Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tiểu luận tính giao thời trong tác phẩm hầu trời của tản đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.95 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN



BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN: VĂN HỌC VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX – 1930

Giáo viên giảng dạy: Phạm Văn Nhu
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Quỳnh Mai
Lớp Văn 2b. MSSV: K36.601.068

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 5 NĂM 2012


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà

MỤC LỤC
Trang

I.DẪN NHẬP
Những năm bản lề giữa hai thế kỷ XIX và XX cũng là những năm bản lề giữa hai thời kỳ
văn học. Trong đời sống văn học, dịng văn học chính thống tiêu biểu cho văn chương
nhà Nho dần bước vào giai đoạn kết thúc. Ở những năm 1900 – 1930 trong văn học Việt
Nam liên tiếp xảy ra nhiều hiện tượng chuyển hóa và đồng thời xuất hiện những sự kiện
văn học có tiếng vang lớn về nghệ thuật, tư tưởng có ý nghĩa cắm mốc báo hiệu sự
chuyển hướng trong văn học. Tuy nhiên đó chỉ là những bước chuyển nhẹ nhàng, là sự
manh nha xong chưa đủ để hình thành nền văn học hiện đại.Nhưng có thể nói đó là giai
đoạn quan trọng có tính chất giao thời, chuẩn bị cho cuộc lột xác trên mọi phương diện
của văn học để hình thành nên giai văn học hiện đại về sau.Và tính giao thời đã trở thành
một đặc trưng góp phần làm nên sự đặc biệt cho cả giai đoạn văn học Việt Nam từ 1900 –


1930.

II.NỘI DUNG LÝ THUYẾT
1. Những tiền đề dẫn tới sự xuất hiện của tính giao thời trong giai đoạn 1900
-1930
1.1- Tình hình chính trị.

Ðầu thế kỉ XX Pháp cơ bản đã thực hiện xong cơng cuộc bình định trên đất nước ta và
chuyển sang khai thác thuộc địa, xây dựng trật tự mới. Đây là những ngày tháng đau
thương, bi đát nhất của lịch sử. Thơn xóm, làng mạc Việt Nam tiêu điều xơ xác do kẻ thù
tàn phá, nhân dân phải xiêu tán lưu lạc khắp nơi. Trong khi đó cột sống của chế độ phong
kiến cũng bị sụp đổ. Hàng ngũ giai cấp thống trị tan rã. Cả bộ máy thống trị của nhà nước
phong kiến từ triều đình đến tỉnh, huyện, làng, xã đều trở thành tay sai cho bọn xâm lược.
Mọi quyền hành đều nằm trong tay Pháp. Tầng lớp trí thức thời phong kiến lúc bấy giờ
cũng lâm vào tình trạng sống dở, chết dở.Trong bối cảnh chính trị phức tạp và đen tối
như thế, thanh niên Việt Nam cảm thấy bi quan tuyệt vọng vô cùng. Họ cũng hết sức
SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 2


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
chán nản lối học cũ, bởi vì ai cũng nhận ra một điều rõ ràng thời cuộc đã không còn ưu ái
họ, những tư tưởng kiến thức xưa đã khơng cịn phù hợp nữa.Họ quyết định bỏ lối học từ
chương, đi tìm đến những tri thức hiện đại mà họ biết được qua sách vở và báo chí nước
ngồi được bí mật đưa vào Việt nam lúc này.
1.2-Tình hình xã hội.

Xã hội nước ta trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến phương Ðơng.Khi có
mặt thực dân Pháp trên đất nước ta thì mọi cái đã thay đổi.Kinh tế hàng hố kích thích sự

phát triển của công thương nghiệp làm cho thành thị phát triển, làm xuất hiện nhiều nhu
cầu mới, phát triển nhiều nghề mới, tầng lớp giai cấp mới.Nhìn chung, xã hội Việt Nam
đầu thế kỉ XX có nhiều biến động. Cơ cấu xã hội thay đổi hồn tồn và điều đó là tất yếu
dẫn tới sự thay đổi của nhiều lĩnh vực khác trong đó có văn học.
1. 3-Tư tưởng, văn hố xã hội lúc bấy giờ
a) Tư tưởng xã hội.

Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến chuyên chế tập
quyền cao độ.Ðến khi có sự hiện diện của thực dân Pháp, tình hình chính trị xã hội đã có
nhiều biến đổi.Ðến đầu thế kỉ XX , giai cấp phong kiến đã tỏ ra bạc nhược, ươn hèn, cúi
đầu làm tay sai cho giặc. Hàng ngũ giai cấp thống trị tan rã hoàn toàn. Ý thức phong kiến
cũng ngày càng thể hiện tính chất lạc hậu, cổ hủ.Với cách nhìn của các nhà Nho tiến bộ
thời này, nó là sức mạnh cản trở sự phát triển của xã hội. Cho nên, các nhà chí sĩ Ðơng
Kinh Nghia Thục đã chủ trương chống lại tư tưởng phục cổ, sùng bái cổ nhân, giáo điều,
có tác hại kìm hãm sự phát triển của trí tuệ. Họ chủ trương làm cho con người phải từ bỏ
tư tưởng sống định mệnh, trở nên can đảm, làm chủ cuộc đời mình, có khả năng hiểu biết
vũ trụ, phất cao ngọn cờ khoa học. Lúc này giai cấp tư sản đã ra đời, tư tưởng tư sản cũng
xuất hiện.Nó được đưa từ nước ngồi vào, thơng qua các sĩ phu tiến bộ. Ý thức tư sản còn
giới hạn trong phạm vi các thành thị và tỏ ra còn nhiều yếu ớt.Tuy nhiên, khi đề cập đến
vấn đề ảnh hưởng của ý thức hệ tư sản Việt Nam đối với sự phát triển của văn học, cũng
cần phải lưu ý rằng: Mặc dù giai cấp tư sản Việt Nam ở giai đoạn này, bản chất là ốm
yếu, phát triển què quặt nhưng đó là sự ốm yếu, què quặt về kinh tế, chính trị, văn hố.
Ðối với cơng cuộc hiện đại hố văn chương Việt Nam, ý thức hệ tư sản đã có một vai trị
xúc tác tích cực.

SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 3



Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
b) Đời sống văn hóa tinh thần.

Nhìn chung, nền văn hoá Việt Nam được thai nghén và trưởng thành trong cái nơi văn
hố Ðơng Nam Á. Tư tưởng phương Ðông đã ăn sâu vào phong tục, tập quán và tâm
khảm của con người. Thế mà đến đầu thế kỉ XX, sự du nhập của văn hoá phương Tây vào
Việt Nam đã làm thay đổi những giá trị cổ truyền của dân tộc. Văn hoá Việt Nam chuyển
dần sang nền văn hoá hiện đại chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây.
Lúc này chữ quốc ngữ đã đi vào đời sống và được sử dụng.Việc đổi mới chữ viết đã
mang nhiều ý nghĩa lớn, nó khơng chỉ tạo điều kiện dễ dàng trong việc học, viết, đọc mà
còn cung cấp phương tiện hiện đại cho nền văn học mới. Trong văn học phổ biến sử
dụng chữ quốc ngữ cũng góp phần thúc đẩy việc xây dựng và phát triển nền văn xuôi
Việt Nam. Ở giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX đã có xuất hiện những sáng tác văn xi bằng
chữ quốc ngữ của Trương Vĩnh Kí và Huỳnh Tịnh Của. Nhưng đây chỉ là những mò
mẫm ban đầu, những thí nghiệm lẻ loi chưa có tính chất phổ biến. Sang đầu thế kỉ XX,
văn xuôi Việt Nam mới thể hiện những tiến bộ rõ rệt. Bên cạnh đó, do có sự tiếp xúc với
văn học phương Tây mà nền văn học Việt Nam giai đoạn này đã xuất hiện thể loại mới.
Chất văn xi, tính cách cá nhân phương Tây còn ảnh hưởng đến cả lĩnh vực sáng tác lâu
đời trong văn học Việt Nam, đặc biệt là thơ. Thơ Tản Ðà, thơ Trần Tuấn Khải…trong
giai đoạn này đã mang những giai điệu mới.
Ðầu thế kỉ XX, công tác dịch thuật, biên khảo, nghiên cứu phê bình văn học bắt đầu phát
triển mạnh theo một chiều hướng tiến bộ đã để lại nhiều cơng trình đáng trân trọng làm
cho văn học Việt Nam tiếp xúc rộng rãi với văn học thế giới, giới thiệu với công chúng
Việt Nam nhiều thể loại mới, làm phong phú vốn từ ngữ và trau dồi câu văn Việt Nam.
Nội dung tư tưởng của văn học giai đoạn này (trừ văn học nô dịch) nổi bật ba xu hướng
là: Xu hướng yêu nước, xu hướng lãng mạn, xu hướng hiện thực. Xu hướng văn học yêu
nước có sự thăng trầm theo diễn biến của các phong trào Cách mạng. Xu hướng hiện thực
mới được manh nha trong giai đoạn này qua một số tác phẩm của Phạm Duy Tốn,
Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh, Vũ Ðình Long... Các tác giả đã phanh phui những xấu
xa của xã hội thực dân nửa phong kiến, phơi bày cảnh khổ của nhân dân.Xu hướng lãng

mạn được khơi nguồn từ các tác phẩm của Ðông Hồ, Tản Ðà, Hoàng Ngọc Phách.
Văn chương hiện thực và lãng mạn giai đoạn này như khúc nhạc dạo đầu chuẩn bị cho
buổi hoà tấu sẽ được diễn ra vào giai đoạn 1930 - 1945. Vào thập niên thứ ba của thế kỷ
đã xuất hiện các sáng tác của Nguyễn Ái Quốc được gởi từ nước ngồi về như: Con rồng
tre, Nhật kí chìm tàu, Bản án chế độthực dân Pháp, Ðường Cách mạng ... Nguyễn Ái
Quốc đã khai sinh cho dòng văn học của giai cấp vô sản của nước ta.
SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 4


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
Sự thay đổi của tình hình đất nước đã kéo theo sự thay đổi của tất cả các lĩnh vực, trong
đó có văn học. Ảnh hưởng của các xu hướng các tư tưởng văn hóa nước ngồi như cơn
gió mát đem tới hơi thở mới cho văn học, để văn học thức tỉnh và có những bước chuyển.
Giai đoạn quá độ để văn học chuyển sang trang mới, trang văn học hiện đại là giai đoạn
dặc biệt của tiến trình văn học hay chúng ta thường gọi là giai đoạn giao thời.
2.Tính giao thời – nét đặc trưng trên tiến trình hiện đại hóa văn học
2.1-Khái niệm về tính giao thời trong văn học.

Nói đến văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX là người ta nghĩ ngay tới tính giao. Theo Trần
Đình Hượu và Lê Trí Dũng nói về tính giao thời trong văn học như sau: “ Văn học của cả
giai đoạn 1900 – 1930 có tính giao thời. Tính giao thời đó được biểu hiện ở sự tồn tại
song song hai nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác, hai công chúng với hai
quan niệm văn học, hai ngôn ngữ văn học ở hai địa bàn khác nhau, ở xu thế thắng lợi của
nền văn học mới đang tiến tới thay thế nền văn học cũ đang suy yếu dần. Ở giai đoạn
giao thời này, nền văn học cũ tuy đã trên đà suy tàn nhưng vẫn giữ một vị trí đáng kể, vẫn
cịn một tác dụng tích cực nhất định trong sự phát triển của văn học dân tộc”.Tóm lại giao
thời là một thời kỳ phức tạp trong lịch sử văn học, thời kỳ đầy thách thức chỉ cho phép
tiến chứ khơng thể lùi.


2.2.Biểu hiện của tính giao thời trong văn học giai đoạn 1900 – 1930.
3.1-Lực lượng sáng tác.

