lời mở đầu
chiến lợc phát triển kinh tế Việt Nam từ nay đến 2020 đợc khẳng
định là tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối
đa nội lực,đồng thời nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm
để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của nên kinh tế .
để thực hiện đợc mục tiêu này, điều kiện tiên quyết đó là phải có
một môi trờng kinh tế vĩ mô ổn định, trong đó các chính sách kinh tế
phải đợc kết hợp với nhau một cách đồng bộ , có hiệu quả nhằm thực
hiện tốt những mục tiêu đã đề ra. Trong đó chính sách tiền tệ do NHTW
soạn thảo và chỉ đạo việc thực thi là một chính sách có tầm quan trọng
bậc nhất, có tác dụng ổn định tiền tệ, kiếm chế lạm phát và góp phần
tăng trởng kinh tế.
Với vai trò quan trọng đó hệ thống ngân hàng đã trở thành trụ cột
của hệ thống tiền tệ, trụ cột của nền kinh tế quốc gia. Dù ở bất kỳ quốc
gia nào nớc đang phát triển, kém phát triển hay là nớc phát triển thì ngân
hàng ngay từ khi ra đời đã có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nền kinh
tế và là mạch máu lu thông của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế có thể
thiếu bộ phận này hay bộ phận khác nhng ngân hàng là chỉnh thể không
thể thiếu của nền kinh tế quốc gia.
chính vì tầm quan trọng của ngân hàng và chính sách tiền tệ do nó
thực thi , đợc sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô trong bộ môn em đã
mạnh dạn tìm hiểu vê bản chất, chức năng, hoạt đông của ngân hàng
cũng nh vai trò của nó trong việc thực thi chính sách tiền tệ.
đề tài tiểu luận của em có tên là :
bản chất và chức năng của ngân hàng. vai trò của ngân hàng
trong việc thực thi chính sách tiền tệ .sự cụ thể hoá của chính sách
tiền tệ trong quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam .
Do trình độ hiểu biết có hạn và thời gian nghiên cứu có hạn nên
bài tiểu luận của em không thể tránh khỏi những sai sót em rất mong đ-
ợc sự góp ý của các thầy cô. em xin chân thành cảm ơn các thầy cô.
Phần I lý luận chung về ngân hàng
I.Sự ra đời và quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng
Việt Nam.
Trong một nền kinh tế,sự tồn tại của ngân hàng là một cần thiết khách quan
và thực tế đã chứng minh đợc tầm quan trọng của ngân hàng đối với sự ổn định
và phát triển kinh tế,đặc biệt là trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trờng,ngân
hàng vừa là nguồn cung cấp vốn cho hoạt động ngắn hạn của công ty và đa ra
các khoản đầu t để chuyển đổi thành tiền mặt mà ngân hàng có thể lu giữ chứng
từ,vừa là nguồn cung cấp chính vốn con ngời đã đợc đào tạo trong việc đánh giá
các rủi ro tín dụng và nhờ thế tạo ra nền tảng đảm bảo cho việc phân phối
nguồn tài lực một cách có hiệu quả.Có thể nói rằng ngân hàng đóng vai trò nh
là ngời mở đầu,ngời nâng đỡ,ngời điều chỉnh,ngời tham gia, nguời quyết định
đối với mọi quá trình sản xuất,từ hình thái thô sơ nhất đến hình thái phức
tạp,hiện đại và tinh vi nhất.
Trên thế giới,tuỳ thuộc vào thể chế chính trị,nhu cầu của nền kinh tế cũng
nh truyền thống văn hoá mà ở các quốc gia khác nhau,ngân hàng có thể dợc
thành lập và hoạt động theo những cách thức khác nhau.
Trớc cách mạng tháng 8 năm 1945 nớc Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên
không có đồng tiền riêng,không có ngân hàng riêng mà chỉ có đồng bạc Đông
Dơng do ngân hàng Đông Dơng độc quyền phát hành cho cả 3 nớc
Lào,Campuchia,Việt Nam và thực tế lúc này Việt Nam là thuộc địa của ngân
hàng Đông Dơng.
Cách mạng tháng 8 thành công,ngày 6-5-1951 Ngân hàng quốc gia Việt
Nam đợc thành lập.Ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt nên sự hình thành và phát
triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam hoàn toàn khác với nền kinh tế hàng
hoá khác.ở các nớc đó xu hớng phát triển thờng là hệ thống ngân hàng một cấp
- các ngân hàng thơng mại sang hệ thống ngân hàng hai cấp NHTW và
các ngân hàng thơng mại.Ngợc lại ở Việt Nam bắt đầu là việc thành lập NHTW
và tổ chức hệ thống ngânhàng một cấp với chức năng quản lý là chủ yếu,sau đó
trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp.
Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể phân làm hai
thời kỳ nh sau:
Giai đoạn 1: NHTW trong thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp (1951-1986):
Về phơng diện kinh tế,đặc điểm nổi bật nhất của thời kỳ này là nền kinh tế
kế hoạch tập trung trung ơng.Gắn liền với cơ chế quản lý đó là sự tồn tại của hệ
thống ngân hàng một cấp.Trong giai đoạn này,ngân hàng Nhà nớc vừa đóng vai
trò ngân hàng trung gian vừa đóng vai trò NHTW,nó đợc xem nh là một công
cụ để thực hiện kế hoạch kinh tế của nhà nớc.
Về lịch sử,hệ thống ngân hàng một cấp đợc hình thành đầu tiên ở Liên Xô
sau cách mạng thàng 10 Nga và đợc hầu hết các nớc xã hội chủ nghĩa áp
dụng.ở Việt Nam,Hệ thống ngân hàng một cấp đợc bắt đầu từ năm 1951 đến
năm 1987.
Mô hình ngân hàng một cấp nh sau:
Với mô hình trên,hệ thồng ngân hàng một cấp có đặc điểm nh sau:
Ngân hàng nhà nớc độc quyền thuộc sở hữu nhà nớc,thực hiện chức năng
quản lý nhà nớc về hoạt động tiền tệ,tín dụng,thanh toán,đồng thời là một tổ
chức kinh doanh về hoạt động tiền tệ,tín dụng,thanh toán.Theo nguyên tắc tập
trung thống nhất toàn ngành theo một kế hoach và chế độ quản lý thống nhất
của nhà nớc.Trong đó,ngân hàng nhà nớc là một hệ thống bao gồm các ngân
hàng chuyên nghiệp mà thức chất là những chi nhánh đặc biệt của ngân hàng
nhà nớc,đợc ngân hàng nhà nớc phân công hoạt động trong một số lĩnh vực nhất
định.Ngân hàng thuộc quyền sở hữu nhà nớc là ngân hàng duy nhất,các thành
phần kinh tế khác không đợc thành lập ngân hàng.
Trong giai đoạn này hoạt động của ngân hàng đợc tiến hành thao kế hoạch
hoá tập trung,bao gồm kế hoạch phát hành,kế hoạch tín dụng,kế hoạch tiền
mặt.Việc lãnh đạo,chỉ đạo,điều hành của ngân hàng nhà nớc Việt Nam mang
Ngân hàng nhà nư
ớc Việt Nam
Ngân hàng Nông nghiệp
Ngân hàng công nghiệp
Ngân hàng đầu tư
Ngân hàng Ngoại thương
Quỹ tiết kiệm
Chi nhánh
Chi nhánh
Chi nhánh
Chi nhánh
tính hành chính,mệnh lệnh,còn các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô về tiền tệ tín
dụng thiếu sót rất nhiều.Không có luật ngân hàng,việc phát hành tiền tệ lúc này
theo lối phân phối cho tài chính và ngân hàng.Các quyết định tín dụng đều đã đ-
ợc lên kế hoạch trớc.Hệ thống ngân hàngbị suy kiệt vì nguồn vốn thấp,một số l-
ợng lớn các khoản nợ không hoạt động của các quốc doanh,các khoản cho vay
gián tiếp tập trung theo khu vực địa lý và khu vực ngành,do đó hoạt động kinh
doanh của ngân hàng hầu nh không có lãi,đợc nhà nớc bù lỗ.Các nhà quản lý lại
có rất ít kinh nghiệm trong việc tính toán và giải quyết các rủi ro.Thị trờng cổ
phần và thị trờng trái phiếu hoặc là không tồn tại hoặc là rất nhỏ bé và không
linh hoạt trong việc chuyển đổi ra tiền mặt hoặc trên cơ sở trao đổi và các doanh
nghiệp đã tạo nên một mạng lới rộng rãi tín dụng giữa các hãng với nhau.Lãi
suất tiền gửi rất thấp,vì vậy tuy ngân hàng nhà nớc có hệ thống các quỹ tiết
kiệm nhng việc thu hút tiền gửi không đạt đợc hiệu quả cao so với tiềm năng
của nó.
