Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận văn học dân tộc tày qua sáng tác của y phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.74 KB, 19 trang )

1
TIỂU LUẬN
VĂN HỌC CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
Đề tài: Văn học dân tộc Tày qua sáng tác
của Y Phương
Thái Nguyên, tháng 03 năm 2013
MỞ ĐẦU
Việt Nam được biết đến là một quốc gia đông dân đứng thứ 13 trên thế
giới với nhiều thành phần dân tộc như Kinh, Tày, Nùng, Dao, Thái, Mường…
Nói cách khác, đặc điểm dân cư Việt Nam cho thấy sự đa dạng về bản sắc văn
hóa của các dân tộc đã và đang sinh tụ tại đây. Từ buổi đầu dựng nước và giữ
nước, cùng với người Kinh thì đồng bào anh em các dân tộc thiểu số trên khắp
đất nước đã cùng nhau đấu tranh giữ vững nền độc lập mà dấu ấn của quá trình
ấy còn vương lại một cách đậm nét qua những chứng tích văn hóa.
Trong bức tranh thổ cẩm đa màu sắc của các dân tộc thiểu số vùng núi
phía Bắc, người Tày được nhắc đến như một tộc người điển hình về việc đã tạo
dựng cho mình một gương mặt văn hóa thực sự phong phú và rực rỡ trong suốt
2
quá trình hình thành và phát triển. Gương mặt văn hóa ấy được thể hiện đầy đủ
qua các khía cạnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và đương nhiên, văn học
cũng không phải là một yếu tố đứng ngoài.
Với mật độ dân số nhiều hơn so với dân tộc khác, cũng như sự chân
thành, quý mến và giàu tình người mà văn học của dân tộc Tày trở nên gần
gũi và được quan tâm chú trọng hơn. Tiêu biểu và hiện thân cho dòng văn
học này là Y Phương. Ông sinh ra là người con bản xứ, chảy trong mình
những truyền thống mang đậm bản sắc riêng của dân tộc Tày. Y Phương đã
thông qua những sáng tác của mình để thể hiện chất dân tộc gần gũi, thân
thương; thể hiện những truyền thống, văn hóa, và cảm nhận về chính dân tộc
mình. Bên cạnh đó, qua những sáng tác, Y Phương đã bộc lộ được cái tôi rất
riêng. Đó là cái tôi vừa mang đậm chất Tày lại có sự hòa điệu của cái đẹp
thời đại.


Và để hiểu hơn về Y Phương cũng như hiểu hơn về văn học dân tộc
Tày, chúng tôi lựa chọn đề tài “Văn học dân tộc Tày qua sáng tác của Y
Phương”.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN TỘC TÀY
1.1 Đôi nét về dân tộc Tày
Người Tày có số dân đứng thứ 2 ở Việt Nam (sau người Kinh). Họ
sống chủ yếu ở các tỉnh trung du và miền núi như: Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Quảng Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hoàng
Liên Sơn và Sơn La.
Đồng bào Tày thường sống quần tụ thành từng bản. Nhiều bản hợp lại
thành một mường tương đương với một xã. Bản (làng) của người Tày được
xây dựng ở những chân núi hoặc những nơi đất đai bằng phẳng ven sông,
suối, trên các cánh đồng. Nhiều bản có lũy tre xanh bao bọc xung quanh.
3
Tính cộng đồng của bản xưa kia đóng một vai trò quan trọng trong cuộc
sống, đã để lại những thuần phong mỹ tục truyền thống của dân tộc Tày.
Nhà truyền thống của dân tộc Tày là nhà sàn. Nhà sàn là nơi giao lưu,
gặp gỡ, nơi thể hiện những bản sắc dân tộc. Đây cũng là đặc trưng của một
dân tộc ít người.
Bên cạnh nhà sàn thì trang phục truyền thống cũng là một trong
những yếu tố cơ bản để hình thành một bản sắc văn hóa rất riêng: nam cũng
như nữ chủ yếu mặc quần áo màu chàm. Họ mặc quần áo chàm truyền thống
trong lao động sản xuất, trong các dịp lễ hội, cả khi đi chợ và đi thăm hỏi
nhau. Sắc chàm ẩn hiện trong các mối quan hệ, các hoạt động của người dân,
tạo nên nét văn hóa riêng biệt trong tổng thể nền văn hóa chung của dân tộc
Việt Nam. Và hình ảnh thẩm mĩ ấy đã đi vào cả thơ ca, như câu thơ của nhà
thơ Tố Hữu:
“Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