Trong thời kỳ trung đại, nền văn học của ta có sự hiện diện của cả hai lực lượng sáng tác:
Lực lượng nhà nho và lực lượng nơng dân. Mỗi bên có công chúng, đề tài, đời sống,
phương thức truyền đạt riêng, lý tưởng thẩm mĩ và các thể loại thường dùng cũng khác
nhau. Lực lượng sáng tác của văn học viết thời trung đại chủ yếu là nhà Nho, những trí
thức phong kiến. Nhà Nho thời phong kiến có một địa vị đặc biệt trong xã hội.Họ bước
vào đời với hoài bão "phải có danh gì với núi sơng". Họ học thật chăm chỉ để thi đỗ đạt,
mong tìm chút danh phận rồi từ đó đem sức lực cống hiến cho đời (dĩ nhiên đó là những
nhà Nho chân chính) nhưng khi xã hội phong kiến suy vi, nhà Nho lại bất bình chán nản.
Lúc ấy họ tâm đắc với giáo điều của Lão - Trang.Họ thường tìm đến cuộc sống ẩn dật.Có
thể thấy một điều đặc biệt ở nhà Nho là họ thường hay băn khoăn về vấn đề xuất xử và ở
vào những giai đoạn xã hội phong kiến suy vong thì lối sống ẩn dật là lối sống phổ biến
của những nhà Nho có khí tiết. Thời kỳ ẩn dật cũng là thời kỳ nhà Nho sáng tác nhiều
SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 5


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
nhất.Ðầu thế kỷ XX, giai đoạn lịch sử đầy biến động, có sự chi phối mạnh mẽ của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, của văn học phương Tây, lực lượng nhà nho khơng tách rời sự
phân hóa. Có những nhà Nho vì u nước thương dân, khơng cam tâm làm nô lệ đã tiếp
tục đứng lên chống Pháp (Phan Bội Châu, Ngô Ðức Kế, Phan Chu Trinh, Nguyễn
Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng...) họ được tiếp nhận và phát triển luồng tư tưởng cách
mạng từ châu Âu đưa đến. Họ vừa họat động chính trị vừa sáng tác văn chương. Buổi đầu
khi phong trào cách mạng lên cao, các nhà Nho có nhu cầu đưa những vấn đề mới của xã
hội vào văn học nên họ sáng tác say sưa. Bằng những cách tân nghệ thuật họ nhiệt tình

thể hiện những vấn đề mới của xã hội, cuộc sống và con người.Tác phẩm của họ thường
phong phú về số lượng, đa dạng về đề tài và có những tác động mạnh mẽ đối với xã hội,
làm "dậy sóng" phong trào yêu nước lúc bấy giờ.Ý thức hệ phong kiến khơng cịn chi
phối tư tưởng của họ một cách nặng nề như trước nữa.Họ khơng cịn muốn nói đến đạo lý
thánh hiền và cũng chẳng hề gò câu đẽo chữ để tạo sự bóng bẩy cho bài thơ, bài văn. Họ
chỉ hướng đến một mục đích duy nhất : giải phóng đất nước, xây dựng quốc gia hùng
cường.Văn chương của họ lúc này trở về với đặc điểm văn chương ở thế kỷ trước. Nói
chung, lực lượng nhà Nho tiến bộ này tuy đã được tắm gội trong các phong trào cách
mạng tư sản, được hít thở khơng khí hiện đại từ các sách tân thư, tân văn nhưng cái cốt
cách nhà Nho của họ không thể nào biến dạng được.Bên cạnh những nhà Nho cấp tiến
ấy, một số nhà Nho khác "vẫn tự hào về thơ phú, chữ nghĩa đạo lý thánh hiền, vẫn làm
thơ phú". Nhưng xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đang trên con đường tư sản hóa khơng
dành chỗ cho cuộc sống ẩn dật của nhà Nho bất đắc chí cho nên hình tượng người ẩn sĩ
cũng mất dần trong văn học.Vào giai đoạn này có xuất hiện một số trường hợp nhà Nho
rời nông thôn ra thành phố sinh sống bằng nghề viết văn.Sống ở thành thị, giữa những
người dân thành thị dần dần bản thân họ cũng bị thành thị hóa.Họ dùng những thể thức
văn học cũ để gởi gắm những cảm xúc cá nhân, những cảnh vật và khơng khí thành thị.
Họ đã khai thác tất cả những kinh nghiệm sáng tác trong văn học dân gian và các truyện
nôm của các nhà nho tài tử trước kia. Họ là những người có đóng góp đáng kể cho tiến
trình hiện đại hóa văn chương Việt Nam.Ðến đầu thế kỉ XX, nhà Nho khơng cịn là lực
lượng sáng tác chính. Bên cạnh họ đã có xuất hiện một lực lượng sáng tác mới. Ðó là lực
lượng trí thức tân học.Ðây là những người vừa mới được đào tạo từ các trường Pháp Việt.Phần lớn trong số họ bắt đầu từ công việc làm báo, có những nhà cựu học viết bằng
chữ Hán. Dần dần, theo con đường dịch thuật, phỏng tác... họ chuyển từ viết báo sang
viết truyện ngắn, kịch, nhanh chóng đáp ứng được địi hỏi của cơng chúng thành thị. Họ
khác với các nhà Nho cấp tiến, chú trọng đến văn hóa hơn là chính trị. Nhìn chung, họ là
những người mạnh dạn đến với cái mới. Tuy nhiên ở họ không tránh khỏi những dằn dặt,
trăn trở khi chọn cho mình một hướng đi để phù hợp với sự phát triển của thời đại. Họ
đến với cái mới vì ước nguyện dung hịa hai nền văn hóa Âu - Á.
SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai


Trang 6


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
3.2- Quan niệm sáng tác.