Tình hình trên bắt nguồn từ tổ chức hoạt động của hệ thống ngân hàng.Từ
khi ra đời,ngân hàng nhà nớc là ngân hàng phát hành,đồng thời vừa là ngân
hàng trực tiếp cho vay vốn đối với nền kinh tế quốc dân,vừa là tổ chức quản lý
nhà nớc về tiền tệ,tín dụng,thanh toán.Hoạt động ngân hàng tơng đối đơn
giản,không đòi hỏi sự năng động,linh hoạt trong hạch toán kinh doanh vì ngân
hàng thực chất nh là cơ quan cấp phát tài chính thứ hai sau ngân sách cấp phát
vốn cho xí nghiệp.Trong hoạt động tín dụng,ngan hàng không ý thức đầy đủ về
trách nhiệm đối với nguồn huy động vốn,chỉ biết cho vay theo chỉ tiêu kế hoạch
của cấp trên,càng xin đợc vốn càng nhiều càng cho vay rộng rãi,trong khi đó
dịch vụ ngân hàng lại yếu kém.
Nh vậy,phơng thức hoạt động và tổ chức ngân hàng một cấp phù hợp với cơ
chế kế hoạch hoá tập trung.Tuy nhiên khi nền kinh tế nớc ta chuyển sang cơ chế
thị trờng có sự điều tiết của nhà nớc thì mô hình một cấp không còn phù hợp
nữa.Ta có thể thấy rằng những điều kiện cần có để tiến hành hoạt động kinh
doanh ngân hàng đến lúc naỳ là cha có,vì vậy ngân hàng đã không đạt đợc hiệu
quả nh mong muốn.Và đây cũng chính là sự cần thiết phải chuyển ngân hàng
sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa ,quá trình chuyển đổi đó gắn liền
với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trờng có sự quản lý của nhà nớc.
Giai đoạn 2: Ngân hàng nhà nớc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng đã bắt đầu đợc tiến
hành với mốc đánh dấu là nghị định số 53/HĐBT ngày 16/3/1988 của hội đồng
bộ trởng (nay là chính phủ) về việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng Việt
Nam.Hệ thống ngân hàng Việt Nam đợc phân định thành hai cấp là ngân hàng
nhà nớc Việt Nam với chức năng quản lý nhà nớc đối với toàn bộ hệ thống
ngân hàng và ngân hàng chuyên doanh hoạt động nh những ngân hàng th-
ơng mại theo chế độ hoạch toán kinh tế.
Với cơ cấu tổ chức nh vậy, hệ thống ngân hàng nớc ta trong giai đoạn này
chứa đựng 3 điểm quan trọng so với trớc kia :
Thứ nhất, ngân hàng nhà nớc Việt Nam vẫn đợc tổ chức thành hệ thống
thống nhất trong cả nớc.
Thứ hai, hệ thống ngân hàng nhà nớc Việt Nam hoạt động theo chế độ
hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, trong đó ngân hàng nhà nớc
và ngân hàng chuyên doanh có nhiệm vụ và quyền hạn riêng trong hoạt động
của mình. Cụ thể là :
Ngân hàng nhà nớc là cơ quan quản lý nhà nớc trong lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng và ngân hàng, thực hiện việc độc quyền phát hành đồng bạc Việt nam.
Việc phát hành tiền đợc hội đồng bộ trởng (nay là chính phủ) uỷ nhiệm cùng bộ
tài chính quản lý dự trữ tiền Việt nam. Đồng thời, nó còn thực hiện rất nhiều
những chức năng quan trọng khác nh: tổ chức thanh tra giám sát hoạt động
kinh doanh của ngân hàng chuyên doanh, tổ chức chấp hành quỹ ngân sách nhà
nớc, đại diện nhà nớc tại các tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế
Cơ cấu tổ chức bộ máy ngân hàng nhà nớc cấp trung ơng không còn các vụ
tín dụng, quỹ tiết kiệm xã hội chủ nghĩa trung ơng theo hệ thống dọc nh trớc
nhng có thêm vụ chế độ. Các chi nhánh ngân hàng nhà nớc tại địa phơng thực
hiện chức năng quản lý nhà nớc về ngân hàng.
Nh vậy, ngân hàng nhà nớc mới chỉ làm một số nghiệp vụ của ngân hàng
trung ơng đối với ngân hàng chuyên hoanh trực thuộc. Hơn nữa, hoạt động
ngân khố vẫn cha tách ra khỏi chức năng ngân hàng. Ngân hàng nhà nớc vẫn
làm những nghiệp vụ của ngân khố( tổ chức chấp hành quỹ ngân sách nhà nớc ).
Nhng dù sao, đây cũng là một bớc tiến, tiến dần đến việc hình thành một
NHTW đúng nghĩa của nó đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng chuyên doanh đóng vai trò là những doanh nghiệp thực hiện kinh
doanh tiền tệ, thực hiện hạch toán kinh tế từ cơ sở và trong hệ thống mỗi ngân
hàng chuyên doanh. Có 4 ngân hàng chuyên doanh trực thuộc ngân hàng nhà n-
ớc là: ngân hàng phát triển nông nghiệp Việt nam, ngân hàng công thơng Việt
nam, ngân hàng ngoại thơng Việt nam, ngân hàng đầu t và xây dựng Việt nam.
Có ngân hàng chuyên doanh 3 cấp nh ngân hàng phát triển nông nghiệp, có
ngân hàng chỉ có 2 cấp nh ngân hàng ngoại thơng. Các ngân hàng chuyên
doanh là tổ chức kinh doanh trực tiếp đối với nền kinh tế quốc dân, có t cách
pháp nhân, bình đẳng trong quan hệ kinh doanh đối với các đơn vị và các thành
phần kinh tế.
Trên cơ sở đổi mới hệ thống ngân hàng mà ngân hàng đã đáp ứng về cơ bản
nhu cầu vốn cho nền kinh tế, đồng thời còn hỗ trợ đợc một phần cho ngân sách,
giảm thấp mức phát hành cho tín dụng, góp phần tích cực cùng cả nớc kiềm chế
tốc độ lạm phát, từng bớc phục hồi đợc niềm tin trong nhân dân.
Tuy nhiên sau khi thực hiện nghị định 53/HĐBT còn tồn tại những hạn chế
sau đây:
- Chính sách tiền tệ quốc gia cha đợc hớng rõ nét.
Mô hình tổ chức còn cồng kềnh, chồng chéo trong quan hệ dọc ngang.
-Chức năng quản lý với chức năng kinh doanh, chức năng ngân hàng với
chức năng tài chính cha đợc xác định rõ ràng.
-Quyền hạn của ngân hàng nhà nớc Việt nam còn hạn hẹp, nhiều công cụ
điều hành vĩ mô hầu nh cha đợc quy định rõ hoặc cha đợc sử dụng.
-Nhiều nghiệp vụ kinh doanh của các ngân hàng chuyên doanh cha đợc triển
khai, nhiều khu vực của thị trờng tiền tệ bị bỏ trống.
-Hệ thống thanh tra, kiểm soát hoạt động còn thụ động kém hiệu quả, cha
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Phải nói rằng, cho đến năm 1990, ngành ngân hàng cha nhận thức đợc đầy
đủ về kinh doanh ngân hàng và quyền tự chủ của các đơn vị, còn lúng túng
trong việc xử lý những vấn đề mới phát sinh, buông lỏng vai trò kiểm soát đối
với các đơn vị cũng nh đối với đội ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng, vì thế
ngành ngân hàng cha phát huy đầy đủ chức năng nhiệm vụ của mình trong phát
triển kinh tế.