hay một câu thơ mượt mà, đằm thắm khác:
“Áo chàm thấp thoáng, ngập ngừng
Em đi chợ hội, hương rừng bay theo
Tiếng Sli lơ lửng đỉnh đèo
Bóng áo chàm để nắng chiều lâng lâng”.
1.2 Văn học dân tộc Tày
1.2.1 Lịch sử phát triển của văn học dân tộc Tày
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử thì người Tày có mặt ở Việt Nam khá
sớm. Qua tiến trình lịch sử của dân tộc mình, người Tày đã xây dựng được
một nền văn hóa truyền thống đặc sắc, phong phú về thể loại như: thơ, ca,
múa, nhạc, đặc biệt là các làn điệu dân ca như hát lượn, hát then, hát phong
sư,…
4
Bên cạnh những nét văn hóa đó thì văn học cũng phát triển với một
mức độ mau lẹ: tục ngữ, ca dao, truyện nôm, truyện cổ tích chiếm một số
lượng đáng kể. Cùng với đó là sự phát triển của văn học viết đã tạo nên một
nền văn học Tày mang đậm bản sắc dân tộc. Văn học dân tộc Tày vẫn không
ngừng phát triển theo dòng thời gian và bắt đầu từ đầu thế kỷ XX đến nay đã
tạo nên một diện mạo mới – nền văn học hiện đại với một đội ngũ tác giả
đông đảo, số lượng tác phẩm lớn ở tất cả các thể loại văn học : thơ, truyện
ngắn, tiểu thuyết, nghiên cứu – lý luận – phê bình, dịch thuật,… Trong đó,
lĩnh vực thơ ca được coi là một trong những lĩnh vực phát triển rực rỡ nhất,
với các tác giả tiêu biểu như: Nông Quốc Chấn, Ma Trường Nguyên, Y
Phương, Dương Thuấn… Họ tuy sáng tác bằng tiếng Việt nhưng thế giới
tinh thần của họ mang đậm nét riêng của cội nguồn văn hóa Tày đã nuôi
dưỡng, hun đúc tâm hồn của họ. Vì thế tác phẩm của họ không thuần túy chỉ
dành cho dân tộc mình mà rộng hơn là sáng tạo cho các giá trị của đất nước,
của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Chính điều này đã làm cho các tác
phẩm văn học Tày trở thành tài sản chung của nền văn học Việt Nam.
Sau cách mạng tháng Tám, dân tộc Tày từng bước hội nhập vào cuộc

sống chung của cộng đồng các dân tộc anh em và có nhiều biến đổi về vật
chất cũng như tinh thần. Một trong những biểu hiện của sự phát triển đó là
sự có mặt và những đóng góp không thể phủ nhận của các nhà thơ, nhà văn
người dân tộc Tày trong nền văn học của đất nước. Họ đã góp phần quan
trọng trong việc hình thành và phát triển thơ ca Tày hiện đại, tạo nên sự đặc
sắc tiêu biểu của thơ ca Tày trong nền thơ Việt Nam hiện đại ở cả hai
phương diện: nội dung và nghệ thuật
Về nội dung: Đó là tình yêu tha thiết quê hương, đất nước, lòng tự hào
sâu sắc về dân tộc và tự hào về nền văn hóa giàu bản sắc của dân tộc mình
qua những hình ảnh thân thuộc nơi quê hương như: cánh rừng, ngọn núi, con
suối, nương ngô, làng bản, nhà sàn, hay bóng áo chàm thân thương…
Về nghệ thuật: chịu ảnh hưởng sâu sắc truyền thống thơ ca dân gian
và hệ thống thể loại, kế thừa truyền thống thơ ca dân gian về ngôn ngữ và
hình tượng thơ.
1.2.2 Đặc điểm thơ dân tộc Tày
5
Để làm rõ những đặc điểm thơ của một nền văn hóa Tày đậm nét
riêng biệt, chúng tôi tiến hành nghiên cứu và tìm hiểu ở hai khía cạnh nội
dung và nghệ thuật.
1.2.2.1 Đặc điểm nội dung thơ dân tộc Tày
Các nhà thơ đân tộc Tày rất tự hào về quê hương và dân tộc mình. Họ
yêu thương, gắn bó thiết tha với những miền quê tươi đẹp và hung vĩ - nơi
họ đã sinh ra và lớn lên, họ tự hào về một dân tộc giàu truyền thống lịch sử -
văn hóa, đã kiên cường cùng nhau góp sức đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Niềm tự hào yêu thương ấy thấm đượm trên từng trang viết, làm nên
những tác phẩm đặc sắc.
Trong thơ Tày hiện đại có rất nhiều hình tượng biểu trưng cho quê
hương, mà mỗi nhà thơ đi đâu cũng nhớ về. Quê hương thiêng liêng là cánh
rừng, ngọn núi, là dòng sông, là con suối, nương ngô, là làng bản, là áo
Chàm truyền thống. Như bài thơ “Tên làng” của Y Phương:

Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
Có con đường trâu bò đi vàng đen kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn trề
Có tình yêu tan thành tiếng thác
Vang lên trời
Vọng xuống đất
Cái tên làng Hiếu Lễ của con
Hay qua bài “Bản Hon” của Dương Thuấn
“Ở xa trên nẻo cao