Quan niệm sáng tác của văn học trung đại là quan niệm của nhà Nho, chịu ảnh hưởng
nặng nề của tư tưởng Nho giáo, đến giai đoạn này người sáng tác không theo duy nhất
một quan niệm như trước nữa."Văn dĩ tải đạo", "Thi ngôn chí" đó là quan niệm chủ yếu
và phổ biến của nhà Nho trong thời kỳ trung đại.Quan niệm đó vẫn tồn tại trong giai đoạn
1900 - 1930. Phan Bội Châu, một người có nhiều tư tưởng tiến bộ nhưng vẫn vướng víu
với quan niệm cổ hủ này, khi cho rằng sáng tác văn chương là để "lập cơng" "lập chí",
"lập ngôn". Tản Ðà, người đã mạnh dạn cách tân phương pháp sáng tác cũ, tiến hành một
cuộc cách mạng trong nghệ thuật thơ ca nhưng vẫn có tư tưởng phân biệt loại văn "vị
đời" và "văn chơi". Vào giai đoạn này đã xuất hiện quan niệm sáng tác mới, thể hiện ở
nhiều phương diện. Quan niệm văn học phục vụ chính trị , chính vì ý thức được văn học
phục vụ chính trịsáng tác văn chương nhằm tuyên truyền vận động cứu nước đã khiến
nhà văn phải quan tâm đến đối tượng cơng chúng là tồn thể nhân dân, trong đó có cả
quần chúng lao động. Người sáng tác phải tìm mọi cách để lưu truyền phổ biến tác phẩm
của mình. Cho nên văn học khơng cịn tính chất bình kín trong một nhóm người nhỏ hẹp,
mà nó đã được cơng bố rộng rãi bằng nhiều hình thức. Giờ đây người ta tìm cách in ấn và
sử dụng in ấn để xuất bản tác phẩm văn học. Khi đã có xuất bản thì văn chương khơng
cịn là của riêng ai hay của một giai cấp nào, mà được xem là những giá trị văn hóa của
tồn xã hội.Quan niệm về thể loại cũng khác trước, tiểu thuyết và kịch được cơng nhận là
một thể loại văn học, khơng cịn bị khinh rẻ.Nho sĩ ngày trước chuộng thơ, gởi gắm tâm
hồn của mình trong thơ, bộc bạch tâm sự chí khí bằng thơ. Họ nhận thấy văn xi có
nhiều khả năng phản ánh chân thật, cụ thể đa dạng cuộc sống tư sản hóa đầy những cảnh
đời phức tạp, bon chen. Ðối với các nhà Nho, vấn đề mô tả hiện thực cuộc sống không
phải là điều mà họ quan tâm đến.Ngược lại các tư tưởng của nền văn học mới để hết tâm
sức vào vấn đề phản ánh hiện thực. Mặc dù vấn đề phản ánh hiện thực khách quan trong

văn học ở giai đoạn này còn bị chi phối bởi quan niệm đạo đức nhưng vẫn thể hiện được
sự nâng cao vai trò nhận thức của văn học đối với cuộc sống ở họ so với trước. Văn học
trung đại sùng cổ nhân, trọng quá khứ, nhân vật lý tưởng của nó là những trang tài tử giai
nhân hoặc anh hùng cái thế. Nhưng nhân vật của văn học mới là những con người rất
bình thường, bao gồm đủ mọi thành phần trong xã hội. Nói chung nhân vật trong văn học
mới rất đa dạng, vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của văn học phong kiến. Chính thái độ tư
tưởng thẩm mĩ mới của các nhà văn đối với cuộc sống và con người trong giai đoạn này
đã dẫn đến sự hình thành chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn trong giai đoạn sau.
Ðây cũng là một giai đoạn xuất hiện quan niệm mới, xem việc sáng tác văn chương là
một nghề kiếm sống, "nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng" (Tản Ðà).

SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 7


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
Nhìn chung, sự phân hóa trong quan niệm sáng tác "tìm thấy trong tồn bộ đời
sống của nền văn học mới, trong loại tác giả này và loại tác giả khác, tuy cùng thời nhưng
khác nhau về quan điểm tư tưởng - thẩm mĩ, về nguồn gốc xuất thân và học vấn, tài năng,
tuy hai bình diện đối lập nhau của một thể thống nhất của một tác giả" và "đó là một q
trình lâu dài, chồng chéo lên nhau, giằng co, tranh chấp giữa cái cũ và cái mới".
3.3-Phương thức và ngôn ngữ sáng tác.

Văn chương thời trung đại là sản phẩm của những cá nhân riêng lẽ nhưng vẫn mang một
đặc trưng chung, bởi nó được tạo nên bằng một phương pháp sáng tác chung, thể hiện
qua một số yếu tố : ngôn ngữ, thể loại, kết cấu, nhân vật... Ðầu thế kỉ XX, người sáng tác
không còn tuân thủ theo một hệ thống phương pháp sáng tác duy nhất ấy nữa. Hoàn cảnh
khách quan và nhân tố chủ quan đã đẩy người sáng tác đến sự lựa chọn khá gay go và
phức tạp. Bám lấy phương pháp sáng tác cũ hay đi tìm phương pháp sáng tác mới. Tình

hình đó đã tạo ra tình trạng phân hóa khơng thể tránh khỏi trong phương pháp sáng tác.
Một số nhà nho đã chọn con đường cách tân nghệ thuật sáng tác của nhà Nho. Họ vẫn
theo phương pháp sáng tác cũ nhưng có những đổi mới đáng kể. cịn những người thuộc
lực lượng trí thức tân học thì chọn con đường học theo phương Tây để sáng tác. Họ bắt
đầu từ công việc dịch thuật, qua phỏng tác và cuối cùng là sáng tác những tác phẩm văn
học bằng chữ quốc ngữ. Trong lịch sử văn học Việt Nam đây là giai đoạn duy nhất có
hiện tượng đan xen hai yếu tố cũ và mới thể hiện trong sáng tác của một tác giả, có khi
trong cùng một tác phẩm. Hai yếu tố cũ và mới được kết hợp nhuần nhuyễn và phổ biến
trên khắp các thể loại tạo ra những giá trị đặc biệt, không thể xếp vào kho tàng văn học
trung đại, mà cũng chưa thể cơng nhận đó là một tác phẩm của nền văn học hiện đại.

