Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Độc cước liên thanh nhiệt giải độc ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.67 KB, 5 trang )

Độc cước liên thanh nhiệt giải độc
Độc cước liên còn có tên gọi là Thất diệp chi mai,
Thất diệp nhất chi hoa (cây bảy lá một hoa), Thiết
đăng đài, Chi hoa đầu, Tảo hưu, Thảo hà xa,
Trọng lâu, Thất tử liên, Đăng đài thất, Tảo hưu ,
có tên khoa học là Paris polyphilla sm. và một số
loài khác thuộc chi Paris, họ hành (Liliaceae).

Cây mọc hoang ở những vực khe ẩm tối, hay mọc rải
rác dưới tán rừng ẩm trên núi đất hoặc đá vôi ở độ
cao vài trăm mét đến trên 1.500m miền Tây Trung
Quốc và dãy núi Hymalaya. Ở nước ta, cây thuốc này
mới được tìm thấy ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà
Giang vào năm 1995, trên độ cao 1.650m và đã được
xếp vào sách Đỏ Việt Nam. Cây cũng mọc gần suối ở
độ cao trên 600m. Gặp nhiều ở Lào Cai (Sapa), Ninh
Bình (Cúc Phương), Thái Nguyên (Ðại Từ), Lạng
Sơn, Hoà Bình, Hà Bắc.
Là cây thảo sống nhiều năm, cao 30-100cm, thường
có 5-8 lá ở 2/3 trên. Lá có phiến hình trái xoan ngược
dài 7-17 cm, rộng 2,5-5cm hay hơn, gốc tròn, chóp có
mũi; cuống lá 5-6cm. Hoa mọc đơn độc ở ngọn thân
trên một trục cao 70-80 cm. Lá đài màu xanh nom
như lá; cánh hoa dạng sợi dài bằng đài, màu vàng.
Quả mọng, cao 3cm, hạt to màu vàng. Ra hoa tháng
3-7, quả tháng 8-12.
Dược liệu là thân rễ (Rhizoma Paridis Chinensis).
Thu hái rễ quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa thu
đông, rửa sạch phơi khô.
Đông y cho rằng, Đôc cước liên có vị đắng cay, tính
lạnh, quy vào kinh can, có công dụng thanh nhiệt giải


độc, xổ hạ, bình suyễn chỉ khái (làm hết hen suyễn và
giảm ho), tức phong định kính (chống co giật), tiêu
thũng chỉ thống (làm hết sưng nề và giảm đau),
thường được dùng để chữa các chứng bệnh như ung
thũng, đinh độc (nhọt độc), lao lịch (lao hạch), hầu tý
(viêm amydal), viêm khí phế quản cấp và mạn tính,
trẻ em sốt cao co giật, rắn độc cắn, viêm da thần kinh,
quai bị, thoát thư (viêm tắc động tĩnh mạch) Liều
dùng: Dùng thân rễ sắc uống mỗi ngày từ 4 - 12g,
dùng ngoài không kể liều lượng. Tuy nhiên cần lưu ý
cây có độc nên khi sử dụng phải thận trọng.
Người ta cũng đã phân tích thành phần hoá học của
cây độc cước liên thấy có Saponin (diosgenin,
pennogenin)…
Các kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, độc cước
liên có công năng thanh nhiệt giải độc, tiêu sưng
viêm. Cụ thể có tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều
loại vi khuẩn như trực khuẩn lỵ, tụ cầu khuẩn, trực
khuẩn coli, liên cầu khuẩn, trực khuẩn mủ xanh ;
kháng virut cúm; làm giãn phế quản, chống co thắt,
trừ đờm và giảm ho; trấn tĩnh giảm đau; chống viêm
và cầm máu; làm giảm mỡ máu; nâng cao năng lực
hoạt động của tuyến vỏ thượng thận và đặc biệt là có
tác dụng ức chế trực tiếp sự phát triển của tế bào ung
thư. Nhiều nghiên cứu của các tác giả Trung Quốc
cho thấy, dịch chiết thất diệp nhất chi hoa đã góp
phần kéo dài thời gian sống của những bệnh nhân bị
ung thư dạ dày và ung thư phổi.
Thực tế trị liệu bệnh chứng người ta không sử dụng
đơn độc cây độc cước liên mà còn phải phối hợp với

các vị khác mới công hiệu. Sách “cây thuốc và động
vật làm thuốc Việt Nam” có đoạn viết: “Chữa hen
suyễn và ung thư phổi bằng than rễ cây độc cước liên
với liều lượng từ 4 – 20g” nhưng có nhấn mạnh cần
phải phối hợp nó với các vị thuốc khác nữa. Còn tự
bản thân cây độc cước liên không thể làm nên sự diệu
kỳ, ngay cả sự phối hợp cũng chỉ mang tính chất điều
trị sơ khởi, là ghi nhận bước đầu mà thôi.
Cho đến nay chưa thấy có công trình nghiên cứu
khoa học nào cơ bản có giá trị về khả năng cây độc
cước liên chữa dứt được chứng ung thư. Vì vậy mong
rằng đừng vội tin vào sự đồn đoán mà thậm chí có
người đã bỏ qua cả phác đồ trị liệu ung thư của bác
sỹ là sai lầm nghiêm trọng.

×