Những ngôi nhà sàn bốn mái
Ngói máng lên rêu xanh thẫm
Bên non đón khách xa thăm”
Sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người được thể hiện qua hình ảnh
quê hương hiện lên như những bức tranh tuyệt đẹp, đầy sinh động của miền
núi trong trẻo, tươi vui, được viết bằng tất cả tình cảm tha thiết của nhà thơ.
Cùng với vẻ đẹp của thiên nhiên thì con người trong thơ dân tộc Tày là
những người dân bình dị, hiện lên với những vẻ đẹp tươi tắn trong lao động,
có tình yêu nồng nàn với người mình yêu, với quê hương, với làng bản, họ
6
sống hòa hợp gắn bó với thiên nhiên, với cộng đồng của mình bằng tình yêu
thương và niềm tin chân thành. Chính điều đó đã nuôi dưỡng, hun đúc lòng
tự tôn của mỗi thành viên trong công đồng Tày về dân tộc mình, về chính
bản thân mình. Sự hòa quyện của tình yêu quê hương xứ sở, yêu đồng bào
và yêu chính mình làm cho ý thức cầm bút và thi cảm của các nhà thơ dường
như được nâng lên một tầm vóc mới, tầm vóc mà không phải nhà thơ dân
tộc thiểu số nào cũng đạt được.
Thơ dân tộc Tày còn thể hiện niềm tự hào về một nền văn hóa dân tộc
giàu bản sắc. Trong thơ của các nhà thơ Tày hiện đại luôn ngời lên niềm tự

hào về một dân tộc giàu bản sắc văn hóa. Niềm tự hào ấy thể hiện khi họ
nghĩ, họ viết một cách đầy trân trọng về những phong tục tập quán, những
nét đẹp truyền thống của dân tộc mình. Đó là bức tranh quê hương đẹp như
cổ tích, với lễ hội tưng bừng, với cuộc sống lao động và sinh hoạt ấm áp tươi
vui. Như ở bài thơ “Nước hồ mãi trong xanh” của Nông Thị Ngọc Hòa:
“Áo chàm thơm lại đi hội Lồng tồng
Ngả nghiên uống cạn ánh trăng
Rừng ướt sương mềm lai láng

Vẫn còn mãi đấy thôi
Khung cửi thủa nào em dệt
Câu lượn ngày xưa mẹ hát ”
Các nhà thơ Tày còn gửi vào thơ cả nét đẹp của những phong tục,
những ứng xử văn hóa trong gia đình, mà nhờ đó nề nếp gia phong được gìn
giữ, tập quán tốt lành của dân tộc Tày được vững bền. Như trong bài thơ
“Con dâu nhà sàn” của Dương Thuấn, người con dâu về nhà chồng phải ý tứ
như:
“Không dám đi qua phía trước bàn thờ
Không dám ngồi ở mặt bên bếp lửa
Không dám ăn cơm chung với bố chồng

Học nói, học đi, gìn giữ nếp gia đình”
Không chỉ vậy, đây còn là một dân tộc giàu có về văn hóa vật thể và
phi vật thể. Những câu lượn, câu sli, lời then, lời pựt… luôn là nỗi nhớ, niềm
thương, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ. Chúng không chỉ làm giàu đẹp cho
7
đời sống tinh thần của dân tộc Tày mà còn làm nên hồn vía, cốt cách của dân
tộc.
1.2.2.2 Đặc điểm nghệ thuật thơ dân tộc Tày
Không chỉ đặc sắc về nội dung mà về nghệ thuật, thơ ca dân tộc Tày

cũng đã ghi dấu ấn riêng cho mình. Thơ Tày thời kì hiện đại chịu ảnh hưởng
sâu sắc truyền thống thơ ca dân gian về hệ thống thể loại.
Về thể loại trong thơ Tày, có thể nói thơ 5 chữ, thơ 7 chữ, đặc biệt là
thơ tự do chiếm tỉ lệ áp đảo. Có các tập thơ tiêu biểu như: Tập “Đầu nguồn
mấy trắng” của Mai Liễu; Tập “Thơ Y Phương” của Y Phương… Cùng với
ba tập thơ gần đây nhất của Ma Trường Nguyên đó là: “Câu hát vắt qua vai”,
“ Cây nêu”, “Bắc cầu vồng thăm nhau”…
Thơ Tày hiện đại kế thừa truyền thống thơ ca dân gian về ngôn ngữ và
hình tượng. Về ngôn ngữ thơ: sử dụng những ngôn từ dễ hiểu, gần gũi
nhưng đều mang một nét đẹp thẩm mĩ toát lên được ý nghĩa hàm ẩn của nội
dung. Sử dụng lối nói lặp (điệp): như muốn nhấn mạnh vào ý niệm mà tác
giả gửi gắm. Như ở đoạn thơ của Y Phương:
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
Có con đường trâu bò đi vàng đen kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn trề
Có tình yêu tan thành tiếng thác
(Tên làng)
Thêm vào đó là một số nhà thơ Tày đã sáng tác thơ bằng tiếng Việt
cùng với tiếng mẹ đẻ của mình.
Về hình tượng thơ: hình tượng thơ là yếu tố làm nên chất lượng của
bài thơ, là “điểm sáng”, là kết quả được hình thành trên cơ sở nhà thơ thể
hiện cảm xúc thông qua việc sử dụng kỹ năng sáng tạo riêng của mình. Là
một loại hình tượng đặc thù, hình tượng thơ thể hiện trước hết là ở tính biểu
cảm, nhưng với mỗi dân tộc, tính biểu cảm ấy lại có những nét đặc sắc riêng,
làm cho nó không thể hòa lẫn trong các hình tượng thơ của các dân tộc khác.
Hình tượng thơ dân tộc Tày giàu biểu cảm, nhất là khi họ viết về mẹ,
về người yêu, về ngày chia tay, về nỗi nhớ… với mỗi bài thơ như vậy, chúng
ta có thể cảm nhận được những nét riêng, biểu cảm mà không “sáo”, dễ tiếp
nhận mà không thấy gượng gạo.
8

