Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vài điều về DÂU DA (Giâu Gia) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.26 KB, 7 trang )

Vài điều về DÂU DA (Giâu Gia)

Cây Dâu da hay Giâu gia là một cây cho trái ăn khá ngon nhưng
tương đối chưa được phổ biến rộng rãi lắm tại Việt Nam. Cây được FAO
xem là một số tiềm năng kinh tế tại một số quốc gia Đông Nam Á như Thái
lan, Miến điện
Tại Việt Nam, cách viết tên Dâu da vẫn chưa được mọi người đồng ý,
có nhiều tác giả viết là Dâu gia, Giâu gia, Giâu da Ngoài ra tên Dâu da còn
được gọi 2 cây khác hẳn nhau: Dâu da xoan (dành cho Allospondias
lakonensis thuộc họ Anacardiaceae) và Dâu da đất = Baccaurea ramiflora
thuộc họ Euphorbiaceae
Ngay tên Giâu gia xoan cũng có sự khác biệt giữa các nhà chuyên về
thực vật : Theo GS Phạm Hoàng Hộ, trong 'Cây có vị thuốc tại Việt Nam'
Dâu gia xoan là Clausena excavata thuộc họ Rutaceae (?)
Bài này xin trình bày riêng về Cây Dâu da đất, thường gặp tại Nam
Việt Nam, đặc biệt là tại Lái Thiêu, Búng
Trong tập sách 'Giá trị dinh dưỡng của Trái cây', chúng tôi có trình
bầy về trái Bòn bon, một trái cây khác hẳn Giâu gia (một số bài trên các
website đã nhầm lẫn khi cho hai cây là một). Bên cạnh đó còn có một trái
cây khác rất giống với Giâu gia là Chàm Rai, tên Thái của cây Baccaurea
polyneura. BS Nguyễn lê Đức một nhà nghiên cứu Phật học tại Jacksonville,
Florida đã giúp giải thích :
Ca dao miền Nam có câu:
Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ quyến trải
Ngó lên giòng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt lá chàm rai
Rạch Bà Nghè là Rạch Thị Nghè Khi xưa giâu gia mọc đầy giồng
(cù lao) Ông Tố, dân Xiêm sang Bến nghé buôn vẫn gọi là Chàm rai, còn
dân địa phương lại gọi là trái Búng, nên có tên địa danh Búng tại Lái Thiêu
Tài liệu của Võ văn Chi (Sách tra cứu tên cây cỏ Việt Nam) ghi nhận
các loài Baccaurea tại Việt Nam gồm:
Baccaurea harmandii = Giâu gia lông, giâu gia Harmand


B. hienii = Giâu gia lá to.
B. oxycarpa = Giâu gia quả nhọn, A luân, Sacoi.
B. ramiflora, còn có các tên đồng nghĩa B. sapida, B. cauli flora =
Giâu gia đất.
B. silvestris (hay B. annamensis)= Giâu tiên, Giâu đất, Giâu gia vỏ đỏ,
Búng, Chọt chệt.
Một số tài liệu khác xếp chung 2 loài B. ramiflora và B. sylvestris
đồng thời ghi thêm loài Baccaurea motleyana= Giâu gia lá soăn?
Baccaurea ramiflora = B. sapida
Cây thường gặp tại các quốc gia Á châu kể cả Việt Nam, và được
trồng tại Ấn độ, Mã lai. Tại Trung Hoa cây mọc tại những vùng cao độ 100-
1000m ở Quảng đông, Quảng tây, Vân nam.
Các tên thường gọi : Burma grape; Thái lan : Mafai, mak fai pa; Miến
điện : kazano; Cambodia : phnhiew ; Ấn độ : leteku Trung Hoa : Mộc nại
quả (mu nai guo)
Tại Việt Nam: tên gọi theo B. sylvestris
Cây thuộc loại thân mộc, mọc chậm, cao trung bình10-15m, có thể
đến 25m, đường kính thân có thể đến 60 cm . Cây thích hợp với nhiều điều
kiện thổ nhưỡng khác nhau. Cành non mảnh và nhẵn, lá thường tập họp tại
các cành non. Lá hình tròn dài, nhọn tại 2 đầu, dài 10-20cm, ngang 3-9cm.
Phiến lá dày, lá kèm có lông ở cả 2 mặt. Hoa màu vàng nhạt, mọc thành
chùm dài ở nách, trên các thẹo lá, lưỡng phái. Hoa đực có 4-5 đài, 6-10 nhị;
hoa cái 6-7 đài, bầu hoa hình cầu phủ lông tơ. Bầu hoa có 2-4 ô, mỗi ô chứa
2 noãn. Quả mọng, hình cầu, vỏ hơi nhám co màu từ ngà, vàng nhạt sang
đến hồng nhạt, đỏ và tím, đường kính 2.5- 3.5 cm. Quả có 3 ngăn, mỗi ngăn
có 1 hạt. Hạt màu đỏ tím, lớn 1- 1.3 cm được bọc bằng một lớp cơm dày
màu trắng đục chứa nhiều nước có vị ngọt, đôi khi hơi chua.
Cây trổ hoa vào các tháng 2-3 và quả chín vào các tháng 6-8.
Các nghiên cứu của FAO tại Thái Lan ghi nhận : quả giâu gia đất chỉ
được xem là một loại quả ít giá trị kinh tế, chỉ được ăn tại địa phương và

