phần
xuất khẩu cần biết cách khai thác hợp lý đất đai, tiết kiệm và sử dụng đất có
hiệu quả .
1.2 Đánh giá hiệu quả và tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1 Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Thế giới đang sử dụng khoảng 1,5 tỷ ha đất cho sản xuất nông nghiệp.
Tiềm năng đất nông nghiệp của thế giới khoảng 3 - 5 tỷ ha. Nhân loại đã làm
hƣ hại khoảng 1,4 tỷ ha đất và hiện nay mỗi năm có khoảng 6 -7 triệu ha đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
nông nghiệp bị bỏ do xói mòn và thoái hoá. Để giải quyết nhu cầu về sản phẩm
nông nghiệp của con ngƣời phải thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng và
mở rộng diện tích đất nông nghiệp [31]. Việc điều tra, nghiên cứu đất đai để
nắm vững số lƣợng và chất lƣợng đất bao gồm điều tra lập bản đồ đất, đánh giá
hiện trạng sử dụng đất, đánh giá phân hạng đất và quy hoạch sử dụng đất hợp lý
là vấn đề quan trọng mà các quốc gia đang rất quan tâm. Để ngăn chặn những
suy thoái tài nguyên đất đai do sự thiếu hiểu biết của con ngƣời, đồng thời
nhằm hƣớng dẫn những quyết định về sử dụng và quản lý đất đai, sao cho
nguồn tài nguyên này có thể đƣợc khai thác tốt nhất mà vẫn duy trì đƣợc sức
sản xuất của nó trong tƣơng lai, cần thiết phải nghiên cứu thật đầy đủ về tính
hiệu quả trong sử dụng đất, đó là sự kết hợp hài hoà cả 3 lĩnh vực hiệu quả kinh
tế, hiệu quả xã hội và bảo vệ môi trƣờng trên quan điểm quản lý sử dụng đất
bền vững.
1.2.2 Những nhân tố chủ yếu ảnh hƣởng tới việc sử dụng đất nông nghiệp
Việc xác định các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng đất là hết
sức cần thiết, nó giúp cho việc đƣa ra những đánh giá phù hợp với từng loại
vùng đất để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng đất. Các nhân tố ảnh hƣởng có thể chia ra làm 3 nhóm sau đây:
* Điều kiện tự nhiên: Điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố nhƣ đất
đai, khí hậu thời tiết, nƣớc, sinh vật có ảnh hƣởng trực tiếp tới sản xuất
nông nghiệp bởi vì đây là cơ sở để sinh vật sinh trƣởng, phát triển và tạo sinh
khối. Đánh giá đúng điều kiện tự nhiên là cơ sở xác định cây trồng vật nuôi
phù hợp và định hƣớng đầu tƣ thâm canh đúng.
- Đặc điểm lý, hoá tính của đất: trong sản xuất nông lâm nghịêp, thành
phần cơ giới, kết cấu đất, hàm lƣợng các chất hữu cơ và vô cơ trong đất,
quyết định đến chất lƣợng đất và sử dụng đất. Quỹ đất đai nhiều hay ít, tốt
hay xấu, có ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng đất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
- Nguồn nƣớc và chế độ nƣớc: là yếu tố rất cần thiết, nó vừa là điều
kiện quan trọng để cây trồng vận chuyển chất dinh dƣỡng vừa là vật chất giúp
cho sinh vật sinh trƣởng và phát triển.
- Địa hình, độ dốc và thổ nhƣỡng: điều kiện địa hình, độ dốc và thổ
nhƣỡng là yếu tố quyết định lớn đến hiệu quả sản xuất, độ phì đất có ảnh
hƣởng đến sinh trƣởng phát triển và năng suất cây trồng vật nuôi.
- Vị trí địa lý: vị trí địa lý của từng vùng với sự khác biệt về điều kiện
ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nƣớc, gần đƣờng giao thông, khu công nghiệp sẽ
quyết định đến khả năng và hiệu quả sử dụng đất. Vì vậy, trong thực tiễn sử
dụng đất nông lâm nghiệp cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế
sẵn có nhằm đạt đƣợc hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trƣờng.