Những hình ảnh của thi pháp truyền thống đã tác động tích cực vào sự
phát triển của thơ Tày hiện đại. Chúng làm giàu thêm cho hệ thống thể loại,
làm phong phú thêm về ngôn ngữ và hệ thống hình tượng thơ và điều quan
trọng nhất là chúng làm cho bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ ca Tày được
kế thừa và phát triển, góp phần làm nên nét riêng biệt của thơ Tày trong nền
thơ hiện đại Việt Nam.
CHƯƠNG 2: Y PHƯƠNG – HỘI TỤ NÉT ĐẸP CỦA THƠ CA
DÂN TỘC TÀY
2.1 Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Y Phương
2.1.1 Khái quát về cuộc đời của nhà thơ Y Phương
Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày. Ông sinh ngày 24/12/1948, tên khai
sinh là Hứa Vĩnh Sước. Quê quán ở làng Hiếu Lễ, xã Lăng Hiếu, huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Ông sinh ra ở vùng đất nên thơ, trù phú cùng
với một nét văn hóa Tày đặc sắc đã làm lên một hồn thơ tinh tế như Y
Phương.
Từ năm 1993, ông là chủ hội văn học nghệ thuật tỉnh Cao Bằng, ủy
viên ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam khóa IV. Thơ ông thể hiên tâm
hồn chân thật mạnh mẽ, trong sáng, cách tư duy hình ảnh của con người
miền núi. Năm 2004 ông giữ chức phó ban thường trực ban sáng tác, trưởng
ban kiểm tra hội nhà văn Việt Nam; Uỷ ban chấp hành hội nhà văn Việt
Nam khóa XVI. Năm 2007, Y phương được tặng giải thưởng nhà nghiên
cứu về văn học nghệ thuật
9
Cuộc đời của Y Phương dù không cay đắng nhưng cũng nhiều nỗi
muộn phiền. Và những nỗi buồn như ám khói ấy, ám ảnh cả cuộc đời, ám
ảnh cả trong thơ của ông.
Thân sinh của Y Phương là thầy Tào, chữa bệnh cho nhiều người.
Ông cụ có tài sáng tác được các bài văn than (khóc người chết) và có nhiều
khả năng khác. Ước mơ của cậu bé Sước khi ấy là học được phép thuật của
cha, học được những bài thuốc của cha. Để ngày mai lớn lên theo sự nghiệp

của cha làm thầy mo, chữa bệnh… Tuổi thơ của Sước được bao bọc trong
những câu chuyện tưởng như huyền thoại về một người cha đầy bí ẩn của
mình. Suốt tuổi thơ dòng dã người cha cũng chính là người thầy, đã dạy Y
Phương tất cả những gì mà ông có được.
Năm 1972, đơn vị mở cuộc thi báo tường. Chàng lính trẻ Y Phương
tập tành gửi mấy bài thơ tham dự. Lúc đầu, cũng chỉ nghĩ tham gia cho vui,
tham gia với đồng đội lấy không khí… Ai dè, nhóm cán bộ phòng Văn nghệ
Quân đội trong một chuyến công tác, đã “lựa” những bài khá nhất về để in
báo. “Bếp nhà trời”, “Dáng một con sông” được in vào số 6 năm 1973, cùng
đợt với Hải Kỳ, Lâm Thị Hồng Tú, Hữu Thỉnh…
Miền Nam giải phóng. Đất nước thống nhất. Y Phương giải ngũ bắt
đầu thực hiện giấc mơ hồi thơ trẻ của mình: học. Khi ấy, năm 1976, trường
Viết văn Nguyễn Du mới rục rịch chuẩn bị thành lập, Y Phương đành phải
đăng ký học trường Điện ảnh Việt Nam… để chờ đợi. Học hết năm thứ nhất,
trường Nguyễn Du tuyển học viên khoá một, thành ra nhỡ nhàng, Y Phương
vào khoá 2, cùng với Trần Đăng Khoa, Hà Đình Cẩn, Phùng Khắc Bắc,
Đặng Ái, Thanh Kim, Nguyễn Trác, Pờ Sảo Mìn, Phạm Sông Hồng.
Những năm tháng nhọc nhằn, nhớ nhiều thấy buồn nhiều, nhưng nó là những
“nấc thang” để ước mơ “lên trời” của cậu bé Tày trở thành sự thực. Thế
nhưng, khi đã có những cơ hội, khi giấc mơ “trở thành nhà thơ” trở thành sự
thực, rồi lấy vợ, sinh con, rồi rời bỏ mái nhà, con suối, góc núi… để xuống
dưới đồng bằng, thì giấc mơ “về làng cũ” lại trỗi dậy, mạnh mẽ nhất và dai
dẳng nhất.
Cũng chính vì thế, thơ Y Phương, là tiếng nói mạnh mẽ nhất của một
sức sống, một tình yêu. Nhưng, sức sống ấy, tình yêu ấy, nó là của một
người Tày, không thể hoà lẫn với bất kỳ ai, không giống với bất kỳ ai…
2.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Y Phương
10
Bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình khi còn là một chiến sĩ bộ đội
đặc công, sau khi chuyển ngành, ông từng theo học và tốt nghiệp Trường