không có triển vọng để phát triển (FAO Corporate Document Repository :
Under-utilized tropical fruits of Thailand). Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện
đang có một số dự án phát triển việc trồng giâu gia đất tại các tỉnh miền
Trung như Phú Yên theo ước tinh năng suất của cây khi được 5-8 tuổi, có
thể cho mỗi cây 30- 50 kg quả/năm.
Baccaurea motleyana
Cây được gọi là Rambai hay rambi tại Philippines, mai-fai-farang tại
Thái lan.
Cây mọc hoang tại vùng Nam Trung Hoa, Thái lan, Cambodia và khu
vực Malacca, đôi khi được trồng tại Bắc Mã lai và Thái lan. Theo tài liệu
Flora of China thì cây cũng có tại Việt Nam
Cây mọc chậm, thường cao 9-12m, đôi khi đến 18m, thân ngắn và
chắc. Lá soăn xanh đậm dài 15- 33 cm , rộng 7- 15 cm mặt trên có gân nổi,
mặt dưới xanh-nâu, có lông. Hoa đực nhỏ có mùi thơm, mọc thành chùm dài
25- 75 cm và hoa cái thành chùm ngắn hơn 7- 15 cm . Hoa dực và cái mọc
riêng trên từng cây. Hoa không có cánh hoa, chỉ có lá đài. Quả mọc thành
chùm treo từ các cành già hay ngay trên thân. Quả hình trứng thuôn, dài 2.5-
4.5 cm rộng 2.5 cm, có vỏ nhung, mỏng màu đỏ salmon hay nâu vàng khi
chín hơi nhăn lại. Quả có 3-5 ngăn trong mỗi ngăn có hạt dẹp màu nâu dài
chừng 1.2 cm được bọc bởi một cùi trắng trong dính với hạt có vị chua hay
hơi ngọt.
Cây trổ hoa trong các tháng 5-7, cho quả trong các tháng 7-10.
Công dụng của các cây trong nhóm Baccaurea:
Baccaurea motleyana:
Theo J. Morton trong 'Fruits of Warm climates' cây Rambai được
trồng làm cây cho bóng mát và cho quả, có thể ăn tươi hay làm mứt và
chưng cất làm rượu. Gỗ thân tuy phẩm chất kém nhưng có thể dùng làm cột.
Vỏ thân có nhiều tannins, dùng làm chất cầm màu trong công nghiệp dệt.
Nước sắc từ vỏ được dân địa phương dùng trị sưng mắt.
Baccaurea ramiflora:

Lá non, hoa và quả xanh được dùng nâu canh chua. Quả chín co vị
chua và ngọt dùng ăn tươi, hay bóc lấy cùi chế sirop. Tại Mã lai, quả được
xem là một vị thuốc trợ tiêu hóa, trị giun sán. Trong vùng Vân Nam , là giã
nát trộn với giấm làm thuôc đắp trị mụn nhọt, lở loét. Nước sắc vỏ cây dùng
trị bệnh phụ khoa.
Vài nghiên cứu về thành phần của giâu gia:
Theo PubMed có một vài nghiên cứu về thành phần hóa học của giâu
gia như :
Trong lá Baccaurea ramiflora có khoảng 11 hợp chất loại phenol
thuộc nhóm Vanilloylisotachios ide. Các hợp chất này cho thấy có các hoạt
tinh chống oxy hóa khá mạnh trong các thử nghiệm MTT và DPPH dùng các
tế bào dòng PC12 (Planta Medica Số 73-2007)
Trong đọt lá B.ramiflora có những hợp chất loại vanilloid thuộc các
nhóm glucopyranosyl tachioside, vanilloylpicra quassioside và
vanilloylcariside đều có các khả năng chông oxy hóa đáng kể (Planta
Medica Số 76-2010)
Tài liệu sử dụng:
Fruits of Warm Climates (Julia Morton)
Flora of China
FAO Corporate Document Repository
A History of fruits in the SE Asian Mainland (Roger Blench)
Từ điển Cây thuốc Việt Nam (Võ văn Chi).
Tiến sĩ Dược Khoa Trần Việt Hưng

×