- Điều kiện khí hậu: các yếu tố khí hậu ảnh hƣởng trực tiếp đến sản
xuất nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con ngƣời. Tổng tích ôn, nhiệt độ
bình quân, sự sai khác nhiệt độ ánh sáng, về thời gian và không gian trực
tiếp ảnh hƣởng tới sự phân bố, sinh trƣởng và phát triển của cây trồng, cây
rừng và thực vật thuỷ sinh, lƣợng mƣa, bốc hơi có ý nghĩa quan trọng trong
việc giữ nhiệt độ, độ ẩm của đất, cũng nhƣ khả năng đảm bảo cung cấp nƣớc
cho sinh trƣởng của cây trồng, gia súc, thuỷ sản [31].
*Biện pháp kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là các tác động của con ngƣời vào đất đai,
cây trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản
xuất để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Theo tác giả Đƣờng
Hồng Dật, (1994) [8] thì biện pháp kỹ thuật canh tác là những tác động thể
hiện sự hiểu biết sâu sắc của con ngƣời về đối tƣợng sản xuất, về thời tiết, về
điều kiện môi trƣờng và thể hiện những dự báo thông minh và sắc sảo. Lựa
chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng đầu vào phù
hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Ở các nƣớc phát triển, khi có tác động tích cực của kỹ thuật, giống mới,
thuỷ lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu đối với tổ chức sử dụng
đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất
cho kinh tế nông nghiệp tăng trƣởng nhanh. Cho đến giữa thế kỷ XXI, trong
nông nghiệp Việt Nam, quy trình kỹ thuật có thể góp phần đến 30% của năng
suất kinh tế [8]. Nhƣ vậy nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp.
* Nhân tố kinh tế - xã hội: bao gồm rất nhiều nhân tố nhƣ chế độ xã
hội, dân số, cơ sở hạ tầng, môi trƣờng chính sách các yếu tố này có ý nghĩa
quyết định, chủ đạo đối với kết quả và hiệu quả sử dụng đất. Sau đây là một
số nhân tố chủ yếu:
- Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp. Trong các yếu tố cơ
sở hạ tầng phục vụ sản xuất thì yếu tố giao thông vận tải là quan trọng nhất,
nó góp phần vào việc trao đổi tiêu thụ sản phẩm cũng nhƣ dịch vụ những yếu
tố đầu vào cho sản xuất. Các yếu tố khác nhƣ thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc,
dịch vụ, nông nghiệp đều có sự ảnh hƣởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng.
Trong đó thuỷ lợi và điện là yếu tố không thể thiếu trong điều kiện sản xuất
hiện nay, giúp cho việc sử dụng đất theo bề rộng và bề sâu. Các yếu tố còn lại
cũng có hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
- Thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm nông lâm sản: là cầu nối giữa ngƣời sản
xuất và tiêu dùng, ở đó ngƣời sản xuất thực hiện việc trao đổi hàng hoá, điều
này giúp cho họ thực hiện đƣợc tốt quá trình tái sản xuất tiếp theo.
- Trình độ kiến thức, khả năng và tập quán sản xuất của chủ sử dụng
đất thể hiện ở khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất, khả năng
về vốn lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất, kinh nghiệm truyền
thống trong sản xuất và cách xử lý thông tin để ra quyết định trong sản xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng đất thì việc nâng cao trình độ và cập
nhật thông tin khoa học, kỹ thuật là hết sức quan trọng.
- Hệ thống chính sách: Chính sách đất đai, chính sách điều chỉnh cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn, chính sách đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất, chính sách khuyến nông, chính sách hỗ trợ giá, chính sách
định canh định cƣ, chính sách dân số, lao động việc làm, đào tạo kiến thức,
chính sách khuyến khích đầu tƣ, chính sách xoá đói giảm nghèo…các chính
sách này đã có những tác động rất lớn đến vấn đề sử dụng đất, phát triển và
hình thành các loại hình sử dụng đất mới.