Đúng nh nhận xét của thủ tớng Võ Văn Kiệt Ngân hàng kinh doanh chia
ra kinh doanh, quản lý nhà nớc cha ra quản lý nhà nớc đối với thị trờng tiền tệ
đang hình thành. Mỗi một ngân hàng theo tổ chức nghị định 53/HĐBT từ trung
ơng đến cơ sở đều chung chạ 2 chức năng không thể chung chạ này. Ngân hàng
đã vơn ra kinh doanh nhng bị chức năng quản lý nhà nớc kéo lại nhùng nhằng
không thể bao quát mọi nhu cầu của thị trờng tiền tệ .
Trớc tình hình đó trong công cuộc đổi mới toàn diện sâu sắc và triệt để của
đất nớc, để tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng, ngày 23-5-1990 Hội đồng nhà
nớc đã thông qua Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính. Nội dung cơ bản của 2 pháp lệnh này là :
Pháp lệnh ngân hàng phân biệt rõ chức năng tài chính với chức năng ngân
hàng trong nền kinh tế quốc dân, phân định rõ chức năng quản lý nhà nớc về
tiền tệ, tín dụng ở tầm vĩ mô của ngân hàng nhà nớc với chức năng kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ trực tiếp ở tầm vĩ mô của các ngân hàng thơng mại, ngân hàng
đầu t và phát triển, công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng.
Xuất phát từ quan điểm là lấy việc bảo đảm quyền tự chủ sản xuất và tự chủ
kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở làm khâu cơ bản, từ nay ngân hàng nhà nớc
không trực tiếp giao dịch với các đơn vị và các tổ chức kinh tế mà trở về với
vai trò vốn có của mình là ngân hàng của các ngân hàng, không chỉ với ngân
hàng quốc doanh mà cả các ngân hàng ngoài quốc doanh.
Lãnh đạo ngân hàng nhà nớc là một tập thể Hội đồng quản trị do Thống đốc
ngân hàng Nhà nớc làm chủ tịch Hội đồng và 8 uỷ viên,trong đó có một nửa là
cấp thứ trởng đại diện cho những bộ,Uỷ ban nhà nớc mà hoạt động có liên quan
mật thiết đến điều hành nền kinh tế tiền tệ,còn lại là những chuyên gia kinh tế
tiền tệ do thống đốc lựa chọn.Do đó, ngân hàng nhà nớc có đủ khả năng xây
dung các chính sách tiền tệ,tín dụng trên cơ sở những đánh giá,thẩm định
chuyên sâu của mình về tình hình kinh tế xã hội,không phải trông chờ quá
nhiều vào chính phủ nh trớc.
Bên cạnh đó, pháp lệnh đã trang bị cho ngân hàng nhà nớc nhiều công cụ
mới nh thẩm quyền tái chiết khấu và cho vay,quyền ấn định tỷ lệ dữ trữ bắt
buộc,tỷ lệ mua công trái và các tỷ lệ an toàn khác đối với tổ choc này.Đó là
những công cụ giúp cho ngân hàng nhà nớc chủ động điều hành linh hoạt và
hữu hiệu các hoạt động tiền tệ ,tín dụng nhằm đảm bảo thực hiện tốt các mục
tiêu kinh tế xã hội,đồng thời tạo ra cho ngân hàng nhà nớc khả năng kiểm soát
lạm phát đợc thờng xuyên,cũng nh chủ động phòng ngừa những biện pháp tình
thế chống lạm phát quá tay đối với nhịp điệu tăng trởng,kinh tế và với công ăn
việc làm của ngời lao động.
Nh vậy,với sự quan tâm của đảng và nhà nớc và với sự nỗ lực của bản thân
ngành ,trong thời gian qua hệ thống ngân hàng Việt Nam dã dạt nhiều thành
tích đáng kể .Đó là tong bớc xây dựng đợc hệ thống ngân hàng thích ứng với cơ
chế tiền tệ,có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa,đẩy lùi
lạm phát,thúc đẩy tăng trởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ,thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nớc.Đặc biệt,với luật ngân hàng nhà nớc Việt
Nam (gồm 7 chơng,63 điều)và luật các tổ chức tín dụng (gồm 11 chơng,131
diều) đợc chủ tịch nớc Trần Đức Lơng ký lệnh công bố ngày 26-12-1997,thì
tính đồng bộ của cơ chế tài chính tiền tệ quốc gia đợc đảm bảo,phục vụ đắc lực
cho sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên,để xứng đáng với vai trò chủ đạo đối với sự phát triển kinh tế,hệ
thống ngân hàng nhà nớc cần phải luôn đợc củng cố và hoàn thiện về mọi
mặt,thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát triển,đa nền kinh tế nớc ta từng bớc
hoà nhập với khu vực thế giới
II. Bản chất và chức năng của hệ thống ngân hàng
1.Ngân hàng trung ơng
1.1.Khái niệm NHTW.
NHTW là một định chế công cộng,có thể độc lập hoặc trực thuộc chính
phủ,thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền,là ngân hàng của các ngân
hàng,ngân hàng của chính phủ và chịu trách nhiệm trong việc quản lý nhà nớc
về hoạt động tiền tệ ,tín dụng,ngân hàng cho mục tiêu phát triển và ổn định của
cộng đồng.
Tiền thân của NHTW là ngân hàng phát tiền[Khi ngân hàng có tên là
NHTW thì ngân hàng này đảm nhận việc độc quyền phát hành tiền và quản lý
nhà nớc] các ngân hàng đợc thành lập hoặc bằng cách quốc hữu hoá các ngân
hàng phát hành hiện có, hoặc thành lập mới thuộc quyền sở hữu nhà nớc. Các n-
ớc t bản phát triển có hệ thống ngân hàng phát triển lâu đời nh Anh, Pháp thì
thành lập ngân hàng trung ơng bằng cách quốc hữu hoá ngân hàng phát hành
thông qua mua cổ phần của các ngân hàng này rồi bổ nhiệm ngời điều
hành.Một số nớc t bản khác nh Nhật Bản thì nhà nớc chỉ nắm cổ phần khống
chế hoặc vẫn để thuộc sở hữu t nhân nhng nhà nớc bổ nhiệm ngời điều hành.
Còn lại hầu hết các nớc khác thì thành lập NHTW mới thuộc sở hữu nhà nớc. ở
Việt Nam NHTW đợc thành lập thuộc sở hữu nhà nớc Việt Nam.
1.2.Vị trí của NHTW .
Là một định chế công cộng của nhà nớc, nhng mối quan hệ của NHTW với
chính phủ không hoàn toàn giống với các định chế công cộng khá. Tuỳ thuộc
vào đặc điểm ra đời của NHTW,thể chế chính trị,nhu cầu của nền kinh tế cũng
nh truyền thống văn hoá của từng quốc gia mà NHTW có thể đợc tổ chức theo
mô hình trực thuộc hay độc lập với chính phủ. Chính đặc điểm này đã thể hiện
đợc vị trí quan trọng của NHTW trong việc điều hành kinh tế vĩ mô của đất nớc.
1.2.1 Mô hình NHTW trực thuộc chính phủ.
Theo mô hình này, NHTW chịu sự chi phối trực tiếp của chính phủ về nhân
sự,về tài chính và đặc biệt về các quyết định có liên quan đến việc xây dựng và
thực hiện chính sách tiền tệ ..Các nớc áp dụng mô hình này phần lớn là các nớc
khối xã hội chủ nghĩa trớc đây và hiện nay(Hàn Quốc,Đài Loan,Việt Nam ).
Theo mô hình này, chính phủ có thể dễ dàng phối hợp chính sách tiền tệ của
NHTW đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo mức độ
và liều lợng tác động hiệu quả của các tổng thể các chính sách đối với các mục
tiêu vĩ mô trong thời kỳ. Mô hình này đợc xem là phù hợp với yêu cầu cần tập
trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát
triển.
Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình là NHTW sẽ mất đi sự chủ động trong
việc thực hiện chính sách tiền tệ. Sự phụ thuộc vào chính phủ có thể làm cho
NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền tệ, góp phần
tăng trởng kinh tế. Tuy nhiên, sự lớn mạnh nhanh chóng của các nớc thuộc
nhóm NIC nh Singapo, Hàn Quốc, Đài Loan... nơi NHTW là một bộ phận trong
Chính phủ
Hội đồng chính sách tiền tệ gồm:
Thống đốc NHTW và các thành viên khác
NHTW
guồng máy chính phủ là một bằng chứng có sức thuyết phục về sự phù hợp của
mô hình tổ chức này đối với truyền thống văn hoá á Đông.
1.2.2.Mô hình NHTW độc lập với chính phủ.
Theo mô hình này NHTW không chịu sự chỉ đạo của chính phủ mà là quốc
hội và quan hệ giữa NHTW với chính phủ là
quan hệ hợp tác.
Các NHTW theo mô hình này là ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ, NHTW
Thụy Sỹ, Anh , Pháp, Đức, Nhật Bản và gần đây là những trung ơng Châu
âu(ECB). Xu hớng tổ chức NHTW theo mô hình này đang tăng lên ở các nớc
phát triển
Theo mô hình này, NHTW có quyền quyết định việc xây dựng và chi tiêu
ngân sách. Cụ thể nh thâm hụt ngân sách là căn bệnh kinh niên của các chính
phủ, do vậy nếu NHTW đặt dới quyền chính phủ, khi thâm hụt ngân sách xảy
ra, chính phủ, chính phủ có thể buộc NHTW in tiền để tài trợ. Điều này dẫn đến
nguy cơ lạm phát,gây tổn hại cho xã hội hoặc tránh đợc các áp lực chính trị
khác, ví dụ nh khi NHTW trực thuộc chính phủ, chính có thể vì những mục tiêu
chính trị trớc mắt mà khiến cho ngân hàng trung ơng theo đổi các mục tiêu
ngắn hạn thay vì các mục tiêu chính sách dài hạn, do đó ảnh hởng tới sự phát
triển của tổng thể nền kinh tế quốc gia.
Tuy nhiên, không phải tất cả các NHTW đợc tổ chức theo mô hình này đều
đảm bảo đợc sự độc lập hoàn toàn khỏi áp lực của chính sách tiền tệ. Mức độc
lập của NHTW phụ thuộc vào sự chi phối của ngời đứng đầu nhà nớc vào cơ chế
lập pháp và nhân sự của NHTW.
Điểm bất lợi chủ yếu của mô hình này là khó có sự kết hợp hài hoà giữa
chính sách tiền tệ do ngân hàng trung ơng thực hiện và chính sách tài khoá -
do chính phủ phối hợp - để quản lý vĩ mô có hiệu quả.
Không có một mô hình nào có thể đợc coi là thích hợp cho mọi quốc gia.
Việc lựa chọn mối liên hệ thích hợp giữa NHTW và chính phủ phải phải phụ
thuộc vào chế độ chính trị, yêu cầu phát triển kinh tế, đặc điểm lịch sử và sự
phát triển của hệ thống ngân hàng của từng nớc. Tuy nhiên trong một chừng
mực nhất định nào đó cũng bị ảnh hởng bởi trào lu của thế giới
Quốc hội
NHTW Chính phủ
1.3 Hệ thống tổ chức của ngân hàng trung ơng
Xuất phát từ yêu cầu của việc thực hiện chức năng và nhiện vụ, hệ
thống tổ chức NHTW thờng đợc bố trí theo tuyến dọc: Bên trên là hệ thống
NHTW toả dọc xuống là các chi nhánh trực thuộc đặt trên các địa bàn tỉnh,
thành phố hoặc các khu vực kinh tế. Mô hình tổ chức đó phải đảm bảo cho
NHTW vận hành các hoạt động của mình một cách thống nhất, nhạy bén theo
nguyên tắc tập trung thống nhất.
-Cơ chế quản trị điều hành:
Trong bộ máy quản ly nhà nớc, NHTW có vị trí quan trọng cùng với nhiệm
vụ xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, việc quản
trị điều hành hoạt động của ngân hàng trung ơng phải đợc thực hiện theo một
cơ chế đặc biệt so với các bộ khác của nhà nớc.
-Về cơ chế quản trị:
Hiện nay hầu hết các nớc thực hiện theo cơ chế lãnh đạo dới hình thức mọi
hội đồng. Hội đồng nhà nớc nớc này đợc nhà nớc bổ nhiệm gồm nhữn ngời có
chuyên môn cao, có trình độ quản lý Chức năng chủ yếu của hội đồng là
quyết định những chủ trơng, chính sách về tiền tệ tín dụng, ngân hàng, chỉ đạo
giám sát các hoạt động của ngân hàng trung ơng t vấn cho chính phủ về các
vấn đề về kinh tế, tiền tệ. Đứng đầu hội đồng là chủ tịch hội đồng thờng là
thống đốc ngân hàng trung ơng.
-Về cơ chế điều hành:
Thống đốc ngân hàng là ngời trực tiếp điều hành, giúp việc cho thống đốc có
một số phó thống đốc. Để thực hiện chức trách của mình, thống đốc sử dụng
một bộ máy tổ chức gồm các vụ, cục, chi nhánh trực thuộc. Thống đốc là ngời
chịu trách nhiệm trớc quốc hội hoặc chính phủ và trớc hội đồng quản trị về thực
hiện chức năng nhiệm vụ của NHTW
1.4 Chức năng của ngân hàng trung ơng
Là một định chế của công cộng của nhà nớc, ngân hàng trung ơng có
nhiệm vụ thực hiện việc quản lý nhà nớc. Tuy nhiên, có vị trí đặc biệt của mình
trong bộ máy quản lý nhà nớc, nên khác với tính chất quản lý nhà nớc của các
bộ, các cơ quan ngang bộ thì NHTW thực hiện việc quản lý nhà nớc thông qua
các nghiệp vụ mang tính kinh doanh có đem lại lợi nhuận. Song tính kinh doanh
không phải là mục tiêu mà nó chỉ là phơng tiện để thực hiện mục tiêu hoạt động
của NHTW, đó là: cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, điều hoà lu thông tiền tệ và
quản lý hệ thống ngân hàng nhằm dảm bảo lu thông tiền tệ ổn định, từ đó tạo
điều kiện tăng trởng kinh tế, tăng việc làm và kiềm chế lạm phát. Muốn vậy,
ngân hàng trung ơng phải thực hiện 3 chức năng cơ bản sau đây:
1.4.1 Ngân hàng trung ơng là ngân hàng phát hành.
NHTW đợc giao trọng trách độc quyền phát hành tiền theo các quy định
trong luật hoặc đợc chính phủ phê duyệt (về mệnh giá, loại tiền mức phát
hanh )nhằm đẳm bảo thể thống nhất và an toàn cho hệ thống l u thông tiền tệ
hợp pháp duy nhất trong cả nớc. Đồng do ngân hàng trung ơng phát ra là đồng
tiền lu thông hợp pháp duy nhất trong cả nớc, nó mang tính chất cỡng chế lu
hành, vì vậy mọi ngời không có quyền từ chối nó trong thanh toán.
Khối lợng tiền NHTW cung ứng cho lu thông ảnh hởng trực tiếp đến ph-
ơng tiện thanh toán trong xã hội do đó ảnh hởng đến toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy
nhiệm vụ phát hành tiền còn bao gồm trách nhiệm của ngân hàng trung ơng
trong việc xác định số lợng tiền cần phát hành, thời điểm phát hành cũng nh ph-
ơng thức phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế.
Do giấy bạc ngân hàng có nguồn gốc từ tiền thực chất (vàng) hay kỳ
phiếu thơng mại nên trong lịch sử phát hành giấy bạc ngân hàng ngời ta thờng
quy định những nguyên tắc chặt chẽ để đảm bảo cho việc phát hành tiền gắn với
yêu cầu lu thông hàng hoá và lu thông tiền tệ. Nguyên tắc là:
Phát hành tiền dựa vào dự trữ vàng.