Sân khấu Điện ảnh Việt Nam và Trường Viết văn Nguyễn Du. Ông ghi dấu
tên mình vào đời sống văn học Việt Nam từ bài thơ Tiếng hát tháng Giêng –
Giải A cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1984. Và cũng từ ấy,
cuộc đời ông gắn với thơ như duyên nghiệp và lẽ sống. Hơn hai mươi năm
qua, ông sáng tác và công bố 6 tập thơ: Tiếng hát tháng Giêng (1986); Lời
chúc (1987); Đàn then (1996); Chín tháng (trường ca, 1998), Thơ Y Phương
(2000); Thất tàng lồm (Ngược gió, song ngữ Tày-Việt, 2006). Ông được trao
tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Y Phương quan niệm: “Văn chương là một việc làm trả ơn những
người sinh thành và nuôi dưỡng mình”. Trên thực tế, ông đã không chỉ làm
được việc trả ơn cho cha mẹ, cho dân tộc đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, mà
bằng tài năng và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, ông đã thực sự
làm rạng danh cho thơ Tày, và góp một giọng điệu lạ cho thơ Việt thế kỷ
XX. Đặt thơ Y Phương trong dòng chảy liên tục của thơ Tày thế kỷ XX,
chúng tôi nhận ra: Nếu như thơ của các thế hệ trước Y Phương như Nông
Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Triều Ân… trên cơ sở kế
thừa sâu sắc truyền thống thi ca Tày đã thực hiện sứ mệnh mang thơ Tày gia
nhập nền thơ Việt Nam hiện đại, thì trong khoảng hai mươi năm qua, thơ Y
Phương đã đưa thơ Tày lên một tầm cao mới, vừa chiếm lĩnh tư duy và thi
pháp thơ hiện đại, vừa làm giàu bản sắc dân tộc.
Cũng như thơ ca ở thời đại mà giá trị của con người được đo bằng sự
cống hiến của anh ta đối với cộng đồng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, thơ Y Phương thấm đẫm tinh thần yêu quê hương, đất nước, yêu
dân tộc mình. Nhưng sự khác biệt so với các nhà thơ thế hệ trước thể hiện rõ
ở cách mà ông thể hiện tinh thần ấy. Nếu thơ Nông Quốc Chấn, Nông Minh
Châu, Nông Viết Toại, Triều Ân… trực tiếp lấy quê hương – đất nước làm
đề tài chủ đạo, họ làm thơ để hát lên những tiếng ca hào sảng về tình yêu
quê hương đất nước, về những đổi thay lớn lao của số phận dân tộc mình, từ
kiếp đói nghèo, nô lệ được làm chủ cuộc đời mình, thì thơ Y Phương trải
rộng trên một hệ thống đề tài: chiến tranh, cuộc sống và con người miền núi,

đô thị, tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi… Ở đề tài nào ông cũng thể hiện
rất thành công.
11
Sự trải nghiệm cuộc sống, bản lĩnh và niềm tin cùng với tài năng và ý
thức nghề nghiệp của nhà thơ đã làm nên trong thơ ông một giọng điệu đa
thanh, vừa đằm thắm chất trữ tình vừa hào hùng chất sử thi, vừa hồn nhiên
chân chất vừa sâu lắng tâm tư. Điều đó là sự khác biệt rõ nét đối với giọng
điệu mạnh mẽ, hào sảng mang đậm chất sử thi, vốn là giọng điệu chủ đạo
thể hiện qua lối kể tả chân thực của các nhà thơ thế hệ trước.
Nhìn lại sự thành công của Y Phương mà đỉnh cao là Giải thưởng Nhà
nước về Văn học nghệ thuật, có lẽ đó là sự kết tinh và toả sáng của một bản
năng thơ thiên phú, một quá trình lao động nghệ thuật mà ở đó thơ như một
lẽ sống, và vốn văn hoá sâu rộng khởi nguồn từ văn hoá Tày đặc sắc. Xã hội
càng hiện đại, nhà thơ dân tộc thiểu số càng làm cho mình giàu có lên bằng
tri thức và bản sắc văn hoá dân tộc, thì càng vững vàng hội nhập mà không
đánh mất mình. Điều đó lý giải vì sao ngay cả ở những năm đầu của thế kỷ
XXI này, trong khi các nhà thơ Tày cùng thế hệ với ông hầu như vẫn giữ lối
nghĩ, lối viết như cách đây vài mươi năm, khó thay đổi, còn lớp trẻ hòa nhập
nhanh với đời sống đương đại nhưng lại có phần nhạt nhòa bản sắc dân tộc,
thì Y Phương vẫn vững vàng trên cả hai phương diện: dân tộc và hiện đại.
Những thành quả sáng tạo của ông đã làm cho thơ Tày bay cao hơn trên bầu
trời thi ca Việt Nam.
2.2 Thơ Tày qua một số sáng tác của Y Phương
Y Phương là một người con của dân tộc Tày, đồng thời ông cũng là
niềm tự hào của dân tộc mình. Ông có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển
thơ ca dân tộc thiểu số. Qua các sáng tác của ông, người đọc có thể thấy
được bản sắc văn hóa Tày nói riêng cũng như con người Tày hiện lên khá rõ
nét, từ đó giúp cho chúng ta hiểu hơn về dân tộc Tày cũng như tài năng của
tác giả.
Với phần triển khai này, chúng tôi dựa vào hai đặc điểm của thơ Tày