Trong các nhóm nhân tố chủ yếu tác động đến việc sử dụng đất đƣợc
trình bày ở trên, từ thực tế từng vùng, từng địa phƣơng có thể nhận biết thêm
những nhân tố khác tác động đến hiệu quả sử dụng đất, trong đó có những yếu
tố thuận lợi và những yếu tố hạn chế. Đối với những yếu tố thuận lợi cần khai
thác hết tiềm năng của nó, những nhân tố hạn chế phải có những giải pháp để
khắc phục dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Vấn đề mấu chốt là tìm ra
những nhân tố ảnh hƣởng tới hiệu quả sử dụng đất, để có những biện pháp thay
đổi cơ cấu sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả.
1.2.3 Khái quát về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất
Đánh giá đất cho các vùng sinh thái hoặc các vùng lãnh thổ khác nhau
là nhằm tạo ra một sức sản xuất mới, ổn định, bền vững và hợp lý. Trong đó
đánh giá hiệu quả sử dụng đất là một nội dung hết sức quan trọng. Vậy hiệu
quả sử dụng đất là gì?
Theo các nhà khoa học kinh tế Smuel-Norhuas; “Hiệu quả không có
nghĩa là lãng phí. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải xét đến chi phí cơ hội.
Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng số lƣợng một loại hàng
hoá này mà không cắt giảm số lƣợng một loại hàng hoá khác”. (Dẫn theo Vũ
Phƣơng Thuỵ [25]).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Theo Trung tâm từ điển ngôn ngữ [27], hiệu quả chính là kết quả cũng
nhƣ yêu cầu của việc làm mang lại.
Theo khái niệm trên thì hiệu quả sử dụng đất phải là kết quả của quá
trình sử dụng đất. Trong đó ta quan tâm nhiều tới kết quả hữu ích, một đại
lƣợng vật chất tạo ra do mục đích của con ngƣời, đƣợc biểu hiện bằng những
chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên đất
đai là hữu hạn với nhu cầu ngày càng tăng của con ngƣời mà ta phải xem xét
kết quả sử dụng đất đƣợc tạo ra nhƣ thế nào? Chi phí bỏ ra để tạo ra kết quả
đó là bao nhiêu? Có đƣa lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì thế khi đánh
giá hoạt động sản xuất nông nghiệp không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết
quả mà còn phải đánh giá chất lƣợng các hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm
đó. Đánh giá chất lƣợng của hoạt động sản xuất là nội dung đánh giá hiệu quả.
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu
cây trồng, vật nuôi phù hợp là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của
hầu hết các nƣớc trên thế giới [33]. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các
nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông
nghiệp mà còn là sự mong muốn của nông dân, những ngƣời trực tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào nhu cầu của thị trƣờng, thực hiện đa dạng hoá cây trồng vật
nuôi trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có ƣu thế ở từng địa phƣơng, từ đó
nghiên cứu áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh
tranh cao. Đó là một trong những điều kiện vô cùng quan trọng để phát triển
nền nông nghiệp theo hƣớng sản xuất hàng hoá vừa mang tính ổn định vừa
đảm bảo sự bền vững.
Ngày nay, nhiều nhà khoa học cho rằng: xác định đúng khái niệm, bản
chất hiệu quả sử dụng đất phải xuất phát từ luận điểm triết học của Mác và
những nhận thức lí luận của lí thuyết hệ thống, nghĩa là hiệu quả phải đƣợc xem
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
xét trên 3 mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trƣờng [25].
* Hiệu quả kinh tế:
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là
quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao
động theo các ngành sản xuất khác nhau Theo các nhà khoa học Đức
(Stenien, Hanau, Rusteruyer, Simmerman-1995): Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu
so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức
tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp
phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội [25].
Nhƣ vậy hiệu quả kinh tế đƣợc hiểu là mối tƣơng quan so sánh giữa
lƣợng kết quả đạt đƣợc và lƣợng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Kết quả đạt đƣợc là phần giá trị thu đƣợc của sản phẩm đầu ra, lƣợng
chi phí bỏ ra là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tƣơng quan đó
cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối và tƣơng đối cũng nhƣ xem xét mối quan
hệ chặt chẽ giữa 2 đại lƣợng đó.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt hiệu quả
kinh tế và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá
trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp.