Giấy bạc ngân hàng phát hành vào lu thông phải có vành nằm trong kho của
ngân hàng làm đảm bảo.Nhìn chung có 3 hình thức duy trì đảm bảo sau đây:
-Nhà nớc quy định mức một mức phát hành,khối lợng phát hành phải nằm
trong hạn mức pháp định.
-Nhà nớc quy định mức tối đa lợng giấy bạc trong lu thông và không quy
định mức dữ trữ vàng làm đảm bảo cho lợng giấy bạc đó.
-Nhà nớc quy định mức dữ trữ vàng tối thiểu cho khối lợng giấy bạc phát
hành. Theo quy định này, lợng giấy bạc phát hành vợt quá mức nhất định nào
đó phải đợc đảm bảo 100% bằng vàng hoặc phải chịu một thuế suất là 5% tính
trên số tiền phát hành vợt mức.
Việc đảm bảo bằng khối lợng vàng dữ trữ trong kho của ngân
hàng,một mặt khống chế mức phát hành giấy bạc tăng hoặc giảm theo khối lợng
trữ kim hiện hữu,ngăn chặn sự lạm dụng công cụ phát hành để gây ra lạm
phát;mặt khác làm cơ sở cho việc chuyển đổi giấy bạc Ngân hàng ra vàng ,điều
chỉnh khối lợng giấy bạc trong lu thông,giữ cho giá trị danh nghĩa(mệnh giá)
của giấy bạc phù hợp với giá trị thực tế(vàng) mà nó làm đại diện.Tuy nhiên,sự
đòi hỏi phải có vàng đảm bảo khi phát hành tiền giấy dẫn đến sự thiếu linh hoạt
trong phát hành tiền do khối lợng tiền phát hành không gắn với nhu cầu lu
thông trao đổi hàng hoá mà phụ thuộc vào số lợng vàng dữ trữ của ngân hàng
trung ơng.Khi nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế vợt quá khả năng đảm bảo của l-
ợng vàng dữ trữ,các ngân hàng trung ơng không thể đáp ứng đợc.
Phát hành tiền có đảm bảo bằng giá trị hàng hoá thông qua cơ
chế tín dụng.
Theo chế độ này,việc phát hành giấy bạc không nhất thiết có trữ kim đảm
bảo mà có thể đợc thực hiện qua cơ chế tín dụng ngắn hạn trên cơ sở đảm bảo
bằng giá trị hàng hoá thể hiện trên kỳ phiếu thơng mại và các chứng từ nợ khác.
Qua đó làm cho việc phát hành gắn với nhu cầu thực tế của lu thông hàng
hoá,đảm bảo cho tổng lợng tiền tệ phù hợp với giá trị hàng hoá và dịch vụ trên
thị trờng.Việc phát hành này của ngân hàng trung ơng đợc thực hiện bằng ph-
ơng pháp tái chiết khấu các chứng từ có giá của các tổ chức tín dụng.
Việc phát hành tiền thông qua cơ chế tín dụng ngân hàng có ý nghĩa rất quan
trọng. Một là, khối lợng giấy bạc phát hành vào lu thông đợc xuất phát từ nhu
cầu tiền tệ phát sinh do sự tăng trởng kinh tế đòi hỏi, giấy bạc phát hành đợc
đảm bảo bằng giá trị hàng hoá và xác định đợc thời hạn quay trở về nơi phát
hành. Hai là, tạo khả năng để ngân hàng trung ơng thực hiện việc kiểm soát
khối lợng tiền cung ứng theo yêu cầu mục tiêu ổn định tiền tệ.
Tóm lại, ngày nay việc phát hành tiền phải đi đôi với việc kiểm soát và điều
tiết lu thông tiền tệ,đều đợc quy định bởi chính sách tiền tệ quốc gia, một bộ
phận quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô, do ngân hàng trung ơng với t
cách là cơ quan quản lý nhà nớc xây dựng và tổ chức thực hiện.
1.4.2.NHTW là ngân hàng của các ngân hàng.
Ngân hàng không tham gia kinh doanh tiền tệ,tín dụng trực tiếp với các chủ
thể trong nền kinh tế mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng với các ngân
hàng trung gian.Bao gồm:
Nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng
NHTW mở tài khoản và nhận tiền gửi từ các tổ chức tín dụng dới hai dạng
sau:
-Tiền gửi dữ trữ bắt buộc: Là khoản tiền dữ trữ mà các ngân hàng trung gian
bắt buộc phải gửi tại ngân hàng trung ơng để nhằm đảm bảo khả năng chi trả
của các ngân hàng này trớc nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng.Mức dự trữ bắt
buộc đợc tính theo tỷ lệ % từng loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn.Tỷ lệ
này do ngân hàng trung ơng quy định trong từng thời kỳ.
Ban đầu, mục đích của dữ trữ bắt buộc là nhằm đảm bảo khả năng thanh
toán, do đó hạn chế khả năng rủi ro thanh toán cho cả hệ thống. Tuy nhiên, theo
thời gian ý nghĩa này giảm dần. Cùng với sự phát triển của thị trờng tài chính và
xu hớng chứng khoán hoá trong hoạt động ngân hàng thì khả năng đáp ứng
nhanh chóng nhu cầu tiền mặt của các ngân hàng tăng lên, đồng thời các hình
thức bảo hiểm tiền gửi ra đời đã làm yên lòng những ngời gửi tiền và nhờ vậy
làm giảm bớt khả năng xảy ra nhu cầu rút tiền bất thờng. Vì vậy, tỷ lệ dữ trữ bắt
buộc ngày càng giảm bớt ở hầu hết các quốc gia. Hiện nay tỉ lệ dữ trữ bắt buộc
đợc nói đến với t cách là một công cụ của NHTW trong điều hành chính sách
tiền tệ.
-Tiền gửi thanh toán: Để đáp ứng cho nhu cầu chi trả trong thanh toán giao
dịch,các tổ chức tín dụng khi đợc phép hoạt động đều phải mở tài khoản tại
NHTW và gửi tiền vào tài khoản đó theo quy định.
Cho vay đối với các tổ chức tín dụng
Với t cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW luôn là chủ nợ và là ngời
cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng thông qua hoạt động tái chiết
khâú và cho vay có thế chấp các giấy tờ có giá. Nghiệp vụ tái cấp vốn của
NHTW có tác dụng rất quan trọng; Một mặt,nó tránh cho NHTW rơi vào tình
trạng bị động trong việc tài trợ cho các tổ chức tín dụng , từ đó thực hiện việc
điều tiết khối lợng tiền cung ứng một cách có hiệu quả theo yêu cầu của chính
sách tiền tệ, phù hợp với mục tiêu tăng trởng kinh tế. Mặt khác, nó sẽ giúp cho
các tổ chức tín dụng nhận đợc vốn một cách kịp thời, phục vụ cho nhu cầu phát
triển hoạt động kinh doanh. Nếu không có nguồn tài trợ này,các ngân hàng có
thể bỏ lỡ những thời cơ và làm mất khả năng chi trả. Bằng các hoạt động đó,
NHTW dã đóng góp một vai trò quan trọng cho sự an toàn của hệ thống ngân
hàng. Ta biết rằng bất kỳ một tổ chức tín dụng nào có nguồn dữ trữ ít ỏi cũng sẽ
dễ bị ảnh hởng bởi những cơn khủng hoảng tài chính khi các tổ chức tín dụng
đó không có khả năng đáp ứng nhu cầu rút ra của ngời gửi, khi đó nó buộc phải
chấp nhận phá sản. Để tránh điều đó NHTW sẽ có thể cung cấp những khoản
tín dụng không hạn chế, nhằm giúp cho các tổ chức tín dụng tránh khỏi sự đổ
vỡ nghĩa là ngân hàng trung ơng sẵn sàng đóng vai trò cứu cánh cho vay cuối
cùng khi không còn phơng cách cứu vãn nào khác. Khả năng này của NHTW
luôn có thể thực hiện đợc vì nó là ngân hàng duy nhất có quyền phát hành tiền.