là: đặc điểm nội dung và đặc điểm hình thức thông qua những bài thơ của Y
Phương .
2.2.1 Về mặt nội dung
- Thơ Y Phương thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước, yêu dân tộc
mình. Mỗi nhà thơ, khi viết về dân tộc mình đều dành những tình cảm thiêng
liêng, những câu từ trang trọng nhất để bộc lộ tình yêu đối với quê hương.
12
Với Y Phương yêu đất nước trước hết là yêu dân tộc mình, yêu quê hương,
con người mình. Vì vậy cũng như các nhà văn nhà thơ khác ông dành nhiều
tình cảm khi viết về dân tộc mình với chính lời ăn tiếng nói của con người
Tày.
Ông sáng tác với rất nhiều đề tài khác nhau, nhưng tựu chung lại
chúng đều nhằm phản ánh một lòng tự hào, tình yêu dân tộc.
…Cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
Có con đường trâu bò đi vàng đen kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn trề
Có tình yêu tan tành tiếng thác
(Tên làng)
Hình ảnh những bản làng Tày đầm ấm, trù phú với những lớp nhà sàn
quây quần trong thung lũng hoặc trên các sườn đồi… luôn hiện lên trên các
trang thơ, gắn bó với mỗi người, và là nơi chứa đựng một miền kí ức của
những năm tháng sống với cộng đồng người trong bản làng ấy. Nơi đó chất
chứa tình yêu thương của mẹ, sự vất vả lao động của cha, cánh đồng thươm
mùi lúa chín, hình ảnh con trâu quen thuộc gợi tả một phong cảnh thanh
bình, giản dị. Tình yêu mà tác giả thể hiện trong bài thơ mạnh mẽ như tiếng
thác, ồn ào và da diết từ những điều bình dị như thế, xuất phát từ mạch
nguồn dân tộc, thân thiết và tự hào. Tình yêu bắt nguồn từ cái làng nhỏ bé
rồi nhân rộng ra đó là tình yêu quê hương, tình yêu đất nước. Quê hương
thiêng liêng là cánh rừng, ngọn núi, dòng sông, là con suối, nương ngô, làng

bản… và là những người thân thiết với bóng áo chàm cùng với ngôi nhà sàn
thân yêu. Một cộng đồng đang sinh sống, nơi chứa đựng những vui buồn,
nơi tình yêu thương luôn tồn tại. Làm sao có thể diễn tả hết thành lời cho
những điều thiêng liêng ẩn mình trong từng suy nghĩ.
Qua đó những hình ảnh về núi rừng, thung lũng, sông suối… là những
hình ảnh thân thiết, nét dặc trưng của quê hương – nơi người Tày ngàn đời
gửi gắm cuộc sống của mình, những Khau Liêu, sông Hiến, sông Bằng quấn
quýt bên những rừng, len lỏi qua từng câu thơ, gắn bó nơi miền kí ức của
nhà thơ. Sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người đã khiến cho hình ảnh quê
13
hương hiện lên như những bức tranh tuyệt đẹp, được viết bằng tình yêu thiết
tha của nhà thơ:
Hoa cháy đỏ miền rừng Phja Biooc
Dòng Khuổi Slao con gái tắm cùng trăng
Hút thuốc lá Cao Bằng
Mới thấy đất quê mình thơm lâu đến thế
Đất sinh ra em
Đất hiền hòa như mẹ
Đất Hòa An nghe giọng nói mềm sao
Đất Trùng Khánh, giọng miền cao…
(Lên Cao Bằng – Y Phương)
Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đẹp, nhưng bên cạnh đó là cảnh đẹp
thơ mộng của cuộc sống con người núi rừng:
Những cô gái áo chàm
Lơ ngơ đi trên cỏ
Ô hay trời chẳng gió
Áo chàm tung cánh bay
Có lẽ ai đã một lần lên với miền núi vào những dịp hội xuân hay
phiên chợ mới cảm hết cái đẹp trong bức tranh được vẽ bằng bốn câu thơ
này.