Nếu đạt đƣợc một trong hai yếu tố hiệu quả kỹ thuật và phân bổ thì khi đó sản
xuất mới đạt hiệu quả kinh tế.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: Bản chất của hiệu quả kinh tế
sử dụng đất là: trên một diện tích đất nhất định sản xuất ra một khối lƣợng của
cải vật chất nhiều nhất, với một lƣợng đầu tƣ chi phí về vật chất và lao động
thấp nhất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội. Xuất
phát từ lý do này mà trong quá trình đánh giá đất nông nghiệp cần phải chỉ ra
đƣợc loại hình sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao.
* Hiệu quả xã hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Hiệu quả xã hội là phạm trù có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế
và thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con ngƣời, việc lƣợng hoá các chỉ
tiêu biểu hiện hiệu quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu phản ánh
bằng các chỉ tiêu mang tính định tính nhƣ tạo công ăn việc làm cho lao động,
xoá đói giảm nghèo, định canh, định cƣ, công bằng xã hội, nâng cao mức
sống của toàn dân
Trong sử dụng đất nông nghiệp, hiệu quả về mặt xã hội chủ yếu đƣợc
xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp. Hiện
nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp
là vấn đề đang đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm.
* Hiệu quả môi trƣờng
Hiệu quả môi trƣờng là một vấn đề mang tính toàn cầu, ngày nay đang
đƣợc chú trọng quan tâm và không thể bỏ qua khi đánh giá hiệu quả. Điều này
có ý nghĩa là mọi hoạt động sản xuất, mọi biện pháp khoa học kỹ thuật, mọi
giải pháp về quản lý đƣợc coi là có hiệu quả khi chúng không gây tổn hại
hay có những tác động xấu đến môi trƣờng đất, môi trƣờng nƣớc và môi
trƣờng không khí cũng nhƣ không làm ảnh hƣởng xấu đến môi sinh và đa
dạng sinh học. Có đƣợc điều đó mới đảm bảo cho một sự phát triển bền vững
của mỗi vùng lãnh thổ, mỗi quốc gia cũng nhƣ cả cộng đồng quốc tế.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả môi trƣờng là hiệu quả mang tính
lâu dài, vừa đảm bảo lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hƣởng xấu đến tƣơng
lai, nó gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất và
môi trƣờng sinh thái.
Sử dụng đất hợp lý, hiệu quả cao và bền vững phải quan tâm tới cả ba
hiệu quả trên, trong đó hiệu quả kinh tế là trọng tâm, không có hiệu quả kinh
tế thì không có điều kiện nguồn lực để thực thi hiệu quả xã hội và môi trƣờng,
ngƣợc lại, không có hiệu quả xã hội và môi trƣờng thì hiệu quả kinh tế sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
không bền vững .
1.2.4 Quan điểm và khung đánh giá sử dụng đất bền vững
1.2.4.1 Quan điểm sử dụng đất bền vững.
Đất đai có những tác dụng to lớn đối với hệ sinh thái nói chung và với
cuộc sống của con ngƣời nói riêng. Theo E.R De Kimpe và B.P Warkentin
(1998) [35] thì đất có 5 chức năng chính: một là duy trì vòng tuần hoàn sinh
hoá học và địa hóa học, hai là phân phối nƣớc, ba là dự trữ và phân phối vật
chất, bốn là tính đệm và năm là phân phối năng lƣợng. Những chức năng này
đảm bảo cho khả năng điều chỉnh sự cân bằng của hệ sinh thái tự nhiên trƣớc
những thay đổi. Tuy nhiên, các tác động của con ngƣời đã làm cho hệ sinh
thái biến đổi nhiều khi vƣợt quá khả năng điều chỉnh của đất. Là một hệ sinh
thái một phần do con ngƣời tạo ra nhằm mục đích phục vụ con ngƣời nên hệ
sinh thái nông nghiệp chịu những tác động của con ngƣời mạnh mẽ nhất. Con
ngƣời đã không chỉ tác động vào đất đai mà còn tác động cả vào khí quyển,
nguồn nƣớc để tạo ngày một nhiều hơn lƣơng thực, thực phẩm và hậu quả là
đất đai cũng nhƣ các nhân tố tự nhiên khác bị thay đổi theo chiều hƣớng ngày