Tuy nhiên không phải mọi tổ chức tín dụng đều nhận đợc sự hỗ trợ của
NHTW để thoát khỏi nguy cơ phá sản. Chỉ khi sự sụp đổ của tổ chức tín dụng
đó có ảnh hởng lớn tới sự tồn tại và an toàn của cả hệ thống ngân hàng, NHTW
mới can thiệp. Mức lãi suất cho vay của NHTW khi đó cũng thờng là lãi suất
phạt và tổ chức tín dụng nhận hỗ trợ phải chịu nhiều quy định ngặt nghèo của
ngân hàng trung ơng.
Là trung tâm thanh toán bù trừ cho hệ thống các tổ chức tín dụng
Là đầu mối nối liền mạng lới thanh toán trong toàn bộ hệ thống ngân hàng,
nghiệp vụ thanh toán của NHTW đợc thực hiện bằng những phơng thức thích
hợp ,theo hớng hiện đại hoá, trong đó chủ yếu là thanh toán bù trừ. Vì các tổ
chức tín dụng đều mở tài khoản và gửi tiền vào tài khoản này tại ngân hành
trung ơng nên chúng có thể thực hiện thanh toán không dùng tièn mặt qua
NHTW thay vì thanh toán trực tiếp với nhau.
Thông qua dịch vụ thanh toán bù trừ, NHTW đã góp phần tiết kiệm đợc chi
phí thanh toán cho các tổ chức tín dụng và toàn xã hội, đảm bảo vốn luân
chuyển nhanh chóng trong hệ thống ngân hàng và phản ánh chính xác quan hệ
thanh toán giữa các chủ thể kinh tế trong xã hội. Mặt khác, thông qua hoạt động
này ngân hàng trung ơng có thể kiểm tra sự biến động vốn khả dụng của từng
tổ chức tín dụng, là cơ sở để có những kiến nghị kịp thời.
Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng
Khác với các tổ chức kinh doanh khác, kinh doanh trong lĩnh vực tài chính
tiền tệ cần thiết phải đợc kiểm soát và điều tiết chặt chẽ bởi vì:
Trớc hết các tổ chức tín dụng đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trờng tài
chính nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung, cụ thể là: Nó là kênh
chuyển giao vốn từ tiết kiệm đến đầu t, là công cụ của chính phủ trong việc tài
trợ vốn cho các mục tieu chiến lợc và là nhân tố có ảnh hởng quyết định đến
việc điều hành chính sách tiền tệ.
Thứ hai, bản chất hoạt động cảu các ngân hàng là chứa đựng rủi ro. Mức độ
rủi ro sẽ tăng lên khi các ngân hàng có xu hớng chạy theo lợi nhuận làm phơng
hại đến quyền lợi của ngời gửi tiền. Nguyên tắc hoạt động của các ngân hàng là
đi vay ngắn hạn và cho vay dài hạn. Bảng tổng kết tài sản của nó luôn chứa
đựng mức rủi ro tiềm năng do chênh lệch về thời hạn giữa nguồn vốn và sử
dụng vốn, giữa yêu cầu thanh toán và mong muốn sinh lợi tối đa. Các ngân
hàng lại có mối liên hệ và phụ thuộc với nhau chặt chẽ thông qua các luồng vốn
tín dụng luân chuyển và thông qua hoạt động của hệ thống thanh toán. Vì vậy,
chỉ cần một trục trặc nhỏ trong quá trình thanh toán của một ngân hàng cũng sẽ
gây nên vấn đề về tính thanh toán của cả hệ thống, đồng thời làm ảnh hởng tới
quyền lợi của ngời gửi tiền làm giảm sút lòng tin của họ đối với ngân hàng.
Vì vậy, vai trò điều tiết, giám sát thờng xuyên hoạt động các tổ chức tín
dụng của NHTW là rất cần thiết, một mặt đảm bảo cho sự ổn định của cả hệ
thống ngân hàng, mặt khác bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế, đặc
biệt là của ngời gửi tiền. Nội dung của vai trò này bao gồm: cấp giấy phép hoạt
động; quy định nội dung hoạt động và các quy chế nghiệp vụ đòi hỏi các tổ
chức tín dụng phải tuân theo; thờng xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của các
tổ chức tín dụng; đình chỉ hoạt động hoặc giải thể ngân hàng trong các trờng
hợp vi phạm luật lệ hoặc mất khả năng tài chính sau khi đã áp dụng các biện
pháp tác động. Để thực hiện vai trò này, NHTW đã sử dụng một hệ thống chỉ
tiêu điều tiết đợc phân bổ theo các tiêu thức sau đây:
-Chỉ tiêu phản ứng hiệu quả sử dụng vốn.
-Chỉ tiêu phản ánh tính chất đầy đủ của vốn.
-Chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán, chất lợng tài sản cố định
-Chỉ tiêu khác nh: giới hạn cho vay và bảo lãnh, các phơng pháp tự bảo hiểm
-Hệ thống chỉ tiêu liên quan đến việc thực hiện chính sách tiền tệ.
-Hệ thống chỉ tiêu liên quan đến phân bổ tín dụng cho các mục tiêu u tiên
thông qua quy định, gồm có: tỷ lệ tài sản có trong tổng tài sản có hoặc khống
chế lãi suất.
1.4.3 Ngân hàng trung ơng là ngân hàng nhà nớc.
Ngay từ khi khai sinh NHTW đã đợc xác định là ngân hàng của chính phủ.
Là một cơ quan độc lập, thuộc sở hữu của nhà nớc, đợc thành lập và hoạt động
vì lợi ích quốc gia, NHTW có quyền hạn và nhiệm vụ do nhà nớc quy định và
phải thực hiện các dịch tiền tệ, tín dụng thanh toán cho nhà nớc. Cụ thể :
Trớc hết, ngân hàng trung ơng làm thủ quỹ cho kho bạc nhà nớc thông qua
quản lý tài khoản của kho bạc. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức của từng nớc, chính
phủ có thể uỷ quyền cho Bộ tài chính hoặc kho bạc đứng tên chủ tài khoản.
Hàng ngày, các khoản thu của nhà nớc dới dạng thuế, lợi nhuận hoặc khoản thu
khác đợc gửi vào tài khoản. NHTW có trách nhiệm theo dõi, chi trả, thực hiện
thanh toán và cấp vốn của kho bạc và sử dụng số d đó khi nhàn rỗi. Các khoản
tiền gửi của chính phủ dới dạng vàng, ngoại tệ, các chứng khoán của các tổ
chức khác. Nó chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng tài sản nợ của ngân hàng
trung ơng và thông thờng là các khoản nợ không thời hạn, vì thế khoản ký gửi
của chính phủ trở thành một nguồn vốn cho vay và đầu t của ngân hàng trung -
ơng. Tuy nhiên, ngân hàng trung ơng không phải là nơi duy nhất thực hiện vai
trò thủ quỹ cho chính phủ. ở một số nớc thì một bộ phận lớn vốn của kho bạc đ-
ợc gửi ở các ngân hàng t nhân bởi sự hấp dẫn của lãi suất tiền gửi. Mặc dù vậy,
ở phần lớn các nớc, ngân hàng trung ơng tỏ ra thích hợp với vai trò này hơn cả
bởi bên cạnh việc giữ và quản lý tài khoản cho chính phủ, NHTW còn thực hiện
chức năng đại lý và cấp tín dụng cho chính phủ khi cần thiết.
Thứ hai, NHTW quản lý dự trữ quốc gia, bao gồm các loại tài sản chiến lợc
mà bất kỳ quốc gia nào cũng phải dự trữ cho nhu cầu chi tiêu trong những trờng
hợp cần thiết: vàng, ngoại tệ, chứng từ có giá của nớc ngoài. Dự trữ quốc gia
không phải là loại tài sản tĩnh. Về nguyên tắc, ngân hàng trung ơng chỉ cần giữ
cho dữ trữ không rơi xuống qúa mức tối thiểu mà luật quy định. Còn trong quá
trình hoạt động của mình, ngân hàng trung ơng hoàn toàn có thể sử dụng dự trữ
quốc gia để phục vụ cho thao tác trong chính sách tiền tệ.