Chúng ta chắc hẳn ai cũng đã biết đên bài thơ “Nói với con” của tác
giả Y Phương. Điều mà mỗi chúng ta cảm nhận được đó là tình yêu người
“đồng mình”, yêu quê hương sâu sắc của tác giả:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Người Tày có niềm tin và lòng tự tôn dân tộc trải qua ngàn năm, tạo
nên một tâm thức, một trạng thái sống vững vàng và hài hòa của các thế hệ
người Tày. Niềm tin lớn lao ấy nuôi dưỡng tâm hồn và tài năng thơ của nhà
thơ Y Phương. Chính từ lẽ đó, bằng ngòi bút của mình, ông đã thể hiện một
14
tình yêu quê hương, yêu đất nước, yêu dân tộc của mình mãnh liệt và thiết
tha.
- Thơ Y Phương thể hiện sâu sắc nền văn hóa dân tộc Tày giàu bản
sắc. Mỗi nhà văn nhà thơ khi viết về dân tộc mình đều muốn giới thiệu đến
độc giả bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Y Phương cũng vậy. Ông đã viết
một cách đầy trân trọng về các phong tục tập quán, những nét đẹp truyền
thống của dân tộc trong các sáng tác của mình.
Khi miêu tả âm thanh của tiếng Lượn ông đã miêu tả rất gợi hình, rất
cụ thể giúp cho người đọc hình dung và cảm mến tiếng Lượn ấy:
Tiếng lượn không đi vòng
Tiếng lượn chui vào quả lê ngọt
Làm người ăn cũng xinh
Tiếng lượn làm ngọt quả lê, câu hát, tiếng lượn quê hương được trân
trọng ngợi ca. Đó là một trong những biểu hiện nhận thức cần thiết, thiêng
liêng của dân tộc mình. Tiếng hát ở đây là bài ca của tổ tiên, của núi rừng sứ
sở, là điệu hát của tâm hồn người yêu quê hương. Và Y Phương đã khẳng
định:
Câu hát này thiêng liêng lắm chứ

Hát bây giờ còn để hát mai sau
Những vốn văn hóa ấy không chỉ làm giàu đẹp cho đời sống dân tộc
Tày, mà còn đóng góp vào văn hóa của đất nước.
Một phong tục tốt đẹp của người Tày là vào ngày mùng ba tháng ba
âm lịch, họ rủ nhau về quê cha đất tổ để tảo mộ, tỏ lòng biết ơn. Y Phương
đã có những câu thơ thể hiện nét đẹp này:
Mồng một thắp hương
Khói đi lang thang
Theo gió
Gặp bưởi vàng
Dọc đường làng

Chúng nó nói giọng của ông bà ngoại
15
(Lời ru quê ngoại)
Trong các sáng tác của Y Phương, ta còn biết đến các hình ảnh cây
đàn tính, lễ hội lồng tồng. Tất cả những điều đó cho ta thấy được tinh thần
gìn giữ và phát huy nét văn hóa dân tộc của tác giả. Đồng thời mang đến cho
người đọc cái nhìn dưới góc độ thơ ca về văn hóa dân tộc Tày.
2.2.2 Nghệ thuật trong sáng tác của Y Phương
Bên cạnh những đặc điểm phong phú về nội dung, Y phương tìm đến
những nét đẹp của nghệ thuật. Từ đó ông triển khai, kế thừa và phát triển lên
để ngày một hoàn thiện hơn.
Thứ nhất, Y Phương kế thừa và phát huy truyền thống nghệ thuật thơ
Tày trong thơ của mình. Đó là việc sử dụng ngôn ngữ gần gũi, lối nói, cách
cảm, cách nghĩ, lối ví von, ẩn dụ trong diễn ngôn dân gian của người Tày
được Y Phương phát huy rất hiệu quả. Việc sử dụng ngôn ngữ dân gian,
mượn sự vật, hiện tượng để nói về con người đã khiến cho các sáng tác của
ông mang nét ý nhị và cuốn hút:
Em là mực trong ngòi

Là cơm trong nồi
Là gà gáy
Cũng là quả ớt
Những gì anh có được
Đều bắt đầu từ em
(Em – cơn mưa rào – ngọn lửa)
Hay
Ngày xuống núi
Mây vướng chân
Lá trúc non cánh ong
Tiếng lượn đi vòng
Rồi chui vào quả lê ngọt
Làm người ăn cũng xinh
Núi như trăm con rùng mình
16
Núi như bạc ào ào chảy
(Người vùng cao)
Với những hình tượng thơ giàu biểu cảm, gần gũi xuất hiện rất nhiều
trong các sáng tác của Y Phương. Với mỗi bài thơ như thế ta có thể cảm
nhận được những nét riêng của vấn đề được nói tới mà dễ tiếp nhận, không
gượng gạo. Chỉ một câu chuyện “đi tìm” thôi mà chàng trai Tày lại được tác
giả viết rất độc đáo:
Nhà em tận miền đông
Nhà anh mãi miền tây
Từ anh sang em
Đi hỏng đôi giày
Anh đi quên vung tay
Cởi áo vắt vai
Phăm phăm bước
Mặt trời cũng một mình