một xấu đi. Ngày nay những vùng đất đai màu mỡ đã giảm sức sản xuất một
cách rõ rệt và có nguy cơ thoái hoá nghiêm trọng, không những thế sự suy
thoái đất đai còn kéo theo sự suy giảm nguồn nƣớc, những hiện tƣợng thiên
tai bất thƣờng Trƣớc những biểu hiện nói trên, nhằm đảm bảo cho cuộc sống
của con ngƣời trong hiện tại và tƣơng lai cần phải có những chiến lƣợc về sử
dụng đất để không chỉ duy trì những khả năng hiện có của đất mà còn khôi
phục những khả năng đã mất. Thuật ngữ “sử dụng đất bền vững” ra đời trên
cơ sở của những mong muốn trên. Việc tìm kiếm các giải pháp sử dụng đất
một cách hiệu quả và bền vững luôn là mong muốn của con ngƣời trong suốt
cả thời gian. Nhiều nhà khoa học và các tổ chức quốc tế đã đi sâu nghiên cứu
vấn đề sử dụng đất một cách bền vững trên nhiều vùng của thế giới, trong đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
có Việt Nam. Việc sử dụng đất bền vững là sử dụng đất với tất cả những đặc
trƣng vật lý, hoá học, sinh học có ảnh hƣởng đến khả năng sử dụng đất. Thuật
ngữ đất đai đƣợc đề cập đến ở đây gồm thổ nhƣỡng, địa hình, khí hậu, thuỷ
văn, thực vật và động vật, kể cả vấn đề cải thiện các biện pháp quản lý đất đai.
Tổ chức Nông nghiệp và Lƣơng thực Liên hợp quốc (FAO) sử dụng thuật ngữ
“chất lƣợng đất đai” trong sử dụng đất bền vững bao gồm các nhân tố ảnh
hƣởng đến sự bền vững của tài nguyên đất khi sử dụng cho các mục đích nhất
định, chất lƣợng đất đai có thể khác nhau trên nhiều phƣơng diện nhƣ khả
năng cung cấp nƣớc tƣới, khả năng cung cấp chất dinh dƣỡng cho mục đích
sản xuất nông nghiệp, khả năng chống chịu xói mòn, sức sản xuất tự nhiên và
phân bố địa hình ảnh hƣởng đến khả năng có giới hoá [30]. Để duy trì đƣợc
sự bền vững của đất đai, Smyth A.J và Julian Dumanski (1993) [34] đã xác
định 5 nguyên tắc có liên quan đến sự sử dụng đất bền vững là:
- Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất;
- Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất;
- Bảo vệ tiềm năng của các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự
thoái hoá chất lƣợng đất và nƣớc;
- Khả thi về mặt kinh tế;
- Đƣợc xã hội chấp nhận.
Nhƣ vậy, theo các tác giả, sử dụng đất bền vững không chỉ thuần tuý về
mặt tự nhiên mà còn cả về mặt môi trƣờng, lợi ích kinh tế và xã hội. Năm
nguyên tắc trên đây là trụ cột của việc sử dụng đất bền vững, nếu trong thực
tiễn đạt đƣợc cả 5 nguyên tắc trên thì sự bền vững sẽ thành công, ngƣợc lại sẽ
chỉ đạt đƣợc ở một vài bộ phận hay sự bền vững có điều kiện. Tại Việt Nam,
theo ý kiến của Đào Châu Thu và Nguyễn Khang (1998) [24], việc sử dụng
đất bền vững cũng dựa trên những nguyên tắc trên và đƣợc thể hiện trong 3
yêu cầu sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
- Bền vững về mặt kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao và đƣợc
thị trƣờng chấp nhận;
- Bền vững về mặt môi trƣờng: Loại hình sử dụng đất bảo vệ đƣợc đất
đai, ngăn chặn sự thoái hoá đất, bảo vệ môi trƣờng tự nhiên;
- Bền vững về mặt xã hội: Thu hút đƣợc nhiều lao động, đảm bảo đời
sống ngƣời dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại, hoạt động sản xuất nông nghiệp của con ngƣời diễn ra hết sức
đa dạng trên nhiều vùng đất khác nhau và cũng vì thế khái niệm sử dụng đất
bền vững thể hiện trong nhiều hoạt động sản xuất và quản lý đất đai trên từng
vùng đất xác định theo nhu cầu và mục đích sử dụng của con ngƣời. Đất đai
trong sản xuất nông nghiệp chỉ đƣợc gọi là sử dụng bền vững trên cơ sở duy
trì các chức năng chính của đất là đảm bảo khả năng sản xuất của cây trồng
một cách ổn định, không làm suy giảm về chất lƣợng tài nguyên đất theo thời
gian và việc sử dụng đất không gây ảnh hƣởng xấu đến môi trƣờng sống của
con ngƣời và sinh vật.