3.4- Đối tượng thưởng thức, tiếp nhận.

Trong văn học trung đại xưa thì lực lượng sáng tác đồng thời cũng là những người
thưởng thức. Nhà nho khi sáng tác không hề nghĩ đến công chúng và cũng không cần
phải có cơng chúng. Người thưởng thức tác phẩm của họ là chính bản thân họ hay người
tri kỷ của họ. Vào đầu thế kỷ XX, lực lượng sáng tác nhà Nho vẫn còn, văn thơ của nhà
Nho vẫn hiện diện trên văn đàn. Công chúng say mê văn chương chữ Hán, chữ Nơm tất
nhiên vẫn cịn. Ðứng trước những đổi thay của thời cuộc, những con người này không
muốn, có thể chưa muốn chạy theo cái mới khi mà trong suy nghĩ của họ vẫn còn quan
niệm rằng những thứ đó do giặc ngoại xâm mang đến, những thứ đó là phi đạo đức, là
trái với thánh hiền. Giữa lúc văn học của nhà Nho và lực lượng công chúng của nền văn
SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 8


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
học đó đang suy yếu dần thì một lực lượng công chúng mới bắt đầu xuất hiện. Công
chúng mới (bao gồm nhiều loại người khác nhau, đang sống trong các đơ thị thời đó, có

các nhà Nho từ nơng thơn ra có những người học vấn Tây học và cả những người không
học vấn) không thấy hấp dẫn trước món ăn tinh thần của nhà Nho. Cuộc sống hiện đại là
cuộc sống sôi động, gấp rút.Văn chương của nhà Nho không phù hợp với cuộc sống hiện
đại.Thế là ở hai địa bàn khác nhau, nông thôn và thành thị có sự hiện hữu của hai loại
cơng chúng khác nhau.Lớp công chúng cũ vẫn trung thành với nền văn chương cũ. Lớp
cơng chúng mới, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, của cuộc sống mới, có nhu
cầu thị hiếu mới, đòi hỏi sự đổi mới của văn học; đặt ra cho người sáng tác nhiệm vụ phải
thay đổi quan niệm sáng tác, phương pháp sáng tác nhằm tạo cho họ những món ăn tinh
thần thú vị hơn, phù hợp với thời đại mới. Hai loại công chúng này mang trạng thái tâm
lý khác nhau, sống trong hai điều kiện khác nhau, lại tồn tại song song trong xã hội thực
dân nửa phong kiến đầu thế kỷ XX.Lớp công chúng mới ngày càng phát triển. Hơn nữa,
khi lớp thanh niên lớn lên, nhiều người đi học chữ Pháp, được đào tạo theo nền giáo dục
mới sẽ quên dần thứ chữ truyền thống của cha ông, văn chương truyền thống cũng trở
thành xa lạ đối với họ. Bởi vì càng ngày người ta càng tỏ ra thích thú say mê nhiều hơn
với những tác phẩm văn học phương Tây. Ðiều muốn nhấn mạnh ở đây là sự tồn tại song
song của hai loại công chúng khác nhau, trong cái thế một bên đã ít nhưng chưa mất hẳn;
một bên dù mới xuất hiện nhưng rất mạnh và có điều kiện để phát triển nhanh.Ðây là hiện
tượng chỉ xảy ra trong văn học giai đoạn giao thời của lịch sử văn học Việt Nam.
3.5Đề tài và cảm hứng sáng tác.

Các sáng tác thời kỳ này triển khai cả hai loại đề tài cũ và mới. Nhiều tác phẩm còn
hướng vào nội dung ca ngợi trung hiếu, tiết nghĩa( Đỉnh núi nhành mai của Nguyễn Tử
Siêu, Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh…). Đề tài yêu nước, kêu gọi đấu tranh rất
phổ biến.Những tác phẩm viết về xã hội với những mặt trái cũng được nói tới nhiều. Bên
cạnh những đề tài quen thuộc ấy, thơ văn giai đoạn này dần đi vào khai thác những khía
cạnh mới như số phận người nông dân, cuộc sống của tầng lớp tư sản thị dân thời kỳ tư
sản hóa, tình u lãng mạn tự do phóng túng( Thơ của Tản Đà, tiểu thuyết Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách)…Hai loại đề tài cũ và mới đã làm nên sự đa dạng cho văn học
đương thời đồng thời cũng làm nên sự chuyển biến mới trong văn học.
4.Tiểu kết.

Vận động để phát triển đó là quy luật tất yếu của xã hội, cũng là của văn học.Cách tân,
đổi mới nhằm đưa văn học phát triển nên tầm cao hơn là một việc cần thiết phải diễn ra
để tạo bệ phóng cho những xu thế văn học hiện đại.
SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 9


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
Bắt nhịp với xu hướng mới đó, nhiều những văn nhân thi sĩ…đã có những cách nhìn
nhận đổi mới trong các sáng tác văn chương của mình để khẳng định củng cố vững chắc
vị trí của mình trên thi đàn văn học. Nổi tiếng trong số những con người có cái nhìn tân
tiến ấy có thể kể tới Tản Đà. Bởi Tản Đà được coi như một ngôi sao sáng nổi bật nhất
trên thi đàn lúc bấy giờ. Thơ ông là gạch nối của hai thời đại thi ca. Ông là người “dạo
bản đàn mở đầu cho một cuộc hịa nhạc tân kì đương sắp sửa ( Hồi Thanh ), “người báo
tin xuân” cho phong trào thơ mới 1932 – 1945. Tìm hiểu các tác phẩm thơ của Tản Đà
chúng ta sẽ thấy rõ những đặc trưng của văn học giai đoạn 1900 – 1930, mà cụ thể rõ
nhất, nổi bật dễ thấy nhất là tính giao thời.