Đi tìm
Mặt trăng
(Đi tìm)
Chỉ một ví dụ nhỏ thôi ta cũng thấy được rằng, sáng tác của Y Phương
thường mang tính hình tượng vô cùng độc đáo. Bên cạnh đó việc khai thác
thơ ca dân gian cũng làm cho hệ thống các hình tượng trong thơ ông trở nên
phong phú. Như bài thơ “Mùa hoa” của Y Phương lấy ý từ câu ca dao Tày
Bươn hả, bươn mẻ nhình bec loong khửn phja
Bươn hả, bươn chài ỉ pha nủng khóa
Dịch:
Tháng năm, tháng đàn bà vác lóng (cái máng đập lúa)lên núi đá
Tháng năm, tháng đàn ông dựa vách mặc quần
Nó tương ứng với câu thơ của Y Phương:
Mùa hoa – Mùa đàn bà…Mùa hoa – Mùa đàn ông
17
Bài ca dao chẳng nói tới mùa xuân, mà nói tới tháng năm, đó là mùa
cấy của người tày. Lượn Tày có câu:
Mùng năm tháng năm cấy đồng
Cấy xuống bằng sợi chỉ
Mọc to bằng cái nơm
Nói rộng ra đó là mùa gieo hạt giống. Ở đây có một sự liên tưởng nào
đó tới mùa hoa của đàn ông và đàn bà. Như vậy là tên bài “Mùa hoa” của Y
Phương dùng rất đắt, phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc Tày.
Thứ 2, về mặt thể loại, Y Phương sử dụng rất linh hoạt. Trong tập
“Thơ Y Phương” cả tập gồm 112 bài và một trường ca, trong đó thơ tự do có
102 bài và một trường ca, thơ 7 chữ có 1 bài, thơ câu 8 chữ lẫn 7 chữ có 2
bài, thơ 5 chữ có 4 bài, thơ lục bát biến thể có 3 bài.
Đây chỉ là một tập thơ trong số rất nhiều tập thơ của ông, nhưng qua
đó ta cũng nhận thấy rằng Y Phương sử dụng rất linh hoạt và khéo léo các
thể loại cho thấy tài năng và khả năng sáng tạo của ông, một con người Tày

đáng mến.
Từ những tác phẩm của Y Phương người đọc dễ dàng nhận thấy bản
sắc dân tộc Tày cũng như tình yêu quê hương đất nước, yêu con người dân
tộc mình của tác giả. Đó là tình yêu thiêng liêng, cao đẹp và có sức lan tỏa
tới độc giả, giúp cho người đọc có cái nhìn mới mẻ và toàn diện và con
người và văn hóa Tày. Bên cạnh đó thông qua việc tác giả sử dụng ngôn ngữ
dân tộc mộc mạc, giản dị, hình tượng độc đáo, giàu sức gợi và hệ thống các
thể loại vào tác phẩm đã chứng minh một Y Phương tài năng, xứng đáng là
cây bút lớn của văn học dân tộc Tày.
18
KẾT LUẬN
Văn hóa là nét đẹp về cả vật chất và tinh thần. Song sự đa dạng và
phong phú gây được ấn tượng mạnh mẽ nhất đối với con người đó là lĩnh
vực tâm hồn, là trái tim loạn nhịp. Trước một cái đẹp, một cảnh tượng thiên
nhiên… trái tim người ta có thể rung động lên để cảm nhận và để thưởng
thức.
Văn học cũng vây. Văn học được viết lên bằng những xúc cảm chân
thành của nhà văn, nhà thơ. Những gì họ trải qua đã để lại ấn tượng trong
lòng và họ mượn thơ ca để giãi bày, bộc bạch, tâm sự.
Dân tộc Tày dù là một dân tộc thiểu số nhưng bởi văn hóa đặc sắc của
họ rất đậm nét, họ có phong tục riêng, có tín ngưỡng riêng và có ngôn ngữ
riêng. Đó là những đặc điểm thuận lợi để cho nền văn học Tày phát triển
mạnh mẽ với một số nhà thơ tiêu biểu như Nông Quốc Chấn, Mai Liễu,
19
Dương Thuấn, Mai Trường Nguyên… và ta không thể không nhắc đến Y
Phương – một nhà thơ tiêu biểu, đại diện cho thơ ca dân tộc Tày.
Với sự tìm hiểu về tác giả Y Phương, ta thấy được sự kế thừa cũng
như sự phát triển trong sáng tác của Y Phương đã làm nên sự cảm nhận sâu
lắng về bản sắc dân tộc Tày. Qua Y Phương ta thấy được bóng dáng của đất
nước ngọt ngào, ta hiểu được nghĩa tình quê hương, nét đẹp của những con

người chất phác, thật thà với bộ áo chàm, với ngôi nhà sàn, nương ngô bụi
sắn…. tất cả bấy nhiêu những hình ảnh quen thuộc, gắn bó với đời sống của
người dân cần lao. Và Y Phương đã đặt một dấu vàng cho nền văn học của
dân tộc thiểu số nói chung và văn học Tày nói riêng.

×