Thứ ba, ngân hàng trung ơng có thể cấp tín dụng cho chính phủ trong trờng
hợp cần thiết, nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính hoặc bộ chi
ngân sách vào cuối năm tài chính. Tuy nhiên, do việc cho ngân sách vay trực
tiếp sẽ làm tăng lợng tiền cung ứng, có thể dẫn tới nguy cơ lạm phát nên ngày
nay các NHTW rất hạn chế các khoản tín dụng trực tiếp cho chính phủ.
Thứ t, ngân hàng trung ơng làm đại lý, đại diện và t vấn cho chính phủ.
Dịch vụ đại lý mạng ngân hàng trung ơng cung cấp thờng xuyên và có hiệu quả
cho chính phủ là đại lý trong việc phát hành chứng khoán chính phủ khi chính
phủ có nhu cầu bù đắp thiếu hụt ngân sách. Ngân hàng trung ơng thực hiện một
dịch vụ đại lý toàn phần cho các hoạt động phát hành chứng khoán chính phủ,
gồm có : Thông báo việc phát hành chứng khoán mới về loại chứng khoán,
mệnh giá, số lợng, thời hạn .;nhận đơn và tổ chức đấu thầu; thông báo kết quả
đấu thầu; phân phối chứng khoán trúng thầu và nhận tiền cho kho bạc; tổ chức
thanh toán chứng khoán khi đến hạn thông qua ngân hàng trung gian .
NHTW tổ chức đấu thầu chứng khoán chính phủ thờng xuyên, có thể
hàng ngày nh cục dữ trữ liên bang Mỹ, 3 ngày một lần nh ngân hàng trung ơng
Pháp và một tuần một lần nh của Việt Nam .
Ngoài ra, NHTW còn đại diện cho chính phủ tại các tổ chức tìa chính tiền tệ
quốc tế, ký kết các điều ớc quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo sự uỷ
quyền của chính phủ. ở hầu hết các nớc, chính phủ giao cho bộ tìa chính làm
đại diện tại các tổ chức nh IMF, WB, ADB. Do vậy, Bộ tài chính là cơ quan
chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc theo dõi, tổng hợp và thống nhất quản lý
các khoản vay và trả nợ của chính phủ, quản lý tài chính các nguồn viện trợ và
vay quốc tế. Tuy nhiên, tại một số nớc trong đó có Việt Nam vai trò này đợc
giao cho ngân hàng trung ơng .
Ngân hàng trung ơng hoạt động với t cách là ngân hàng của chính phủ
không chỉ chỉ bởi nó có lợi thế kinh tế để hoàn thành tốt chức năng này mà còn
là bởi mối liên hệ giữa các vấn đề về tài chính công cộng với các vấn đề tiền tệ.
Nhà nớc ở bất cứ quốc gia nào cũng là chủ thể có khoản thu nhập lớn nhất và
đồng thời cũng là chủ thể có nhu cầu vay lớn nhất. Các khoản chi của nó đóng
một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của đất nớc. Vì thế, việc tập trung
các hoạt đông ngân hàng cho chính phủ vào ngân hàng trung ơng sẽ tạo cơ hội
tốt cho ngân hàng trung ơng để điều chỉnh tình trạng tài chính chung và t vấn
cho chính phủ khi cần thiết.
Nh vậy với những chức năng quan trọng nh trên, ngân hàng trung ơng có
một vai trò rất lớn trong việc đảm bảo cho hệ thống tài chính, tiền tệ, tín dụng
hoạt động có hiệu quả, đua nền kinh tế phát triển với tốc đọ cao và ổn định.
ngân hàng trung ơng, sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển hệ thống ngân
hàng, bằng các nghiệp vụ ngân hàng của mình và bằng sự nhanh chóng, sắc bén
trong việc nắm bắt, phân tích diễn biến của thị trờng tài chính, tiền tệ, đã trở
thành ngời chỉ huy cho hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng .Với vai
trò đó, ngân hàng trung ơng đã dẫn dắt toàn bộ hệ thống ngân hàng thực hiện
đầy chức năng của mình, điều tiết đợc khối lợng tiền trong lu thông cho phù
hợp với yêu cầu của nền kinh tế, góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế- xã
hội ; Đồng thời kiểm soát và duy trì sự biến động của đồng tiền ở mức độ cho
phép, ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia, từ đó cân đối tổng cung và tổng
cầu của toàn xã hội, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cơng cho sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nớc .Ngoài ra, ngân hàng trung ơng còn có vai trò thiết lập
và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu
quả và phù hợp với thực tiễn nền kinh tế đất nớc, đa nền kinh tế đất nớc từng b-
ớc hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Trên đây là những chức năng cơ bản của ngân hàng trung ơng, thể hiện rõ
bản chất của nó.Với t cách là một địnhchế công cộng, có thể độc lập hoặc trực
thuộc chính phủ, ngân hàng trung ơng thực hiện chức năng độc quyền phát
hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng cảu chính phủ. Nhng có
thể nói chức năng quyết định bản chất ngân hàng trung ơng ; một ngân hàng
phát hành , là chức năng quản lý vĩ mô về tiền tệ, tín dụng và hoạt động của các
ngân hàng. Việc thực hiện chức năng này không thể tách rời khỏi các nghiệp vụ
ngân hàng của ngân hàng trung ơng, và đợc thể hiện rõ trong việc xây dựng và
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của ngân hàng trung ơng .
Cụ thể của vấn đề này chúng ta sẽ nghiên cứu tiếp ở phần II.
2. Ngân hàng thơng mại
2.1. Khái niệm ngân hàng thơng mại.
Ngân hàng thơng mại là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên.Đó là một tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thờng xuyên là nhạn tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phơng tiện thanh toán .
Ngân hàng thơng mại chủ yếu kkinh doanh trong lĩnh vực ngắn hạn, tuy
nhiên gần đây do thừa vốn nên bắt đầu vơn sang lĩnh vực tín dụng và dài
hạn.ngoài ra, ngân hàng thơng mại còn cung cấp các dịch vụ thanh toán qua
ngân hàng và buôn bán ngoại tệ .
Các ngân hàng thơng mại huy động vốn chủ yếu dới dạng : tiền gửi có thể
phát séc, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn và họ dùng vốn vay này để cho
vay dới các hình thức nh : Cho vay thơng mại, cho vay tiêu dùng, cho vay thế
chấp và để mua các chứng khoán chính phủ, các ttrái phiếu của chính quyền địa
phơng .
Nh vậy, trong bất kỳ một quốc gia nào, ngân hàng thơng mại cũng là nhóm
trung gian tài chính lớn nhất hoạt động vì mục đích thu lợi nhuận. Tổng tài sản
có của ngân hàng thơng mại có khối lợng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân
hàng. Các ngân hàng thơng mại còn có vai trò quan trọng trong qua trình cung
ứng tiền tệ ra lu thông do các khoản tiền gửi không kỳ hạn (đặc biệt là tài khoản
séc) của chúng là bộ phận quan trọng trong tổng lợng tiền.
Ngân hàng thơng mại có cơ chế tổ chức hoạt động nh sau : Mỗi ngân hàng
thơng mại là một dơn vị kinh doanh độc lập cà tự chịu trách nhiệm về kết quả
hoạt động kinh doanh cảu mình.đòng thời các ngân hàng thơng mại đợc quyền
tự do kinh doanh theo khả năng của mình và đợc quyền cạnh tranh với nhau
trong khuôn khổ luật pháp và những quy định của ngân hàng thơng mại nh : tỷ
lệ dữ trữ bắt buộc, lãi suất chỉ đạo, các hệ số an toàn trong kinh doanh ..
Dựa vào các tiêu thức khác nhau, ngân hàng thơng mại đợc phân chia theo
các loại khác nhau.
Dựa trên tiêu thức sở hữu ngời ta phân biệt ngân hàng thơng mại công và
ngân hàng thơng mại t : theo tiêu thức quốc tịch có ngân hàng thơng mại bản xứ
và ngân hàng thơng mại nớc ngoài ; theo tiêu thức số lợng chi nhánh có ngân
hàng thơng mại duy nhất và ngân hàng thơng mại mạng lới ; theo tiêu thức
doanh số hoạt động co ngân hàng thơng mại nhỏ , ngân hàng thơng mại lớn và
ngân hàng thơng mại siêu lớn.