III.TÌM HIỂU TÍNH GIAO THỜI QUA BÀI THƠ “ HẦU TRỜI” CỦA TẢN
ĐÀ
1.Tản Đà một nhà văn của buổi giao thời.
1.1-Vài nét về tiểu sử của nhà thơ.

Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1889 ở làng Khê
Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Quê ông nằm bên bờ sông Đà, chân núi Tản Viên.
Vì vậy ông lấy tên sông ghép với tên núi để làm bút danh là Tản Đà. Ông sinh ra trong
một gia đình có truyền thống khoa bảng.Cha từng làm quan lớn.Mẹ ơng là một cơ đào có
giọng hát ngọt ngào và nhan sắc trời phú.Gia đình ơng là một gia đình nhà Nho tiêu biểu
cho thái độ chính trị lúc bấy giờ. Ngay từ lúc nhỏ Tản Đà đã được tiếp xúc nhiều với tri

thức và sách vở, ông từng ôm mộng theo con đường khoa bảng nhưng không thành. Từ
đó ơng dần chuyển sang làm báo viết văn. Ơng là người đầu tiên ở nước ta sống bằng
nghề viết văn xuất bản.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước, xã hội có nhiều biến đổi nên Tản Đà sớm có nhiều
những nhận thức về thời cuộc để lựa chọn những ngã rẽ cho riêng mình. Ơng có ý tưởng
cải cách xã hội theo con đường hợp pháp và ơng muốn thực hiện điều đó, muốn dùng báo
chí để làm phương tiện. Ơng sống phóng túng, đã từng bầu rượu túi thơ đi dọc khắp đất
nước và cuộc đời ông đã từng nếm đủ mùi vị của cay đắng vinh hạnh. Dù cuộc đời có
những biến động, có nhiều những chặng sóng gió nhưng Tản Đà vẫn giữ được cốt cách
và nhân phẩm trong sạch của một nhà Nho chân chính.
Trên bầu trời văn học Việt Nam, Tản Đà là một ngôi sao lạ thường nằm riêng biệt
không lẫn vào những vì tinh tú khác. Bởi cuộc đời ơng là một tài năng khác thường
nằm trong một số phận khác thường.
SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 10


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
1.2-Sự nghiệp văn chương.

Tản Đà xuất hiện trên văn đàn như một tài năng đa dạng. Ông viết tuồng, bút ký triết học,
văn sách, luận… nhưng nổi bật nhất vẫn là tài năng làm văn và sáng tác thơ. So với văn
học thời đó, tác phẩm của Tản Đà ở thể loại nào cũng mới lạ cả về nội dung, hình thức và
thể loại.Nhưng đáng lưu ý hơn cả là thơ.
Từ năm 1913 Tản Đà bắt đầu viết văn,làm thơ và đến năm 1915 thì ơng bắt đầu cơng
bố tác phẩm trên Đơng Dương tạp chí.Sự nghiệp của Tản Đà khá phong phú và đồ sộ về
khối lượng tác phẩm. Tác phẩm của ơng gồm có cả thơ và văn xi.
a-Thơ.


Có các tập như: Khối tình con I, II, III ( xuất bản lần lượt vào các năm 1916, 1918,
1932 ), Còn chơi (năm 1921), thơ Tản Đà ( 1925).
b-Văn xi.

Văn xi có các tập như: Giấc mộng lớn( 1928 ), Giấc mộng con I, II ( năm 1916,
1932), Tản Đà văn tập ( 1932 )…
Ngoài ra Tản Đà còn chú giải Truyện Kiều, dịch Kinh Thi, thơ Đường, Liêu Trai
chí dị, và soạn một số vở tuồng như Tây Thi, Thiên Thai…
1.3–Vị trí và ảnh hưởng của Tản Đà đối với các thế hệ trong văn học.

Thời đại Tản Đà sống diễn ra bao nhiêu biến động trong sinh hoạt chính trị xã hội cùng
bấy nhiêu biến động trong đời sống văn học. Khía cạnh nổi bật trong những chuyển động
đó là những nỗ lực của nhiều thế hệ để đưa nội dung yêu nước và chủ nghĩa anh hùng dân
tộc vào văn chương, để biến văn chương thành vũ khí cách mạng. Bên cạnh những yêu
cầu cách mạng của thời đại lúc đó thì u cầu cách tân nhằm đổi mới văn học, yêu cầu
hiện đại hóa về nội dung và hình thức cũng được đặt ra như một đòi hỏi khách quan của
lịch sử.Yêu cầu này đã được khởi xướng thực hiện vào những năm 20 khi mà Tản Đà
bước vào sự nghiệp văn chương.Ông đã xuất hiện đúng lúc để đón nhận và giải quyết yêu
cầu này với ý thức tự nguyện và hết mình cho sự nghiệp. Tản Đà là nhà thơ của buổi giao
thời hai thế kỷ, hơn nữa một người góp cơng chủ yếu cho một thời đại mới của thi ca. Vai
trò của Tản Đà là đã nhận sứ mệnh tiên phong đưa văn thơ ra thị trường, chuyển văn học
thành tiếng nói của số đơng, đáp ứng nhu cầu của một lớp độc giả mới trong trí thức và
trong đời sống thành thị. Tản Đà đã làm giàu cho thơ ca dân tộc về mặt nội dung và hình
SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 11


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
thức, chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới. Ông là người phá vỡ cấu trúc của thơ ca truyền

thống để cho nguồn cảm xúc tự do tuôn trào bất chấp cả vần luật âm điệu. Tản Đà là
người khơi nguồn cho khuynh hướng văn học lãng mạn.Nhiều nhà thơ cùng thời với ông
như Trần Tuấn Khải, Đông Hồ…cũng lãng mạn nhưng nghiêng về cảm hứng yêu nước.
Vì vậy so với những người đó Tản Đà có sự nổi bật hơn nhiều vì thơ ơng có sự cách tân
về cả nội dung và hình thức. Điều này đã chứng minh vì sao coi Tản Đà là nhà thơ trung
gian giữa hai thời kỳ văn học. Hơn nữa ông lại là người mở đường cho văn học thời kỳ
mới.Qua đó chúng ta thấy được vị trí quan trọng của Tản Đà hơn bất cứ ai khác.
2. Tính giao thời trong tác phẩm “ Hầu Trời của Tản Đà.
2.1-Tính giao thời thể hiện qua nội dung.