1.2.4.2 Khung đánh giá sử dụng đất bền vững
Vào năm 1991, ở Nairobi đã tổ chức Hội thảo về “Khung đánh giá quản
lý đất bền vững ” đã đƣa ra định nghĩa: “ Quản lý bền vững đất đai bao gồm
tổ hợp các công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý
kinh tế xã hội với các quan tâm môi trƣờng để đồng thời:
- Duy trì, nâng cao sản lƣợng (hiệu quả sản xuất);
- Giảm rủi ro sản xuất (an toàn);
- Bảo vệ tiếm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hoá đất và
nƣớc (bảo vệ);
- Có hiệu quả lâu dài (lâu bền);
- Đƣợc xã hội chấp nhận (tính chấp nhận).
Năm nguyên tắc trên đƣợc coi là trụ cột của sử dụng đất đai bền vững
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
và là những mục tiêu cần phải đạt đƣợc, nếu thực tế diễn ra đồng bộ, so với
các mục tiêu cần phải đạt đƣợc. Nếu chỉ đạt một hay một vài mục tiêu mà
không phải tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận.
Vận dụng nguyên tắc trên, ở Việt Nam một loại hình sử dụng đất đƣợc
xem là bền vững phải đạt 3 yêu cầu sau:
- Bền vững về kinh tế: cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, đƣợc thị
trƣờng chấp nhận.
Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức
bình quân vùng có cùng điều kiện đất đai. Năng suất sinh học bao gồm các
sản phẩm chính và phụ (đối với cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả và tàn dƣ để
lại). Một hệ bền vững phải có năng suất trên mức bình quân vùng, nếu không
sẽ không cạnh tranh đƣợc trong cơ chế thị trƣờng.
Về chất lƣợng: sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phƣơng,
trong nƣớc và xuất khẩu, tùy mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thƣớc đo quan trọng nhất
của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một
giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dƣới mức đó
thì nguy cơ ngƣời sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tƣ phải lớn
hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng.
- Bền vững về mặt xã hội: thu hút đƣợc lao động, đảm bảo đời sống và
phát triển xã hội.
Đáp ứng nhu cầu của nông hộ là điều quan tâm trƣớc, nếu muốn họ
quan tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất, môi trƣờng ). Sản phẩm thu đƣợc
cần thoả mãn cái ăn, cái mặc, và nhu cầu sống hàng ngày của ngƣời nông dân.
Nội lực và nguồn lực địa phƣơng phải đƣợc phát huy. Về đất đai, hệ
thống sử dụng đất phải đƣợc tổ chức trên đất mà nông dân có quyền hƣởng
thụ lâu dài, đất đã đƣợc giao và rừng đã đƣợc khoán với lợi ích các bên cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hoá dân tộc và tập
quán địa phƣơng, nếu ngƣợc lại sẽ không đƣợc cộng đồng ủng hộ.
- Bền vững về môi trƣờng: loại hình sử dụng đất phải bảo vệ đƣợc độ
màu mỡ của đất, ngăn chặn thoái hoá đất và bảo vệ môi trƣờng sinh thái. Giữ
đất đƣợc thể hiện bằng giảm thiểu lƣợng đất mất hàng năm dƣới mức cho phép.
Độ phì nhiêu đất tăng dần là yêu cầu bắt buộc đối với quản lý sử dụng
bền vững.
Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngƣỡng an toàn sinh thái (>35%).
Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài (đa canh bền vững hơn
độc canh, cây lâu năm có khả năng bảo vệ đất tốt hơn cây hàng năm ).
Ba yêu cầu bền vững trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử
dụng đất hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá các yêu cầu trên để
giúp cho việc định hƣớng phát triển nông nghiệp ở vùng sinh thái [13].