2.2. Nguyên lý chung về quản ly hoạt động ngân hàng thơng mại .
Để đảm bảo hoạt động bình thờng mỗi ngân hàng thơng mại phải thực hiện
tốt 3 nguyên lý cơ bản.
2.2.1 Đảm bảo khả năng thanh toán thờng xuyên đối với khách hàng.
Đảm bảo khả năng thanh toán thờng xuyên với khách hàng la một yêu cầu
cao nhất, chỉ đạo việc quản lý hoạt động của bất kỳ ngân hàng thơng mại nào.
Nó xuất phát từ đặc trng cơ bản của nguồn vốn hoạt động của ngân hàng thơng
mại là dựa vào chủ yếu vào vốn bằng tiền nhàn rỗi xã hội. Hơn nữa nó cũng là
dấu hiệu nói lên khả năng tài chính mạnh hay yếu của một ngân hàng thơng
mại. Nếu không có đủ tiền mặt để thanh toán, ngân hàng có thể rơi vào sự
khủng hoảng, và trong trờng hợp có thể dẫn đến phá sản.
Để duy trì khả năng thanh toán, ngân hàng thơng mại phải bảo đảm ở mọi
thời điểm, toàn bộ tài sản có phải lớn hơn các khoản nợ phải thanh toán. đồng
thời phải bảo đảm trong số tài sản ấy phải có tính thanh toán cao, đủ đáp ứng
nhu cầu rút tiền mặt trang trải hết số thiếu trong thanh toán bù trừ, hoặc những
nhu cầu vay mợn chính đáng của khách hàng. Các khoản dự trữ quá mức là bảo
hiểm giúp ngân hàng chống lại các chi phí gây ra khi nhu cầu rút tiền của khách
hàng tăng lên.
2.2.2 Bảo đảm mức sinh lợi cao.
Mục tiêu cuối cùng cua ngân hàng thơng mại là lợi nhuận. Trong môi trờng
cạnh tranh, ngân hàng thơng mại phải phấn đấu để có mức lợi nhuận cao nhất
mới mong tồn tại và phát triển bền vững. Nó đòi hỏi bất kỳ ngân hàng thơng
mại cũng phải đẩy nhanh hoạt động va đầu t, tức là phải cho vay đợc nhiều và
với thu nhập tiền lãi cao. Tất nhiên khi tìm nhuồn vay, ngân hàng thơng mại
phải thực hiện theo phơng châm là thận trọng nhng không bỏ lỡ cơ hội cho vay
với lãi suất cao. Do đó để quản lý tốt tiền cho vay. Một, nghiệp vụ quan trọng
nhất đối với việc tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng và tránh các rủi ro có thể xảy
ra, ngân hàng phải thực hiện các quy chế sau:
Thứ nhất sàng lọc các đối tợng vay, tức là phải nắm đợc tình hình hoạt động
của ngời cần vay, từ đó lọc ngời mạo hiểm vay tiền có triển vọng tổ ra khỏi ngời
vay tiền có triển vọng xấu.
Thứ hai, tăng cờng giám sát để hạn chế tinh rủi ro đạo đức, ngăn chặn hoạt
động rủi ro mà dẫn đến sự vỡ nợ của ngơì vay. điều đó có khả năng thực hiện đ-
ợc bằng việc quy định hạn chế lợng tiền cho vay. Bằng cách đó ngân hàng th-
ơng mại sẽ giảm bớt rủi ro khi vay.
2.2.3. Xử lý hài hoà mối quan hệ giữa yêu cầu bảo đảm khả năng thanh
toán thờng xuyên và yêu cầu bảo đảm sinh lời cao.
Trong kinh doanh, muốn giữ vững và cạnh tranh đợc, ngân hàng thơng mại
phải vừa đảm bảo khả năng thanh toán thờng xuyên, vừa đảm bảo mức sinh lời
cao. Muốn vậy, ngân hàng thơng mại phải quản lý tốt tài sản C6, sắp xếp tài sản
có theo trật tự tính năng của chúng. Trên cơ sở bảo đảm mức dữ trữ tuyến đầu
( tiền mặt, tiền gửi ở ngân hàng thơng mại và tiền gửi ở các ngân hàng khác ) và
ở mức dự trữ tuyến hai (chứng khoán ngắn hạn ), ngân hàng thơng mại bố trí cơ
cấu hợp lý các khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, dàu t chứng khoán
trung và dài hạn trong mối tơng quan với các nguồn vốn tơng ứng bên tài sản
nợ. Đồng thời, bảo dẩm tỉ lệ cần thiết của vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn
hoặc tỉ lệ giữa vốn đó với tổng tài sản có rủi ro, có bien pháp hữu hiệu phòng
chống rủi ro trong kinh doanh và tiến hành phân tích tác động của biến động rủi
ro lãi xuất ddối với thu nhập của ngân hàng .[Một ngân hàng nếu có nhiều tài
sản nợ loại nhạy cảm với lãi xuất hơn là tài sản nợ, thì một sự tăng lãi suất trên
thị trờng sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, trong khi đó mọtt sự giảm lãi
suất sẽ làm tăng nhuận của ngân hàng. Vì thế khi nhận đợc thông tin về lãi suất
dự kiến sẽ tăng, ngân hàng thơng mại cần có xu hớng giảm tài sản nợ loại nhạy
cảm với lãi suất, còn khi lãi suất có xu hớng giảm thì ứng xử của ngân hàng sẽ
theo xu hớng ngợc lại ]
2.3 Chức năng của ngân hàng thơng mại
Ngân hàng thơng mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu
thờng xuyên là huy động tiền gửi của khách hàng để cho vay, thực hiện nghiệp
vụ chiết khấu và làm phơng tiện thanh toán. Quá trình hình thành và phát triển
của ngân hàng thơng mại gắn liền với sự phát triển của sản xuất và lu thông hàng
hoá. Ngày nay, ngân hàng thơng mại đã phát triển mạnh mẽ cả về số lợng lẫn
chất lợng và trở thành một loại hình ngân hàng chiếm vị trí chủ yếu trong hệ
thống các ngân hàng trung gian.
Ngân hàng thơng mại có các chức năng sau :
2.3.2 Chức năng trung gian tín dụng
Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã
hội đã làm phát sinh mấu thuẫn giữa hiện tợng vốn tiền tệ nhàn rỗi ử chủ thể
kinh tế này, trong khi chủ thể kinh tế khác có nhu ccầu lại thiếu vốn, cần đợc bổ
sung. Giải quyết vấn dề nay , ngân hàng thơng mại đóng vai trò là trung gian tín
dụng , trở thành cầu nối để ngời có vốn và ngời cần vốn gặp nhau.
Gửi tiền Cho vay
Uỷ thác Đầ Đầu t
Đầu t
Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi
trong nền kinh tế , ngân hàng thơng mại hình thàh nên quỹ cho vay của nó rồi
đem cho vay đối với nền kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài
hạn .
Nh vậy, ngân hàng thơng mại vừa đóng vai trò là ngời đi vay vừa đóng vai
trò là ngời cho vay. Với chức năng này, ngân hàng thơng mại, đã góp phần tạo
lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ. Cụ thể :
Đối với bản thân ngân hàng thơng mại, họ sẽ tìm kiếm đợc lợi nhuận cho
mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng mối
giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thơng
mại. Đối với ngời gửi tiền, họ thu đợc lợi từ vón tạm thời nhàn rỗi của mình do
ngân hàng trả lãi tiền gửi cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an
toàn và cung cấp các phơng tiện thanh toán .
Đối với ngời đi vay, họ sẽ thoả mãn đợc nhu cầu vốn đẻ kinh doanh, chi tiêu,
thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm
nơi cung ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp . Đối với nền kinh tế, chức
năng nàycủa ngân hàng thơng mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
Ngời cần vốnNgời có vốn
Ngân hàng
thơng
mại