Tản Đà được coi là người nằm vắt mình qua hai thế kỷ, là gạch nối giữa thơ mới và thơ
cũ.Là người đặt nền móng cho thơ mới.Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí của Tản Đà
một cách chính xác nhất trong nền văn học Việt Nam buổi giao thời. Ông là đại diện tiêu
biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước
chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất
nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được
triển khai theo lơgíc một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ
hấp dẫn và có sức thuyết phục : nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm
văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời cùng chư tiên đón tiếp long
trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời
giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn những cách rất độc đáo để
thể hiện tâm sự của mình.Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định
tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể
hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình.Đây là một chủ đề mới mẻ trong
văn học giai đoạn này vì nó thể hiện được ý thức cá nhân tác giả ở trong đó. Tuy nhiên
cách vào đề thì lại quen thuộc vì nó mang dáng dấp của văn học trung đại khi mà nhiều
thi nhân cũng vào mộng để làm thơ.
Đêm qua chẳng biết có hay khơng…
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.
Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun nước

uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất
ngủ.Thế là được lên Trời.Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn
nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái
SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 12


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
hiện câu chuyện hầu Trời.Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về
mình.Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác
phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo : gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng
chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên.
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Che trời nhấp giọng càng tốt hơi
Văn dài hơi tốt ran cung mây.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của
bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra
nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối” (đa dạng về
thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản
thân.
Văn đã giàu thay lại lăm lối
Trời lại phê cho văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít.
Đầm như mưa xa, lạnh như tuyết.
Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tơi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của
mình.Đó là thái độ ngơng của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của
mình.Trong thời đại đất nước đang mất chủ quyền, Tản Đà tự giới thiệu như cịn là biểu
hiện của sự tự hào, tự tơn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ cịn khẳng định cả phong cách
“ngơng”của mình.Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định

nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo
việc Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa
cao quý của văn chương. Điều này chứng tỏ ý thức tiến bộ của tác giả về nghề văn.Cũng
nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Được coi là người đặt nền
móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi
cá nhân sừng sững giữa trang văn mà cịn vì ơng là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra
bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến
cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một khơng khí mới. Dưới hình thức một bài thơ −
câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của
người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm
làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương.Trong sáng tác văn học, không
phải ai cũng thể hiện được cái tơi của mình trên trang viết. Cái tơi gắn liền với cá tính
sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó địi hỏi người viết phải thể hiện được cái riêng
SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 13


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp tích cực cho nền văn học chung.Tản Đà,
nhắc đến thi nhân là nhắc đến "xê dịch, ngông và đa tình”.Ba yếu tố đủ để làm nên một
cái tơi riêng trong làng thơ Việt Nam.Nhưng có lẽ, cái tơi độc đáo của nhà thơ đã thể hiện
trong "Hầu Trời” là một cái tôi ngông rất lạ."Ngông” không phải chỉ định một kiểu ứng
xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngơng ở đây được nói đến là ngơng dựa trên khả năng
mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng
định nó với đời mới là cái ngơng được người đời chấp nhận. Người ngơng tạo cho mình
những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm.Chất ngông
thương được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và cái tình.Với
cái tài đó, họ mang ra phục vụ cho đời nhưng cũng là để "đóng dấu” hình ảnh của mình
với thời gian. Họ có thể ngơng bởi họ có tài, họ có cái để hãnh diện, để thách thức với

cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã là một tính
cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái ngông ấy
trong "Hầu Trời” đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài
năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ "vang cả sơng Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ là ở
chỗ ấy.Chính vì tình u văn chương, ông mới tự tin sáng tác, chuyển tải những tư tưởng
tình cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường như với ơng, hầu Trời là khoảnh khắc đẹp nhất.
Vì thế ơng mới đem cái tài của mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này
quan niệm mới mẻ của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Dù không
biểu hiện trực tiếp nhưng đằng sau các câu chữ ta vẫn thấy có một sự hình dung khác
trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm
sống mới, có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết
sức phức tạp, không dễ chiều. Đặc biệt hơn dương như nhà thơ đã ý thức được sự cần
thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theođuổi nó.
Nhà thơ ý thức về nhân cách, một nhân cách vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc về danh lợi.
Nó đối lập với cái xã hội bất công vụ lợi, chạy theo đồng tiền và danh lợi thời bấy giờ.
Cuối cùng nhà thơ vẫn muốn khẳng định, tự khen thơ mình. Thơ thi nhân chẳng những
đẹp mà còn ẩn chứa những ý niệm cao siêu về cuộc đời, về thiên lương, nhân sinh thế
giới quan… Tóm lại là tất cả những gì nhân loại cần có để vươn đến cái chân- thiện- mỹ.
Thốt ra khỏi quan niệm "thi dĩ ngơn chí” , Tản Đà thực sự thăng hoa trong thế giới nghệ
thuật, bộc lộ cảm xúc cái tự do cá nhân mới mẻ của riêng mình.
Kế thừa nét ngơng của truyền thống, song trong sự ngông của Tản Đà, người ta không
thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối
lại với đời như Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngơng trong việc đi tìm một
phong cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như Nguyễn Tuân. Cái
ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời,
mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhưng có thể thấy
rằng, họ gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ khơng thể "ngơng” được
đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tơi bản ngã của chính mình.Họ làm nên những

SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai


Trang 14


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, khơng thể nào phai trong
lịng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.
2.2-Tính giao thời thể hiện qua hình thức – nghệ thuật.

Bài thơ "Hầu Trời” đã kết tinh cái tôi của Tàn Đà.Nhưng không chỉ trên phương diện nội
dung, những nét độc đáo và mới mẻ cịn làm nên cái tơi trong nghệ thuật.Có lẽ "Hầu
Trời” có vẻ quá dài nhưng chính điều đó lại tạo cho bài thơ giàu yếu tố tự sự. Hơn thế,
ngun tắc tơn trọng dịng chảy tự nhiên,sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ
cho phép nhà thơ thoát khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để tự do vẫy
vùng thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Thể thơ thất ngơn trường thiên được viết một
cách phóng túng, tự do theo cá tính riêng của nhà thơ và khơng bị câu lệ bởi những ràng
buộc của thi pháp văn học trước đó. Bên cạnh đó, "Hầu Trời” cịn đáng chú ý với hiện
tượng chia khổ, các khổ có độ dài khác nhau tạo nên cảm xúc tự do và nét mới trong thơ
văn. Cách thể hiện của Tản Đà đã vượt ra khỏi quy phạm nội dung và nghệ thuật, muốn
phá cách để thể hiện rõ cái tôi của ông.Sáng tạo độc đáo nữa của Tản Đà về mặt nghệ
thuật là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ
ca. Ngơn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xi và ngơn ngữ
bình dân nhưng nhà thơ đã tinh tế hơn khi chọn lọc những từ trau chuốt để thể hiện làm
cho những dịng thơ đầy chất trữ tình nhưng khơng ước lệ. Khơng q gị mình vào vần
luật nên mạch cảm xúc trong thơ của Tản Đà được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá
nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành cơng của bài thơ còn
thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan
niệm của mình. Tác giả khơn khéo chọn tình huống vậy để tạo cớ diễn đạt cho xuôi và tác
giả vừa là người kể đồng thời cũng là nhân vật chính trong câu chuyện của mình. Đó là
một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung

thi sĩ Tản Đàvới phong cách ngơng độc đáo, đó là cái ngơng của một nhà nho tài tử ở thời
kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.
2.3-Tiểu kết

Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là sự dung hòa nhiều yếu tố khác nhau.
Tất cả tạo nên ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngơng và xê
dịch. Cái cũ và mới, xưa và nay đan xen đưa Tàn Đà trở thành người nối kết
hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao sáng với vẻ đẹp rất riêng trên bầu Trời
văn học Việt Nam. Xác định tính giao thời trong sáng tác của Tản Đà mà ở đây
cụ thể là trong bài thơ “Hầu trời” đã giúp chúng ta hiểu sâu hơn về nội dung
và tính chất giao thời của văn học giai đoạn 1900 – 1930.

SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 15


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
IV.KẾT LUẬN
Trong số các thi nhân Việt Nam hiện đại và thuộc tầng lớp tiên phong cắm mốc cho
phong trào thơ mới để lột bỏ cái xác thơ cũ.Tản Đà là nhà thơ diễn tả chính xác nhất tâm
hồn Việt Nam.Ông là người căm mốc cho bước đi của thơ mới ra đời.Ông là người đầu
tiên dám làm thi sĩ và coi văn chương là một nghề trong xã hội.Trong thi nhân Việt Nam
Tản Đà đã được đặt vào một vị trí đặc biệt và xứng đáng.Một nhà thơ đàn anh chứng dám
cho cuộc họp mặt của hội tao đàn lớp sau.Có thi sĩ Tản Đà chúng ta mới thấy một mạch
thơ từ cuối thế kỷ XVIII đến phong trào thơ mới. Thơ Tản Đà thực sự đã thể hiện trọn
vẹn tính chất giao thời về nội dung và nghệ thuật từ thơ ca trung đại đến thơ mới.
Con ngưới sinh ra trong cõi đời này vốn chỉ là hạt cát bụi, hóa kiếp vào đời sống để rồi
cũng trở về vời cát bụi. Được mất ở đời chỉ là hư vô. Tản Đà đến với chúng ta và sống
trọn tình với sơng núi q hương đất nước và trọn tình hết mình với văn chương. Ơng đã

là người của một thời xa xưa mà giờ chỉ còn lại trong lòng người là những vang vọng.
Người ta biết và nhớ tới ông qua những trang thơ như “ Hầu trời” và để qua đó nghĩ về
ơng như một vì tinh tú nằm vắt mình giữa hai giai đoạn văn học, người của buổi giao thời
đáng nhớ.

-------------------------------------------------HẾT-----------------------------------------------------



SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 16


Tính giao thời qua tác phẩm “ Hầu Trời” của Tản Đà
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình văn học Việt Nam 1900 – 1945. NXB Giáo Dục Việt Nam.
Giảng luận về Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu. NXB Văn học Hà Nội năm 2000.
Tuyển tập thơ văn Tăn Đà. NXB Giáo Dục Việt Nam.
Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. NXB Văn học.
Tản Đà thơ và đời của Nguyễn Khắc Xương. NXB Văn học Hà Nội năm 1995.
Phong trào thơ mới lãng mạn 1932 – 1945 của Phan Cự Đệ. NXB KHXH Hà Nội
1982.
7) Thơ Tản Đà – những lời bình của Phạm Xn Thạch. NXB Văn hóa thông tin Hà
Nội năm 2003.
8) Tản Đà – tác gia và tác phẩm của Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Đức Mậu. NXB Giáo
Dục Việt Nam năm 2001.
9) Thơ mới tác phẩm và dư luận của Tuấn Thành và Anh Vũ. NXB Văn học Hà Nội
năm 2002.

10) Tính chất quá độ trong thơ Tản Đà. Luận văn tốt nghiệp của Lê Thị Thúy Hằng
sinh viên trường Đại học sư phạm Tp. HCM
11) Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam. NXB Giáo dục Hà Nội năm 1961.
12) Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời của Trần Đình hượu và Lê Trí Dũng. NXB
Văn học.
1)
2)
3)
4)
5)
6)

SVTH: Trần Thị Quỳnh Mai

Trang 17



×