Tóm lại: khái niệm sử dụng đất đai bền vững do con ngƣời đƣa ra đƣợc
thể hiện trong nhiều hoạt động sử dụng và quản lý đất đai theo các mục đích
mà con ngƣời đã lựa chọn cho từng vùng đất xác định. Đối với sản xuất nông
nghiệp việc sử dụng đất bền vững phải đạt đƣợc trên cơ sở đảm bảo khả năng
sản xuất ổn định của cây trồng, chất lƣợng tài nguyên đất không suy giảm
theo thời gian và việc sử dụng đất không ảnh hƣởng xấu đến môi trƣờng sống
của con ngƣời, của các sinh vật.
1.3 Đánh giá loại hình sử dụng đất theo phƣơng pháp đánh giá đất của
FAO (tổ chức lƣơng thực và nông nghiệp của liên hợp quốc)
* Loại hình sử dụng đất.
Trong đánh giá đất, FAO đã đƣa ra những khái niệm về loại hình sử
dụng đất, đƣa vào nội dụng các bƣớc đánh giá đất và coi loại hình sử dụng đất
là một đối tƣợng dùng trong đánh giá đất.
Loại hình Sử dụng đất (Land Use Types-LUT): Là bức tranh mô tả thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
trạng sử dụng đất của mỗi vùng với những phƣơng thức sản xuất và quản lý sản
xuất trong điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội và kỹ thuật đƣợc xác định [24].
* Nội dung chính của đáng giá các loại hình sử dụng đất.
- Lựa chọn và mô tả các loại hình sử dụng đất hiện tại;
- Đánh giá các loại hình sử dụng đất hiện tại trên ba mặt:
+ Hiệu quả về kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao và đƣợc thị
trƣờng chấp nhận;
+ Hiệu quả về môi trƣờng: Loại hình sử dụng đất bảo vệ đƣợc đất đai,
ngăn chặn sự thoái hoá đất, bảo vệ môi trƣờng tự nhiên;
+ Hiệu quả về xã hội: Thu hút đƣợc nhiều lao động, đảm bảo đời sống
ngƣời dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
- Lựa chọn các loại hình sử dụng đất có triển vọng: Lựa chọn các loại
hình sử dụng đất để có thể duy trì và phát triển trong tƣơng lai cần thoả mãn
các điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Nói chung nếu có
hiệu quả kinh tế cao thì phải đƣợc ngƣời dân chấp nhận và môi trƣờng đất,
nƣớc và không khí không bị suy giảm.
1.4 Những nghiên cứu về nâng cao hiệu quả sử dụng đất trên thế giới và
Việt Nam
1.4.1 Những nghiên cứu trên thế giới
Cho tới nay, trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề ra
nhiều phƣơng pháp đánh giá để tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp theo hƣớng phát triển hàng hoá. Nhƣng tuỳ thuộc vào điều kiện,
trình độ và
phƣơng thức sử dụng đất ở mỗi nƣớc mà có sự đánh giá khác nhau.
Hàng năm các viện nghiên cứu nông nghiệp ở các nƣớc trên thế giới đều
nghiên cứu và đƣa ra đƣợc một số giống cây trồng mới, giúp cho việc tạo ra
đƣợc một số loại hình sử dụng đất mới ngày càng có hiệu quả hơn. Viện lúa
quốc tế IRRI đã có nhiều thành tựu về lĩnh vực giống lúa và hệ thống cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
trồng trên đất canh tác. Tạp chí " Farming Japan" của Nhật Bản ra hàng tháng
đã giới thiệu nhiều công trình ở các nƣớc trên thế giới về các hình thức sử
dụng đất, điển hình là của Nhật. Nhà Khoa học Nhật Bản Otak Tanakad đã
nêu lên những vấn đề cơ bản về sự hình thành của sinh thái đồng ruộng và từ
đó cho rằng yếu tố quyết định của hệ thống nông nghiệp là sự thay đổi về kỹ
thuật, kinh tế- xã hội. Các nhà khoa học Nhật Bản đã hệ thống hoá tiêu chuẩn
hiệu quả sử dụng đất thông qua hệ thống cây trồng trên đất canh tác là sự phối
hợp giữa các cây trồng và gia súc, các phƣơng pháp trồng trọt và chăn nuôi,
cƣờng độ lao động, vốn đầu tƣ, tổ chức sản xuất, sản phẩm làm ra, tính chất
hàng hoá của sản phẩm [27].
Theo kinh nghiệm của Trung Quốc thì việc khai thác và sử dụng đất là
yếu tố quyết định để phát triển kinh tế - xã hội nông thôn toàn diện. Chính phủ
Trung Quốc đã đƣa ra các chính sách quản lý sử dụng đất đai ổn định chế độ
sở hữu, giao đất cho nông dân sử dụng, thiết lập hệ thống trách nhiệm và tính
chủ động sáng tạo của nông dân trong sản xuất đã thúc đẩy kinh tế - xã hội
nông thôn phát triển toàn diện về mọi mặt và nâng cao đƣợc hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp [25].
Ở Thái Lan, Uỷ ban chính sách Quốc gia đã có nhiều nhiều quy chế
mới ngoài hợp đồng cho tƣ nhân thuê đất dài hạn, cấm trồng những cây không
thích hợp với đất nhằm quản lý và bảo vệ đất tốt hơn [37].
Một trong những chính sách tập trung vào hỗ trợ phát triển nông nghiệp
quan trọng nhất là chính sách đầu tƣ vào sản xuất nông nghiệp, ở Mỹ tổng số
tiền trợ cấp là 66,2 tỉ USD (chiếm 28,3% trong tổng thu nhập nông nghiệp),
Canada tƣơng ứng là 5,7 tỉ USD (chiếm 39,1%), Otraylia 1,7 tỉ USD (chiếm
14,5%), Nhật Bản là 42,3 tỉ USD (chiếm 68,9%), Cộng đồng Châu Âu 67,2 tỉ
USD (chiếm 40,1%), Áo là 1,6 tỉ USD (chiếm 35,3%) [25].
Các nhà khoa học trên thế giới đều cho rằng: đối với các vùng nhiệt đới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
có thể thực hiện các công thức luân canh cây trồng hàng năm, có thể chuyển
từ chế độ canh tác cũ sang chế độ canh tác mới tiến bộ hơn mang lại hiệu quả
cao hơn. Nghiên cứu bố trí luân canh các cây trồng hợp lý hơn bằng cách đƣa
các giống cây trồng mới vào hệ thống canh tác nhằm tăng sản lƣợng lƣơng
thực, thực phẩm/1đơn vị diện tích đất canh tác trong một năm. Ở Châu Á có
nhiều nƣớc cũng tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác luân
phiên cây lúa với cây trồng cạn đã thu đƣợc hiệu quả cao hơn.
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của các nƣớc đã
gắn phƣơng thức sử dụng đất truyền thống với phƣơng thức hiện đại và
chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hoá nông nghiệp. Các nƣớc Châu Á
trong quá trình sử dụng đất canh tác đã rất chú trọng đẩy mạnh công tác thuỷ
lợi, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón, các công thức luân
canh tiến bộ để ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Nhƣng
để đạt đƣợc hiệu quả thì một phần phải nhờ vào công nghiệp chế biến, gắn sự
phát triển công nghiệp với bảo vệ môi sinh - môi trƣờng.
Xuất phát từ những vấn đề này, nhiều nƣớc trong khu vực đã có sự
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hƣớng kết hợp hiệu quả kinh tế, hiệu
quả xã hội với việc bảo vệ môi trƣờng tự nhiên, môi trƣờng sinh thái, tiến tới
xây dựng nền nông nghiệp sinh thái bền vững.
1.4.2 Những nghiên cứu trong nƣớc
Trong những năm qua, ở Việt Nam nhiều tác giả đã có những công trình
nghiên cứu về sử dụng đất, vì đây là một vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Các nhà khoa học đã chú trọng đến công
tác lai tạo và chọn lọc giống cây trồng mới cho năng suất cao, chất lƣợng tốt
hơn để đƣa vào sản xuất. Làm phong phú hơn hệ thống cây trồng, góp phần
đáng kể vào việc tăng năng suất cây trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các
công trình nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất đai Việt Nam của Nguyễn Khang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên