Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Câu hỏi: Đánh giá thực trạng về hoạt động thị trường taì chính tiền tệ và thị trường ngoại hối ở Việt Nam pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.57 KB, 29 trang )

Câu hỏi: Dánh giá thực trạng về hoạt động thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối ở Việt nam.
A.Thị trường tiền tệ
Phần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm thị trường tiền tệ
- “Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn có kỳ hạn dưới một
năm, là nơi đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh tế”
- Ở nước ta, thị trường tiền tệ mới hình thành, công cụ giao dịch trên thị trường tiền tệ còn ít nên
luật pháp cho phép các giấy tờ có giá dài hạn được phép giao dịch trên thị trường tiền tệ. Theo
điều 9, luật sửa đổi một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước (2003) định nghĩa: “Thị trường
tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, bao gồm tín phiếu
kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác”.
2. Các loại thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ được phân loại căn cứ vào cách thức tổ chức hoặc loại công cụ.
2.1. Phân loại theo cơ cấu tổ chức:
Thị trường tiền tệ bao gồm:
- Thị trường tiền tệ cổ điển: là thị trường vay vốn ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng
(TCTD) đặt dưới sự quản lý của ngân hàng trung ương (NHTW). Hàng ngày, tại đây hình thành
lãi suất chỉ đạo thị trường tiền tệ, như: lãi suất LIBOR trên thị trường tiền tệ London (London
Inter Banking Offered rate), lãi suất PIBOR trên thị trường tiền tệ Paris (Paris Inter Banking
Offered rate), SIBOR (thị trường tiền tệ Singapore)…
- Thị trường tiền tệ mới: đây là thị trường các trái phiếu ngắn hạn, cơ cấu của nó gồm 2 cấp:
+ Thị trường tiền tệ sơ cấp: là thị trường tiền tệ chuyên phát hành các loại trái phiếu
ngắn hạn lần đầu.
+ Thị trường tiền tệ thứ cấp: là thị trường tiền tệ tổ chức mua bán lại các trái phiếu đã
phát hành ở thị trường sơ cấp.
+ Thị trường mở (Openmarket operation): là thị trường mua bán các loại chứng khoán
nhà nước ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, nhằm điều tiết cung cầu tiền tệ
trong nền kinh tế. Tức thông qua thị trường mở, NHTW có thể làm cho “tiền dự trữ” của các
ngân hàng thương mại (viết tắt NHTM) tăng lên hoặc giảm xuống, từ đó tác động đến khả năng
cung cấp tín dụng của NHTM làm ảnh hưởng đến khối lượng tiền tệ của nền kinh tế.
2.2. Phân loại theo đối tượng tham gia: Thị trường tiền tệ bao gồm:


- Thị trường tín dụng ngắn hạn giữa các NHTM (hay thị trường liên ngân hàng – Interbank):
Thị trường này dưới sự điều hành của NHTW nhằm mục đích điều tiết vốn trong hệ thống
NHTM đồng thời tạo điều kiện cho NHTW thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng.
- Thị trường các công nợ ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, kỳ phiếu ngân
hàng, chứng chỉ tiền gửi, các khế ước cho vay . bao gồm cả thị trường phát hành và thị trường
1
lưu thông, thị trường này biểu hiện cho sự phát triển thị trường tiền tệ.
- Thị trường hối đoái: là thị trường giao dịch các loại ngọai tệ và các phương tiện thanh tóan
có giá trị ngoại tệ, là một bộ phận quan trọng trong kết cấu thị trường tiền tệ. Thị trường ngọai
hối mang đặc trưng là tính quốc tế cao, hoạt động của nó đáp ứng những nhu cầu về thương mại,
đầu tư ngắn hạn trên bình diện quốc tế, đặc biệt là tạo điều kiện can thiệp của NHTW nhằm đảm
bảo sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia.
Công cụ hoạt động thị trường hối đoái, gồm: hợp đồng giao ngay (Spot), hợp đồng hoán đổi
(Swap), hợp đồng kỳ hạn (Forward), hợp đồng quyền chọn (Option)…. nhờ đó đáp ứng được
phần lớn nhu cầu ngoại tệ cho các đơn vị, tổ chức và làm cho thị trường ngoại hối trở nên nhộn
nhịp hơn.
3. Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ
- Trong quá trình phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng là hình thức sơ
khai của thị trường tiền tệ hoạt động với mục đích cân đối, điều hòa vốn giữa các NHTM với các
TCTD nhằm khai thông khả năng thanh toán cho các TCTD. Vì vậy, nếu xét theo chiều ngang,
thị trường tiền tệ biểu hiện quan hệ điều tiết vốn giữa các NHTM, các TCTD. Còn nếu xét theo
chiều dọc, thị trường tiền tệ biểu hiện mối quan hệ giữa NHTW và NHTM qua con đường tái
chiết khấu, trong đó lãi suất tái chiết khấu là một công cụ linh hoạt để NHTW điều tiết vĩ mô nền
kinh tế trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
Ngày nay, quy mô họat động của thị trường tiền tệ được mở rộng về phạm vi điều tiết vốn,
theo đó các chủ thể tham gia trên thị trường đa dạng hơn.
Các chủ thể tham gia trên thị trường tiền tệ bao gồm:
- Chủ thể cung ứng nguồn vốn như: NHTW, NHTM, các TCTD khác… Việc đầu tư nguồn
vốn ngắn hạn trên thị trường này có độ rủi ro thấp, do trong thời gian ngắn giá cả chứng khoán
biến động không đáng kể.

- Chủ thể có nhu cầu về vốn như: NHTM, các đơn vị kinh tế khác, kho bạc nhà nước
Thông qua thị trường tiền tệ, các chủ thể này có thể thu hút được nguồn vốn ngắn hạn dễ dàng và
chi phí thấp.
- Chủ thể trung gian môi giới, vừa đi vay và vừa cho vay như: NHTM, Công ty chuyên môi
giới.
4. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ
4.1. Nghiệp vụ vay và cho vay vốn ngắn hạn
Nghiệp vụ này diễn ra chủ yếu giữa các NHTM, xuất phát từ họat động kinh doanh tiền tệ,
tại một thời điểm nhất định một số NHTM tạm thời thừa vốn trong khi đó một số NHTM khác
rơi vào tình trạng thiếu vốn tạm thời. Do đó để đảm bảo cho khả năng thanh toán, quan hệ điều
tiết vốn giữa các NHTM diễn ra thông qua các hình thức sau:
- Cho vay bằng tiền mặt: Khi NHTM thiếu hụt vốn tạm thời, có thể đi vay tại một NHTM
khác đang thừa vốn tạm thời tại thời điểm đó để đảm bảo khả năng thanh toán. Giao dịch liên
ngân hàng chủ yếu dưới hình thức tín chấp hoặc đảm bảo bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân
hàng cho vay…; Thời hạn cho vay rất ngắn: hàng ngày (qua đêm), định kỳ 1 tuần, 2 tuần,
tháng…
- Cho vay dưới hình thức cầm cố hoặc chiết khấu các chứng từ có giá: Khi có nhu cầu lớn
2
về vốn, các NHTM đã vay các TCTD khác nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì NHTW có
thể hỗ trợ bằng các nghiệp vụ sau:
+ Tái chiết khấu chứng từ có giá: NHTW sẽ nhận chiết khấu lại những chứng từ có giá
mà trước đây NHTM đã chiết khấu cho khách hàng.
+ Bảo chứng lại: NHTW sẽ cho NHTM vay vốn trên cơ sở cầm cố các chứng từ có giá
mà trước đây NHTM đã nhận cầm cố từ khách hàng.
4.2. Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn
Công cụ chủ yếu của nghiệp vụ này là các loại trái phiếu ngắn hạn được phát hành từ thị
trường tiền tệ sơ cấp và bán lại ở thị trường thứ cấp.
Nghiệp vụ này phát sinh trong trường hợp một số chủ thể kinh tế cần bổ sung vốn bằng tiền
của mình nên phát hành một lượng trái phiếu ngắn hạn ra thị trường, trong khi một số chủ thế
khác đang muốn sinh lợi cho khoản vốn nhàn rỗi của mình bằng con đường kinh doanh trên thị

trường tiền tệ, họ sẽ mua bán trái phiếu ngắn hạn. Ở nghiệp vụ này, ngoài trái phiếu ngắn hạn thì
còn có kỳ phiếu thương mại, khế ước nợ, kỳ phiếu ngân hàng, các lọai thư tín dụng…. Và đặc
biệt là họat động của thị trường mở - thực hiện việc mua bán ngắn hạn dưới 1 năm các giấy tờ có
giá trị như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Thông qua nghiệp vụ này, NHTW điều tiết cung cầu về
tiền tệ: tùy theo mục tiêu từng thời kỳ mà NHTW bơm tiền hay rút bớt tiền ra khỏi lưu thông.
Phần 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM
Do sự bất ổn định trên thị trường tiền tệ thế giới vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008 mà cụ
thể nhất là cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ do giá nhà đất sụt giảm làm cho đồng USD
mất ổn định mà đỉnh điểm của sự mất giá đồng USD là ngày 15/04/2008 tỉ giá
EUR/USD=1,6000 đi kèm với việc đồng USD mất giá là giá dầu thô và vàng liên tục lập những
kỷ lục mới, có lúc vàng tiến đến 1031USD/ounces và dầu đã lập kỷ lục với mức 135USD/thùng
đã làm cho lạm phát tăng cao trên toàn thế giới.Mặt khác trong thế giới ngày nay sự đan xen và
phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia là không tránh khỏi đã gây nên những xáo trộn trên thị
trường hối đoái của các nước trong đó có Việt Nam.
- Song song với nguyên nhân trên còn có nguyên nhân là do sự yếu kém xuất phát từ nội tại
của nền kinh tế trong điều hành chính sách vĩ mô nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ mà cụ
thể là việc điều hành chính sách tỉ giá có lúc tỉ giá do NHNN công bố xuống 15.700 VND ăn 1
USD và trên thị trường tự do là VND/USD=15.500 trong tháng 02/2008 nhưng đến ngày
27/05/2008 thì mọi chuyện hoàn toàn ngược lại tỉ giá chính thức do ngân hàng nhà nước công bố
là VND/USD16.212 nhưng trên thị trường tự do VND/USD=17.550.
- Một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng do nhập siêu trong 5 tháng đầu
năm 2008 quá cao 14,4tỉ USD(do có lúc doanh nghiệp xuất khẩu không bán được USD) cộng với
tâm lý của người dân khi lạm phát tăng cao(15,96%) nên đổ xô đi mua USD tích trữ làm cho thị
trường ngoại tệ biến đổi khó lường trong thời gian qua trong khi đó trên thị trường quốc tế
EUR/USD =1,579 tức đồng USD đang mất giá.
1. Thị trường liên ngân hàng
- Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời theo Chỉ thị 07/CT-NH1 ngày 07/10/1992 của
3
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho phép các TCTD được thực hiện cho vay và đi
vay lẫn nhau và chính thức hoạt động từ tháng 7/1993. Theo Quyết định số 114/QĐ-NH14 ngày

21/6/1993 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng và Quyết định
số 190/QĐ-NH14 ngày 06/10/1993 về việc bổ sung, sửa đổi Quy chế tổ chức và hoạt động của
thị trường liên ngân hàng, thị trường nội tệ liên ngân hàng được hình thành dưới hình thức là một
thị trường tập trung có tổ chức qua Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và gắn liền với các trung tâm
thanh toán bù trừ (Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội) số lượng thành viên tham gia
và doanh số hoạt động rất hạn chế; trong đó, những thành viên là NHTM Nhà nước có khả năng
chi phối trên cả giác độ huy động vốn và cho vay vốn do có lợi thế về tài chính và uy tín. Từ năm
1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau
không thực hiện thông qua NHNN. Các Ngân hàng thỏa thuận phương thức giao dịch, thời hạn,
lãi suất cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức độ tín nhiệm và có sự tham gia tích
cực của NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đến nay, phần
lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư
tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay; thậm chí một số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay
mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn nhau.
* Kết quả đạt được
- Số lượng thành viên và doanh số hoạt động trên thị trường liên ngân hàng đã tăng đáng kể,
phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao dịch đều thực hiện qua
mạng, thời hạn của các giao dịch khá linh hoạt (qua đêm, 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng, 12 tháng).
Hiện nay, gần 30 NHTM đã thực hiện giao dịch vốn liên ngân hàng (gửi tiền/cho vay và
nhận tiền gửi/đi vay) thông qua hệ thống của Hãng Reuters. Hãng Reuters đã xây dựng được
trang lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam (VNIBOR) trên cơ sở
chào giá hàng ngày của một số ngân hàng.
- “ Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng từ năm 2002 đến nay, theo đánh giá
của các chuyên gia ngân hàng thì doanh số giao dịch tăng khoảng 20% mỗi năm”. Kết quả trên
đã chứng minh thị trường nội tệ liên ngân hàng đã thực hiện được vai trò điều tiết vốn ngắn hạn
bằng đồng Việt Nam giữa các ngân hàng, làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các TCTD
an toàn, hiệu quả.
- Bên cạnh phát triển thị trường liên ngân hàng, nghiệp vụ tái cấp vốn đã được NHNN từng
bước đổi mới, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ, thực hiện vai trò là

người cho vay cuối cùng của nền kinh tế:
+ “Đến nay, tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM chủ yếu được thực hiện dưới các
hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá. Các hình
thức cho vay theo chỉ định của Chính phủ trước đây (từng chiếm tỷ trọng lớn trong cho vay tái
cấp vốn) đã giảm mạnh qua các năm” (Phùng Khắc Kế, 2006).
+ Cơ sở pháp lý cho các hoạt động nghiệp vụ tái cấp vốn hoàn thiện; thủ tục, quy trình nghiệp vụ
tái cấp vốn được cải tiến theo hướng tinh giản và thuận lợi:
Năm 2003, Luật sửa đổi một số điều của luật NHNN đã cho phép giấy tờ có giá dài hạn như các
loại trái phiếu của Chính phủ được sử dụng trong các giao dịch giữa NHNN và các ngân hàng;
4
NHNN ban hành đầy đủ các quy chế nghiệp vụ tái cấp vốn. Thời gian xử lý đề nghị xin vay giảm
xuống còn 2 ngày (trước đây 5 ngày).
+ Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu ngày càng được điều hành linh hoạt, phù hợp
với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm 2003 đến nay, lãi suất tái cấp vốn và
lãi suất tái chiết khấu được điều chỉnh dần để hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị
trường. Cùng với việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu để trở thành lãi suất sàn, NHNN đã thực
hiện phân bổ hạn mức chiết khấu cho từng ngân hàng. Qua đó, nghiệp vụ chiết khấu được điều
hành như một kênh thường xuyên với giá rẻ từ NHNN. Trong khi đó nghiệp vụ cho vay có bảo
đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá áp dụng lãi suất tái cấp vốn là mức lãi suất trần để NHNN từng
bước thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng trên thị trường.
+ Hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp
thời nhu cầu thanh khoản của các NHTM, nhất là vào các thời điểm cuối năm và gần Tết Nguyên
đán.
* Những bất cập, tồn tại và hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng thị trường liên ngân hàng vẫn còn
nhiều bất cập, hạn chế cần hoàn thiện. Đó là:
- Số lượng các thành viên tham gia và quy mô giao dịch còn hạn chế và phần lớn là để giải quyết
nhu cầu về khả năng thanh toán: Trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã hình thành nhóm các
ngân hàng thường cung ứng nguồn tiền VND chủ yếu là các NHTM Nhà nước và ngược lại
nhóm các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài là các ngân

hàng thường có nhu cầu vay VND. Việc điều chuyển vốn thường chỉ diễn ra một chiều giữa
nhóm các ngân hàng thường cho vay và nhóm ngân hàng thường đi vay.
- Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất tái cấp vốn chưa phản ánh chính xác quan hệ
cung cầu và xu hướng vận động của thị trường tiền tệ.
- Vai trò của NHNN trong việc thu thập thông tin diễn biến thị trường liên ngân hàng và tham
gia điều tiết thị trường khá mờ nhạt, đặc biệt là cơ chế xử lý trong trường hợp cung lớn hơn cầu
vốn trên thị trường.
- Hoạt động tái cấp vốn mới chỉ dừng lại ở mục đích bổ sung nguồn vốn ngắn hạn và
phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng, các chức năng nhằm điều chỉnh các điều kiện
tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ, điều chỉnh quá trình phát triển kinh tế về quy mô và cơ
cấu đầu tư dựa trên sự cấp vốn theo thời gian, theo lĩnh vực ngành kinh tế, theo từng vùng lãnh
thổ chưa được phát huy.
- Việc phân bổ hạn mức chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN với các ngân hàng mới
chỉ dựa trên các yếu tố như tổng dư nợ bằng đồng Việt Nam, tổng tài sản Có và vốn tự có của
ngân hàng mà chưa tính tới khối lượng giấy tờ có giá mà các ngân hàng nắm giữ, do đó chưa phù
hợp với nhu cầu và đặc biệt chưa kích thích việc tích cực nắm giữ giấy tờ có giá đủ điều kiện tái
cấp vốn.
2. Thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc
- Nghiệp vụ thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc được thực hiện từ tháng 5/1995 và trải
5
qua các giai đoạn phát triển sau:
+ Từ năm 1995 đến 1999: Phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc;
+ Từ năm 1999 đến 2003: Phát hành tín phiếu kho bạc;
+ Từ năm 2003 đến nay: Phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu ngoại tệ (USD, kỳ
hạn 5 năm).
Theo Thông tư 19/2004/TT-BTC ngày 18/3/2004 của Bộ Tài chính, hiện nay có hai
loại trái phiếu đang được đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước là: Tín phiếu kho bạc Nhà nước và
Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ (trái phiếu ngoại tệ).
- Thành viên thị trường: Trước đây, số đơn vị được NHNN công nhận thành viên thị trường
đấu thầu Trái phiếu kho bạc là 47 thành viên. Tuy nhiên trong quá trình tham gia, có một số

thành viên đã không tham dự một phiên đấu thầu nào. Sau khi áp dụng Quy chế đấu thầu Trái
phiếu chính phủ (TPCP) theo Quyết định 935/2004/QĐ-NHNN ngày 23/7/2004 và triển khai
chương trình đấu thầu TPCP qua mạng, NHNN xem xét và công nhận tổng số thành viên thị
trường đấu thầu TPCP đến nay là 20 thành viên (chi tiết phụ lục 01).
2.1. Kết quả đạt được
- Việc đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã mở ra một kênh huy động vốn với chi phí
thấp cho Ngân sách Nhà nước. Doanh số và tỷ trọng tín phiếu Kho bạc phát hành dưới hình thức
đấu thầu qua NHNN trong tổng doanh số huy động vốn của Kho bạc Nhà nước tăng qua các
năm. Điều này phù hợp với xu thế phát triển thị trường và thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, thị
trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc đã trở thành nguồn cung cấp hàng hóa chủ yếu cho các giao
dịch nghiệp vụ tiền tệ giữa NHNN với các NHTM, nhất là nghiệp vụ thị trường mở để thực thi
chính sách tiền tệ quốc gia.
Kỳ hạn tín phiếu Kho bạc đến nay đã đa dạng hơn trước, gồm 364 ngày, 273 ngày và 182 ngày.
Bên cạnh các NHTM Nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài cũng đã từng bước trở thành thành viên tham gia thị trường.
Khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành qua các năm:
Năm thực hiện Tín phiếu kho bạc Trái phiếu ngoại tệ
Số phiên Khối lượng trúng thầu
(tỷ đồng) Số phiên Khối lượng trúng thầu
(USD)
1995 (từ tháng 5) 4 243,60
1996 16 823,40
1997 37 2.917,50
1998 46 4.020,70
1999 45 3.011,60
2000 43 4.441,00
2001 46 3.915,00
2002 50 8.410,00
2003 51 15.901,00 5 9.000.000,00
2004 48 19.465,00 5 5.500.000,00

6
2005 60 22.120,60 7 Không có
2006 48 22.075,10 Không có
Tổng cộng 498 107.344,50 17 14.500.000,00
- Số lượng thành viên tham gia trên thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc vẫn còn hạn
hẹp, thành viên chủ yếu vẫn là các NHTM.
- Lãi suất trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc vẫn còn nhiều bất cập. Hiện nay,
lãi suất áp dụng lãi suất chỉ đạo trong đấu thầu tín phiếu Kho bạc nên lãi suất trúng thầu chưa
hình thành theo các nguyên tắc thị trường.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn có những hạn chế nhất định.
3. Nghiệp vụ thị trường mở
- Thị trường mở được chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2000 và vận hành theo Quy
chế hoạt động thị trường mở được ban hành kèm theo Quyết định số 85/2000/QĐ – NHNN14
ngày 09/3/2000. Qua quá trình hoạt động, NHNN đã không ngừng hoàn thiện cơ sở pháp lý để
thị trường mở ngày càng phát huy vai trò, tác dụng trong sự phát triển của thị trường tiền tệ.
- Các công cụ tài chính được phép giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở bao gồm các loại
giấy tờ có giá (GTCG) phát hành bằng đồng Việt Nam như: Tín phiếu NHNN, TPCP (tín phiếu
kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ
phát hành công trái) và trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh
và TP Hà Nội phát hành bằng đồng VN và có thời hạn còn lại tối đa là 91 ngày (Đối với trường
hợp mua, bán hẳn) và dài hơn thời hạn mua, bán (Đối với trường hợp mua hoặc bán có kỳ hạn).
3.1. Kết quả đạt được:
- Số thành viên tham gia tăng lên hàng năm. Đến nay có 35 thành viên tham gia.
- Tần suất và khối lượng trúng thầu tăng dần qua các năm. Từ tháng 11/2004,
NHNN đã tăng định kỳ giao dịch lên 3 phiên/ tuần và đến nay mỗi ngày có từ 2 đến 3 phiên giao
dịch. Bên cạnh đó, NHNN còn mở các phiên giao dịch đột xuất hoặc các phiên giao dịch hàng
ngày vào những dịp giáp Tết để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, không để xảy ra tình trạng
mất khả năng thanh toán cũng như chậm trả đối với khách hàng. Nhờ đó, hoạt động ngân hàng
được diễn ra bình ổn, củng cố uy tín của hệ thống ngân hàng.
KHỐI LƯỢNG GIAO DỊCH NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỞNG MỞ

(12/7/2000 – 31/12/2006)
Năm thực hiện Số phiên thực hiện Khối lượng trúng thầu theo các phương thức giao
dịch (tỷ đồng)
Mua kỳ hạn Mua hẳn Bán kỳ hạn Bán hẳn Tổng cộng
2000 17 873,50 480,00 550,00 1.903,50
2001 48 3.253,81 60,00 50,00 570,00 3.933,81
7
2002 85 7.245,53 1.900,00 9.145,53
2003 107 9.844,15 11.340,00 21.184,15
2004 123 60.985,91 950,00 61.935,91
2005 159 100.679,15 700,00 1.100,00 102.479,15
2006 155 26.332,77 200,00 86.102,00 112.634,77
Tổng cộng 694 209.214,82 540,00 950,00 102.512,00 313.216,82
- Các thủ tục giao dịch nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục được cải tiến, cơ chế hoạt động tiếp
tục được hoàn thiện. Năm 2004, NHNN đã ban hành Quy chế lưu ký giấy tờ có giá tại NHNN
ban hành kèm theo Quyết định số 1022/2004/QĐ-NHNN ngày 17/8/2004. Đây là cơ sở pháp lý
tạo điều kiện cho các TCTD thực hiện thống nhất việc lưu ký các giấy tờ có giá phục vụ cho các
giao dịch trên thị trường tiền tệ. Ngoài ra, NHNN đã mở tài khoản lưu ký giấy tờ có giá tại Trung
tâm giao dịch chứng khoán để tạo điều kiện cho việc lưu ký các giấy tờ có giá phát hành trên thi
trường chứng khoán được thuận lợi, đơn giản hơn. Đặc biệt NHNN đã bắt đầu giao dịch đặt thầu
và đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở qua mạng, tạo thuận lợi cho các thành viên tham gia thị
trường.
- Chủng loại giấy tờ có giá được giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở được mở rộng.
(Năm 2004, NHNN cho phép trái phiếu công trình trung ương được sử dụng trong các giao dịch
nghiệp vụ thị trường mở).
3.2. Một số hạn chế, bất cập
- Luật công cụ chuyển nhượng đã có hiệu lực từ năm 2006 nhưng chưa có văn bản
hướng dẫn thực hiện.
- Các giấy tờ có giá có thể sử dụng trong các giao dịch trên thị trường tiền tệ vẫn tập
trung chủ yếu ở các NHTM Nhà nước. Một số công cụ đã được sử dụng khá phổ biến trên thị

trường tiền tệ các nước như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi nhưng hầu như vẫn chưa được
hình thành, hoặc còn ít sử dụng ở Việt Nam.
- Kỳ hạn của các trái phiếu Chính phủ – công cụ chủ yếu sử dụng trong nghiệp vụ thị
trường mở vẫn chưa thực sự đa dạng, nhất là tín phiếu Kho bạc với thời hạn ngắn dưới 6 tháng.
- Số lượng thành viên tham gia hạn hẹp nên lãi suất nghiệp vụ thị trường mở chưa phản
ánh đúng quan hệ cung-cầu về vốn trên thị trường.
4. Thị trường hối đoái
4.1. Kết quả đạt được
Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động
kinh doanh hối đoái, đa dạng hoá các loại hình giao dịch trên thị trường; tạo các công cụ phòng
ngừa rủi ro trước những biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị trường trong tương lại; giúp cho
các nhà xuất khẩu, nhập khẩu, các đơn vị kinh tế chủ động trong kinh doanh; thúc đẩy và phát
triển các giao dịch hối đoái để góp phần hoàn thiện thị trường hối đoái ở Việt Nam.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chính thức được hình thành từ năm 1994. Thị trường này giúp
kết nối cung cầu ngoại tệ cho các ngân hàng. Qua thị trường này, NHNN đã theo dõi được các
giao dịch về ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, thấy được diễn biến cung cầu và tham gia thị
trường với vai trò là người mua bán cuối cùng. NHNN tham gia thị trường này nhằm thực thi
8
chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Kể từ năm 1999, ngoài điều hành linh hoạt tỷ giá, NHNN
còn thực hiện các biện pháp can thiệp kịp thời tỷ giá trên thị trường giúp các NHTM cân đối
ngoại tệ đã góp phần làm ổn định tỷ giá.
4.2. Một số hạn chế, bất cập
- Thị trường ngoại hối của Việt Nam vẫn thuộc loại kém phát triển, ngay cả khi so với các nước
trong khu vực, kể cả quy mô và chiều sâu do chất lượng quản lý không cao, thiếu thống nhất, các
quy định lỏng lẻo, tạo điều kiện cho những hành vi vi phạm về quản lý. Phổ biến tình trạng niêm
yết giá cả bằng ngoại tệ, thanh toán, mua bán ngoại tệ bất hợp pháp vẫn còn diễn ra phổ biến, các
nguồn thu bằng ngoại tệ vẫn còn phân tán trong nhân dân, doanh nghiệp hoặc một số quỹ ngoại
tệ khác, chưa được thu hút vào hệ thống ngân hàng, chưa nâng cao được tính chuyển đổi của
đồng Việt Nam và chưa phát huy được tác dụng trong việc khắc phục tình trạng đô la hóa của
nền kinh tế.

- Những vấn đề hết sức quan trọng của kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập sâu và rộng
như tỷ giá, thị trường ngoại hối, quản lý dự trữ mới chỉ được xác lập ở các nguyên tắc cơ bản mà
chưa được điều chỉnh rõ ràng về các giao dịch. Đối với công cụ tỷ giá: Nếu như trước đây
NHNN vẫn khống chế biên độ tỷ giá (±0.5%) trong một thời gian dài thì nay đã cho phép các
NHTM giao dịch trong biên độ (±1%) điều này đã hạn chế quyền chủ động linh hoạt của các
NHTM trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ có liên quan đến ngoại hối.
- Các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị
trường ngoại hối.
Phần 3:
MỤC TIÊU ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT
NAM ĐẾN 2010 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2015
1. Mục tiêu, định hướng:
1.1. Mục tiêu
Ổn định và phát triển thị trường tiền tệ để thực hiện có hiệu quả vai trò điều tiết cung cầu vốn
ngắn hạn, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Định hướng:
Để thực hiện mục tiêu trên, thị trường tiền tệ Việt Nam cần phát triển theo định hướng sau: Phát
triển thị trường tiền tệ an toàn hiệu quả, đồng bộ, mang tính cạnh tranh cao nhằm tạo cơ sở quan
trọng cho hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, huy động và phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Theo đó, thị trường tiền tệ sẽ
phát triển mạnh trên cơ sở tổ chức lại và củng cố thị trường liên ngân hàng với cơ chế hoạt động
thông thoáng, tăng cường vai trò giám sát, điều hành, khả năng kiểm soát, điều tiết thị trường của
NHNN; phát triển thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc; tăng cường hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở, tăng số lượng và chủng loại chứng khoán có độ an toàn và tính thanh khoản cao được
phép giao dịch; tăng cường sự liên kết giữa các thị trường tiền tệ bộ phận, giữa thị trường tiền tệ
và thị trường chứng khoán nhằm tăng tính linh hoạt của thị trường, khả năng phòng ngừa và khả
năng chuyển đổi rủi ro giữa các thị trường; hạn chế can thiệp hành chính vào hoạt động thị
trường tiền tệ.
2. Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ đến năm 2010 và tầm nhìn 2015

9
2.1. Giải pháp trước mắt
2.1.1 – Tháo gỡ ngay một số vướng mắc pháp lý để tạo thuận lợi cho các giao dịch trên
thị trường tiền tệ và tăng cường công cụ giao dịch thị trường:
- Đề nghị Chính phủ cho phép trái phiếu đặc biệt được giao dịch trên thị trường tiền tệ như các
loại trái phiếu khác của Chính phủ.
- Đề nghị Bộ Tài chính xem xét phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc với nhiều loại kỳ hạn.
- Đề nghị NHNN bổ sung, sửa đổi một số qui định để tăng thêm tính thông thoáng cho thị
trường:
+ Sửa đổi quy chế cho vay cầm cố bằng giấy tờ có giá của NHNN đối với các ngân hàng theo
hướng không qui định điều kiện thời hạn còn lại của giấy tờ có giá dài hạn được phép cầm cố
(qui định hiện nay là không quá 2 năm); đồng thời có thể giải chấp ngay các giấy tờ có giá cầm
cố bảo đảm nợ đã quá hạn thanh toán để tăng cung cho thị trường;
+ Sửa đổi Quy chế chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN theo hướng quy định
hạn mức tín dụng trên cơ sở giá trị giấy tờ có giá NHTM nắm giữ để phù hợp nhu cầu của từng
ngân hàng và khuyến khích các NHTM tăng cường giao dịch, nắm giữ giấy tờ có giá đủ điều
kiện giao dịch trên thị trường mở và bảo đảm trong nghiệp vụ tái cấp vốn.
+ Bổ sung nghiệp vụ bảo lãnh phát hành vào Quy chế bảo lãnh của ngân hàng đối với khách
hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành giấy tờ có giá của doanh nghiệp, làm nền tảng
cho sự phát triển của thị trường tiền tệ trong tương lai và là cầu nối giữa thị trường tiền tệ và thị
trường chứng khoán.
2.1.2 - Điều hành linh hoạt thị trường mở và thị trường đấu thầu trái phiếu chính phủ:
- Điều hành linh hoạt thị trường mở với việc tăng số phiên và khối lượng giao dịch, đa dạng hoá
kỳ hạn và lãi suất để hút vốn khả dụng tạm thời dôi dư của các TCTD.
- Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước
đấu thầu hàng quý, hàng năm và linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn
biến thị trường.
2.2. Các giải pháp thường xuyên và lâu dài
2.2.1. Không ngừng hoàn thiện khung pháp lý cho sự phát triển của thị trường tiền tệ
- Hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Công cụ chuyển nhượng để mở rộng áp

dụng các công cụ mới trên thị trường. Đối với các công cụ đã hình thành trên thị trường như
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu của các NHTM cần tiếp tục chuẩn hóa để tạo điều kiện cho các
công cụ này được giao dịch trên thị trường thứ cấp.
- Ban hành đồng bộ văn bản hướng dẫn thực hiện các công cụ phái sinh, công cụ phòng ngừa rủi
ro theo thông lệ quốc tế; đẩy mạnh các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi, cho phép các NHTM thực
hiện giao dịch quyền chọn, tương lai để phòng ngừa rủi ro tỷ giá, góp phần cải thiện tính thanh
khoản cho thị trường.
- Tiếp tục hoàn thiện các văn bản tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường thứ cấp
(như ban hành quy định về việc mua bán giấy tờ có giá giữa các TCTD; bổ sung, sửa đổi quy
định về việc chiết khấu giấy tờ có giá của TCTD đối với khách hàng ) nhằm tăng tính thanh
khoản của các công cụ trên thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ
chức tín dụng và các thành viên khác trên thị trường.
- Tiếp tục triển khai việc hoàn thiện các văn bản pháp lý cho việc hình thành và phát triển các
thành viên chuyên nghiệp trên thị trường tiền tệ nhất là các nhà tạo lập thị trường: các định chế
chuyên nghiệp, định chế tài chính trung gian.
2 2.2. Thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn thị trường của
NHNN.
10
- Nâng cao năng lực, hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc đổi mới và hoàn thiện
các công cụ chinh sách tiền tệ gián tiếp nhất là nghiệp vụ thị trường mở.
- Điều chỉnh linh hoạt biên độ tỷ giá cho từng thời kỳ.
- Tăng cường công tác phân tích, dự báo thị trường.
- Nâng cấp và đồng bộ hóa máy móc thiết bị, chương trình phần mềm, ứng dụng nối mạng trong
các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ, đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Chính phủ qua NHNN.
- NHNN tăng cường công tác phổ biến, hướng dẫn các thành viên thị trường tiếp cận với các
công cụ thị trường tiền tệ.
2.2.3. Tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn, năng lực kinh doanh của các tổ chức tín
dụng- các thành viên chủ yếu của thị trường
- Hoàn thiện hệ thống thông tin thanh toán nhằm thực hiện quản lý vốn tập trung, trực tuyến điều
chuyển vốn linh hoạt trong nội bộ từng hệ thống ngân hàng, cũng như giữa các ngân hàng ; đẩy

mạnh thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực quản lý kinh doanh, năng lực tài chính và sức
cạnh tranh.
- Các NHTM tăng cường công tác đào tạo cán bộ trong hoạt động thị trường tiền tệ, nâng cao
trình độ kinh doanh, giao dịch tiền tệ cùng với việc xây dựng các biện pháp đảm bảo an toàn và
phòng ngừa rủi ro trong hoạt động.
B.Thị trường ngoại hối
Cơ sở lí luận về thị trường ngoại hối
I. khái niệm và đặc điểm của thị trường ngoại hối
1. Khái niệm :
Thị trường ngoại hối có tên tiếng Anh là : The Foreign Exchange Market, và được viết tắt là
FOREX hay FX.
Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản: Thị Trường Ngoại Hối là nơi diễn ra sự mua bán các
loại tiền tệ của nhiều quốc gia trên thế giới thông qua hệ thống chuyển đổi thả nổi tự do.
Trong thực tế, do hoạt động mua bán tiền tệ xảy ra chủ yếu giữa các ngân hàng ( chiếm khoảng
85% tổng doing số giao dịch ), chính vì vậy, theo nghĩa hẹp ( nghĩa thực tế ) thì thị trường ngoại
hối là nơi mua bán ngoại tệ giữa các ngân hang, tức thị trường Interbank.

11
Bất kì đâu diễn ra hoạt động mua
bán ngoại tệ
Nghĩa hẹp
Nghĩa rộng
FOREX
2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối :
- Forex không nhất thiết phải tập trung tại vị trí đia lý hữu hình nhất định, mà là bất cứ đâu diễn
ra hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau. Do đó, nó còn được gọi là thị trường không gian
(space market).
- Là thị trường toàn cầu, hoạt động 24/24h. Do có sự chênh lệch múi giờ giữa các khu vực trên
thế giới nên các giao dịch diễn ra suốt ngày đêm nên còn được gọi là thị trường không ngủ.
- Trung tâm là thị trường liên ngân hàng – Interbank, với các thành viên chủ yếu là các NHTM,

các nhà môi giới ngoại hối và các NHTW. Doanh số giao dịch trên Interbank chiếm tới 85% tổng
doanh số giao dịch toàn cầu.
- Giao dịch thông qua các phương tiện hiện đại như điện thoại, mạng vi tính, telex, fax…
- Chi phí giao dịch thấp, hoạt động rất hiệu quả. Do thị trường có tính toàn cầu, thông tin cân
xứng, khối lượng giao dịch cực lớn, công nghệ hoàn hảo, hang hóa đồng chất…dẫn đến chi phí
thấp và hoạt động của thị trường trở nên hiệu quả.
- Đồng tiền được sử dụng nhiều nhất là đồng USD chiếm tới 41,5% trong tổng số các đồng tiền
tham gia.
- Nhạy cảm đối với các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội… nhất là chính sách tiền tệ của các nước
đang phát triển.
- Là thị trường lớn nhất, có doanh số giao dịch lớn nhất. Đây là thị trường tài chính lớn nhất thế
giới, với số lượng tiền giao dịch mỗi ngày đã lên dến 1.95 nghìn tỉ USD (2006). Nếu bạn so sánh
với thị trường chứng khoán New York 25 tỉ USD giao dịch mỗi ngày.
- Thị trường trao đổi ngoại tệ (Forex) là thị trường tiền tệ giữa các ngân hàng được thành lập vào
năm 1971 khi tỷ lệ trao đổi trôi nổi được cụ thể hoá. Thị trường là một phạm vi hoạt động trong
đó tiền tệ của mỗi quốc gia được trao đổi với nhau và là nơi để thực hiện việc kinh doanh quốc
tế. Forex là một nhóm gồm khoảng 4500 tổ chức giao dịch tiền tệ, các ngân hàng quốc tế, các
ngân hàng trung tâm của chính phủ và các công ty thương mại. Việc chi trả cho xuất nhập khẩu
cũng như việc mua bán tài sản đều phải thông qua thị trường trao đổi ngoại tệ. Đây được gọi là
thị trường trao đổi ngoại tệ "tiêu thụ". Cũng có những đoạn đầu cơ trong những công ty Forex đó
12
Thị trường ngoại tệ Interbank
là sự phơi bày về tài chính rộng lớn để các nền kinh tế ở nước ngoài tham gia vào Forex để bù
đắp nguy cơ rủi ro của việc đầu tư quốc tế.
II Phân loại thị trường ngoại hối
1.Theo nghiệp vụ kinh doanh
-Thị trường giao ngay
-Thị trường kỳ hạn
-Thị trường hoán đổi
-Thị trường tương lai

-Thị trường quyền chọn
2. Theo tính chất giao dịch
-Thị trường giao ngay
-Thị trường tiền gửi
3. Theo tính chất pháp lý
-Thị trường chính thức
-Thị trường phi chính thức
4. Theo phạm vi thị trường
-Thị trường ngoại hối quốc tế
-Thị trường ngoại hối nội địa
5. Theo phương thức giao dịch
-Thị trường giao dịch trực tiếp
-Thị trường giao dịch qua môi giới
III Chức năng và vai trò của thị trường ngoại hối
1.chức năng
Tại sao lại giao dịch ngoại hối? Dưới đây là những thuận lợi và giá trị của thị trường Forex, là
những lý do tại sao mọi người chọn giao dịch trong thị trường này:
13
Không phí dịch vụ : Không phí trao đổi, không phí thanh toán, không phí chính phủ,
không phí môi giới. Người môi giới sẽ được trích từ phí giao dịch thông qua điểm “bid-ask”
(trung bình 3-5 pips)
Không qua trung gian đặt lệnh: Giao dịch tiền tệ không cần trung gian và cho phép
khách hàng giao dịch trực tiếp với thị trường và được cập nhật thông tin trực tiếp về giá và tỉ giá
các cặp tiền tệ.
Không giới hạn giao dịch: trong các thị trường khác hợp đồng giao dịch được giới hạn
bởi tỉ lệ nhất định ( ví dụ hợp đồng quyền chọn tương lai đối với vàng là 5000 ounces). Trong
Forex, có thể giao dịch với chỉ một tài khoản nhỏ 300$.
Phí giao dịch thấp: Phí giao dịch cho các tài khoản nhỏ ( bid/ask spread) chỉ khoảng
0.1% với những điều kiện thường. Tài khoản càng lớn phí giao dịch càng thấp.
Thị trường giao dịch 24h: Không phải chờ đợi giờ thị trường mở cửa và đóng cửa. Giao

dịch từ tối CN đến trưa thứ 6 giờ EST, có thể nói thị trường FOREX không bao giờ ngủ. Đây là
thuận lợi lớn đối với những người muốn giao dịch trong thời gian rảnh hoặc thời gian thích hợp
nhất trong ngày, bởi vì bạn có thể chọn giao dịch bất kì lúc nào (sáng, trưa, tối hoặc đêm)
Không ai có khả năng định hướng thị trường: Thị trường Forex quá lớn và quá nhiều
người tham gia nên không ai , cho dù cả 1 ngân hàng , có thể kiểm soát giá trị trường trong dài
hạn. Sự can thiệp của ngân hàng trung ương chỉ có tác dụng trong ngắn hạn và không hiệu quả.
Ngân hàng trung ương ngày càng có ít tác động hay can thiệp vào thị trường toàn cầu.
Access (Truy cập): Forex được mở 24h/ngày từ khoảng 6g chiều Chủ Nhật tới khoảng 3g
chiều Thứ Sáu. Những người giao dịch riêng lẻ có thể đối phó với tin tức khi nó được tung ra
còn hơn là đợi tiếng chuông mở cửa của những thị trường khác lúc mọi người đều có những tin
tức giống nhau. Điều này cho phép những người giao dịch tham gia trước khi tin tức chi tiết
được phân tích trên tỷ lệ giao dịch. Liquidity cao và giao dịch 24 giờ cho phép những người
tham gia thị trường vào và thoát ra bất cứ lúc nào. Có nhiều nhà Môi giới phân phối Forex ở từng
vùng, từng trung tâm thị trường chính (Tokyo, Hong Kong, Sydney, Paris, London, Mỹ, v.v…)
sẵn sàng tiếp tục đưa ra giá mua và bán.
Độ thanh khoản cao: Bởi vì thị trường Forex quá lớn, nó cũng rất dễ thanh khoản. Điều
này giúp bạn nhanh chóng thực hiẹn giao dịch chỉ với 1 cú nhấp chuột trong điều kiện bình
thường. Bạn có thể mua bán ngay lập tức tùy ý. Bạn không bao giờ bị “kẹt” trong thị trường. Bạn
cũng có thể thiết lập chế độ tự động cho sàn giao dịch kết thúc lệnh giao dịch khi bạn đã đạt
được lợi nhuận mong muốn ( định mức lãi) hoặc đóng khi thị trường dịch chuyển ngược chiều
mong muốn ( chống lỗ)
Thị trường 2 mặt: tiền được giao dịch theo cặp, ví dụ: đô/yên, hoặc đô/đồng Thụy Sỹ.
Mỗi vị trí liên quan đến việc bán đồng tiền này và mua đồng tiền kia. Nếu người giao dịch tin
14
rằng đồng Thụy Sỹ sẽ cao giá hơn đô, họ có thể bán đô và mua đồng Thụy Sỹ (bán sớm). Nếu
người khác tin ngược lại thì họ sẽ mua đô và bán đồng Thụy Sỹ (mua và trữ). Khả năng lợi
nhuận tồn tại vì tỷ giá trao đổi (giá cả) luôn luôn dao động. .Giao dịch Forex cho phép thu lời từ
2 phía cả tăng và giảm giá trị tiền tệ liên quan tới đô. Trong mỗi giao dịch tiền tệ, mỗi bên đều có
được và mất.
Excution Quality: Bởi vì Forex rất hay thay đổi, hầu hết những giao dịch có thể được

thực hiện với giá của thị trường hiện tại. Trong tất cả những thị trường di chuyển nhanh, không
thể tránh được rủi ro trong tất cả các giao dịch (chứng khoán, bất động sản, v.v…) nhưng có thể
được tránh bằng 1 vài chương trình phần mềm của nhà môi giới tiền tệ, các chương trình này sẽ
thông báo cho bạn biết giá nhập vào chính xác trước khi thực hiện lệnh. Bạn được phép chọn
tránh hoặc chấp nhận rủi ro. Khả năng thanh khoản của thị trường Forex rộng lớn đề ra những
khả năng khớp lệnh có chất lượng cao.
Giao dịch được xác nhận ngay lập tức và người giao dịch qua Internet chỉ việc in 1 bản sao của
màn hình máy vi tính để ghi chép lại tất cả hoạt động giao dịch. Nhiều người cho rằng đặc điểm
của việc giao dịch bằng Internet an toàn hơn so với việc sử dụng điện thoại để giao dịch. Những
hãng nổi tiếng như Charles Schwab, Quick $ Reilly và T.D. Warehouse đề nghị giao dịch qua
Internet. Họ sẽ không mạo hiểm danh tiếng của họ nếu dịch vụ Internet không đáng tin cậy và an
toàn. Trong tình huống xuất hiện vấn đề về kỹ thuật, máy vi tính tạm thời ngừng hoạt động,
nhưng với hệ thống đặt lệnh (ordering) của nhà môi giới (broker), người giao dịch có thể ngay
lập tức gọi điện thoại cho broker để vào hoặc thoát ra khỏi giao dịch. Hệ thống vi tính của nhà
môi giới (broker Internet) được bảo vệ bởi những bức tường lửa để giữ cho thông tin về tài
khoản không bị dòm ngó. Mối quan tâm lớn nhất của broker là sự an toàn của tài khoản. Họ phải
thực hiện nhiều bước để lọai trừ bất kỳ hiểm họa nào đi theo việc giao dịch trên Internet. Người
giao dịch Forex trên Internet không phải gọi điện thoại cho broker. Sự loại trừ người trung gian
(broker salesman) làm giảm chi phí, làm cho tiến trình đặt lệnh nhanh hơn và hạn chế khả năng
hiểu lầm.
Tính tập trung (Focus): Thay vì cố gắng chọn 1 chứng khoán, 1 khế ước, quỹ hỗ tương
hoặc bất động sản từ hàng chục ngàn thứ có sẵn trên thị trường, những người giao dịch Forex chỉ
tập trung vào 1 tới 4 đồng tiền. Những đồng dễ thay đổi và thông dụng là: Yên Nhật, bảng Anh,
đồng Thụy Sỹ và Euro. Những người giao dịch thành công cao là những người tập trung vào số
lượng đầu tư có giới hạn. Những người mới bắt đầu Forex thường tập trung vào 1 đồng tiền và
sau đó kết hợp từ 1 đến 3 đồng trong hoạt động giao dịch.
Tính xu hướng (Trendiness): Trong 1 khoảng thời gian lịch sử, tiền tệ đã khẳng định xu
hướng là quan trọng. Mỗi đồng tiền có “tính cách” riêng của nó và đưa ra chỉ 1 xu hướng, bất kể
những cơ hội giao dịch đa dạng trong thị trường đặc điểm Forex.
Tất cả các lệnh phải được đặt thông qua sàn giao dịch. Để giao dịch tiền tệ bạn phải cần 1 sàn

giao dịch tiền tệ Forex. Hầu hết những công ty giao dịch có những yêu cầu về tài khoản ký quỹ
15
khác nhau. Bạn cần phải hỏi họ những yêu cầu về tài khoản ký quỹ nếu muốn tham gia giao dịch
tiền tệ thông qua sàn giao dịch của họ. Tài khoản Giao dịch trên Forex cần 1 tài khoản ký quỹ.
Khi là người giao dịch đầu cơ, bạn sẽ không chuyển nhượng sản phẩm mà bạn đang giao dịch.
Khi là người giao dịch trong ngày, bạn chỉ giữ vị trí giao dịch từ vài phút đến vài giờ, sau đó bạn
phải đóng lệnh và kết thúc giao dịch.Tài khoản ký quỹ không khác gì 1 khế ước về thành tích.
Tất cả giao dịch đều cần tài khỏan ký quỹ. Khi có lãi, họ để lãi vào tài khoản ký quỹ của bạn
ngay trong ngày. Khi thua, họ cần 1 tài khoản để lấy ra số tiền lỗ mà bạn phải chịu. Tài khoản
được thiết lập hàng ngày.Khoản kí quĩ trong giao dịch ngoại hối, một khoản tiền kí quĩ nhỏ có
thể giúp bạn giao dịch trên một khoản tiền lớn hơn nhiều. Sức bật cho phép người giao dịch có
thể thu được lợi nhuận khổng lồ trên khoản tiền đầu tư nhưng rủi ro có giới hạn. Một ví dụ,
người môi giới đề nghị bạn 1 sức bật 200:1, có nghĩa là với 500$ tiền kí quĩ bạn có thể giao dịch
trên số tiền 100.000$. Nhưng sức bật là con dao 2 lưỡi, vì nếu không quản lý rủi ro tốt, sức bật
càng cao thì rủi ro càng lớn và bạn có thể mất khoản tiền kĩ quí trước khi bắt đầu thu được lợi
nhuận. Một phần rất quan trọng của việc giao dịch là lấy ra phần thắng hay tiền lãi của bạn. Khi
đến lúc lấy ra phần của bạn trong tài khoản ký quỹ, tất cả những điều bạn cần phải làm là liên lạc
với broker của bạn và yêu cầu họ gửi cho bạn số tiền bạn yêu cầu, họ sẽ gửi chi phiếu cho bạn.
Họ cũng có thể chuyển tiền cho bạn. * Tài khoản “ảo”, tin tức, biểu đồ và phân tích: hầu hết các
sàn giao dịch và môi giới đều hỗ trợ bạn giao dịch bằng tài khoản ảo để thực tập trước khi chơi
thật, và cung cấp cho bạn những tin nóng cũng như những công cụ hỗ trợ. Đó là những nguồn tài
nguyên hữu ích giúp bạn tích lũy kinh nghiệm với tiền “ảo” trước khi bắt đầu chơi thật sự. * Tài
khoản “mini”: Bạn có thể nghĩ rằng mới bắt đầu chơi mà đầu tư nhiêu tiền sẽ dẫn đến thua lỗ.
Thật sự là không như vậy. Các nhà môi giới sẽ hỗ trợ bạn chơi với các tài khoản “mini” với số
vốn ban đầu chỉ 300-500$. Điều này giúp cho FOREX ngày càng khả thi hơn với những cá nhân
không muốn đầu tư chi phí khởi sự ban đầu quá cao.
Tài khoản mini ban đầu có thể là một lựa chọn tốt cho bạn. Đừng cười, việc này cũng giống như
việc giúp bạn “bớt lạnh” trước khi xuống hồ bơi ! Trong Forex, bạn sẽ tự quyết định bao nhiêu
tiền trong một lần giao dịch. Tuy nhiên, chúng tôi khuyên bạn nên chơi với một tỉ lệ nhỏ trong
khoản tiền đầu tư mà bạn có.

Từ đó ta có thể rút ra chức năng của ngoại hối :
Chức năng cơ bản của thị trường ngoại hối là kết quả phát triển tự nhiên của một trong các chức
năng cơ bản của ngân hàng thương mại, đó là:nhằm dịch vụ cho các khách hang thực hiện các
giao dịch thương mại quốc tế.
2. vai trò của Forex là:
Phục vụ thương mại quốc tế (Primary Role)
Phục vụ luân chuyển vốn quốc tế
Nơi hình thành tỷ giá
16
Nơi NHTW can thiệp lên tỷ giá
Nơi KD và phòng ngừa rủi ro tỷ giá
IV; Những yếu tố và Thành viên tham gia FOREX
1.Điều kiện tham gia thị trường ngoại hối
- Điều kiện tối thiểu nếu bạn muốn giao dịch trong thời gian đó là bạn phải có từ 10 đến 50 triệu
USD để bắt đầu. FOREX ra đời lúc đầu nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu của các ngân hàng và
các công ty khổng lồ trong ngành, không phải là những “chàng tí hon”. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ
kì diệu của Internet, hệ thống giao dịch trực tuyến, các công ty giao dịch đã ra đời cho phép mở
những tài khoản “lẻ” cho chúng ta. Ngày nay, những nhà môi giới trên thị trường được phép phá
vỡ những đơn vị giao dịch rộng lớn và cho phép những giao dịch nhỏ có cơ hội để mua và bán
bất cứ số nào trong những giá trị nhỏ hơn này (lots).
2.Thành viên tham gia
- Ngân hàng thương mại:có 2 vai trò trong thị trường Forex
1. Làm cho việc giao dịch giữa hai bên trở nên dễ dàng, ví dụ như những công ty muốn trao đổi
tiền tệ (người tiêu thụ).
2. Đầu cơ bằng cách mua và bán tiền tệ. Ngân hàng có vai trò trong những đơn vị tiền tệ nhất
định bởi vì người ta tin rằng trong tương lai chúng sẽ có giá cao hơn (nếu mua trữ) và thấp hơn
(nếu bán sớm). Người ta thống kê rằng 70% lợi tức thường niên của những ngân hàng quốc tế
được sinh ra từ việc đầu cơ tiền tệ. Những đầu cơ khác bao gồm những nhà giao dịch thành công
nhất trên thế giới ví dụ George Soros.
- Ngân hàng trung ương của các quốc gia khác.Khi ngân hàng trung tâm mua và bán tiền tệ

hoặc ngoại tệ thì mục đích là để giữ vững giá trị đồng tiền của đất nước họ. Forex rất rộng và có
rất nhiều người tham gia chứ không phải một người, chỉ có những ngân hàng trung tâm của
chính phủ mới có thể kiểm soát thị trường
- Các nhà môi giới
- Các doanh nghiệp
- Các cá nhân ,các nhà kinh doanh
3. Thị trường ngoại hối có thể có các chủ thể sau tham gia
- Phân loại theo mục đích tham gia thị trường
Các nhà phòng ngừa rủi ro ngoại hối
17
Các nhà kinh doanh chênh lệch tỷ giá
Các nhà đầu cơ
- Phân loại theo hình thức tổ chức
Khách hàng mua bán lẻ
Ngân hàng thương mại
Các định chế tài chính khác
Các nhà môi giới
Ngân hàng trung ương
- Phân loại theo chức năng
Primary price maker( nhà tạo giá sơ cấp)
Secondary price maker (nhà tạo giá thứ cấp)
Price Taker (nhà cấp nhận giá)
Nhà cung cấp dịch vụ và tư vấn thông tin
Broker( nhà môi giới)
Speculator(nhà đầu cơ)
Người can thiệp trên thị trường.
4. Nhưng việt nam chúng ta thường áp dụng cách phân loại theo tổ chức .
Các khác hàng mua bán lẻ ( Retail Clients)
Nhóm khách hang mua bán lẻ bao gồm những công ty nội địa và đa quốc gia, những nhà đầu tư
quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm hai mục đích :

Chuyển đổi ngoại tệ
Phòng ngừa rủi ro tỷ giá
Nhòm khách hang này mua bán lẻ có nhu cầu mua bán ngoại tệ chỉ có mục đích là phục vụ bản
thân chứ không có mục đích kinh doanh.
Các ngân hang thương mại ( Commercial Bank)
Các NHTM tiến hành giao dịch ngoại hối nhằm hai mục đích :
18
Cung cấp dịch vụ cho khách hang, bằng cách mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng mua bán
lẻ.
Thứ hai, kinh doanh cho chính mình, tức là mua bán ngoại hối nhằm kiếm lãi khi tỷ giá thay dổi.
Trên Interbank, các ngan hang giao dịch vời nhau theo hai phương pháp :
Giao dịch trực tiếp giữa ngân hang với nhau (Direct Interbank )
Giao dịch gián tiếp thông qua nhà môi giới ( Indirect Interbank )
Những nhà môi giới ngoại hối ( Foreign exchange brokers )
Ngày nay hình thức này cũng đang phát triển.
Các Ngân hang trung ương (Central bank )
Can thiệp tỷ giá
Mua bán, chuyển đổi tiền tệ nhằm bảo toàn và gia tăng giá trị dự trữ ngoại hối quốc gia
NHTW là đạilý trong việc mua hộ, bán hộ ngoại tệ cho chính phủ.
V: Hàng hóa và các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối
1.Hàng hóa
Vậy “hàng hóa” của thị trường FOREX là gì? Câu trả lời là TIỀN. Giao dịch ngoại hối là hoạt
động giao dịch mua một số lượng tiền này và bán một số lượng tiền khác diễn ra cùng thời điểm.
Tiền được giao dịch thông qua người môi giới hoặc trực tiếp theo từng cặp; ví dụ cặp EUR/USD
hay GBP/JPY. Hoạt động giao dịch FOREX có thể sẽ phức tạp đối với nhiều người vì họ không
thể mua bán tận tay bất kì thứ gì trong thị trường. Đơn giản bạn hãy nghĩ việc mua 1 đồng tiền
nào đó như là mua cổ phần của 1 đất nước. Khi bạn mua đồng Yên Nhật, bạn đang tác dộng đến
tỉ giá ngoại hối của Nhật và gián tiếp lên Kinh tế Nhật, do giá trị của động tiền là sự phản chiếu
đánh giá của thị trường về “sức khỏe” trong hiện tại và trong tương lai của một quốc gia. Tổng
quan, tỉ giá của một loại tiền tệ so với một loại tiền tệ khác là sự phản chiếu các yếu tố của một

nên kinh tế khi so sánh với một nền kinh tế khác. Không như các thị trường tài chính khác,
FOREX cũng không có một trung tâm tài chính hay giao dịch nào cả. Thị trường ngoại hối là thị
trường “liên ngân hàng”, và dựa trên giao dịch điện tử giữa hệ thống nối kết các ngân hàng với
nhau, và hoạt động suốt 24 giờ trong ngày.
19
Đồng tiền nào được giao dịch? 7 loại tiền được giao dịch thường xuyên nhất trên thị trường là :
Dollar, Euro, Yen, Bảng Anh, Franc. Kí hiệu các loại tiền gồm 3 chữ cái, trong đó 2 chữ cái đầu
tiên là viết tắt của tên quốc gia và chữ cái cuối cùng là tên của loại đồng tiền giao dịch
2.Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối
Ta có thể xem sơ đồ sau:
20
2.1. SPOT Nghiệp vụ giao ngay
Khái niệm: Là tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua bán các loại ngoại tệ tận dụng mức chênh
lệch tỷ giá trên các thị trường.
Mục đích: Tìm cơ hội Acbit để đảm bảo hiệu quả của đồng vốn ngoại tệ đang nắm giữ (nhằm
phòng ngừa rủi ro hối đoái, hiệu quả trong thanh toán, và lợi nhuận trong kinh doanh).
Phân loại: có 2 loại Acbit:
Acbit giản đơn: mua bán diễn ra trên hai thị trường.
Acbit phức tạp: việc mua bán diễn ra ở nhiều hơn 2 thị trường
2.2 FORWARD Nghiệp vụ kỳ hạn
Khái niệm: Giao dịch mua bán kỳ hạn các ngoại tệ được ký tại thời điểm hiện tại, và được kết
thúc vào kỳ hạn cụ thể xác định trong hợp đồng.
Tỷ giá xác định bởi 2 yếu tố: tỷ giá trao ngay và lãi suất thị trường của 2 đồng tiền liên quan.
Mục đích:
Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng tại thời điểm nào đó xác định.
Giúp khách hàng hạn chế được rủi ro khi dự báo được sự biến động tỷ giá bất lợi cho kinh doanh
của mình.
2.3 SWAP Nghiệp vụ hoán đổi
Khái niệm: Là nghiệp vụ tiến hành thỏa thuận mua bán một số lượng ngoại tệ nhất định theo tỷ
giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực, việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một

ngày trong tương lai.
Đặc điểm:
Hợp đồng có thể chuyển nhượng tại bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn hiệu lực.
Hợp đồng được tiêu chuẩn hóa và được thực hiện trên sàn giao dịch của sở giao dịch tiền tệ
tương lai.
Mục đích: Bảo hiểm phòng ngừa rủi ro, mục đích đầu cơ.
2.4 OPTION Nghiệp vụ quyền chọn
Khái niệm: Cho phép người mua hợp đồng có quyền mua, bán tiền tệ tại một mức tỷ giá đã thỏa
thuận trước gọi là tỷ giá quyền chọn.
21
Phân loại:
Quyền chọn mua : cho phép người mua có quyền nhưng không bắt buộc mua một số lượng ngoại
tệ nhất định.
Quyền chọn bán : cho phép người bán có quyền nhưng không bắt buộc bán một số lượng ngoại
tệ nhất định.
2.5 FUTURE Nghiệp vụ tương lai
Khái niệm: Swap là một trong những công cụ thông dụng có hiệu quả cho các nhà đầu tư, người
đi vay ngoại tệ và các ngân hàng trong việc phòng ngừa rủi ro hối đoái, hoặc để kinh doanh thu
lợi nhuận .
Mục đích:
Giải pháp hỗ trợ tỷ giá cho đồng nội tệ.
Liên kết các thị trường tài chính trong nước và thị trường tài chính quốc tế với nhau
Phân loại:
Swap lãi suất
Swap tiền tệ
Trong đó :
- Nghiệp vụ giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi được thực hiện phi tập trung over the counter market
– OTC
- Nghiệp vụ quyền chọn có thể được thực hiện phi tập trung hoạc là Thực hiện tập trung trên cơ
sở giao dịch – the exchange.

- Nghiệp vụ tương lai chỉ được thực hiện trên sở giao dịch.
Thực trạng thị trường ngoại hối ở Việt Nam
I: Thực trạng và Điều kiện để phát triển các công cụ phái sinh ngoại hối tại Việt Nam
1.1Thực trạng
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách ngoại hối đóng vai trò rất quan trọng, làm
sao để vừa tranh thủ được các nguồn vốn quốc tế, thúc đẩy hoạt động thương mại, đầu tư, du
lịch, kiều hối, nhưng lại phải đảm bảo được chủ quyền của đồng Việt Nam, thực hiện được mục
tiêu của chính sách tiền tệ. Trong thời gian qua, chính sách ngoại hối đã có những thay đổi quan
22
trọng, một số quy định đã thông thoáng hơn, mở ra nhiều nghiệp vụ mới, đặc biệt là các nghiệp
vụ phái sinh ngoại hối.
Tuy nhiên cho đến nay, ở Việt Nam các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn sơ khai, kém phát triển thể
hiện ở doanh số giao dịch thấp, thậm chí ở một số NHTM mặc dù đã triển khai nghiệp vụ option
nhưng không có giao dịch. Mặc dù trên thế giới các nghiệp vụ phái sinh để bảo hiểm rủi ro tỷ giá
như forward, swap, futures, option đã được sử dụng phổ biến từ rất lâu với doanh số hàng ngày
lên tới hàng trăm tỷ USD. Chính vì vậy, việc ứng dụng các công cụ phái sinh nhằm bảo hiểm rủi
ro tỷ giá tại Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu là do:
Một là: thiếu nhu cầu thực sự từ phía khách hàng .
Đây là vấn đề cốt lõi, vì trước đây tỷ giá USD/VND thường xuyên ổn định tại mức trần so với
giá NHNN công bố, khách hàng không quan tâm tới vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tuy nhiên,
sang năm 2007 và đầu năm 2008, thị trường chứng kiến sự biến động và đảo chiều mạnh mẽ của
VND so với đồng Đôla Mỹ, tỷ giá USD/VND giảm xuống giao dịch tại mức sàn. Nguyên nhân
là do lượng lớn ngoại tệ từ các hoạt động đầu tư trực tiếp, gián tiếp nước ngoài, kiều hối đổ vào
các NHTM làm xuất hiện dư thừa ngoại tệ do mất cân đối cung cầu. Nhiều doanh nghiệp xuất
khẩu hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề rủi ro tỷ giá, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu
trong ngành thuỷ sản, dệt may, cà phê và các ngành sản xuất, xuất khẩu khác. Mặc dù vậy, các
doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có thói quen hay nói chính xác hơn là chưa quan tâm tới phòng
chống rủi ro đối với các hoạt động ngoại tệ của mình.
Hàng năm các doanh nghiệp Việt Nam đều phải vay ngoại tệ hàng trăm triệu USD hoặc EUR để
đầu tư vào các dự án lớn, các doanh nghiệp này sau khi vay ngoại tệ thường bán số ngoại tệ này

chuyển sang VND để tiến hành hoạt động đầu tư dự án, đến kỳ trả nợ họ phải mua lại số ngoại tệ
đó bằng VND. Trong thời gian tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, rõ ràng sẽ có sự biến
động về cả lãi suất cho vay và cả tỷ giá hối đoái. Nếu sử dụng công cụ phái sinh như hoán đổi lãi
suất hoặc công cụ kỳ hạn hay quyền chọn về ngoại tệ thì các doanh nghiệp sẽ bảo hiểm được rủi
ro lãi suất trong trường hợp nếu lãi suất vay là thả nổi và khi lãi suất thị trường đã tăng lên như
hiện nay hoặc bảo hiểm được rủi ro tỷ giá khi ngoại tệ có xu hướng giảm xuống vào thời điểm
doanh nghiệp bán ngoại tệ.
Hai là:thiếu cơ sở pháp lý .
Trong vài năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cho phép các NHTM được thực
hiện nhiều nghiệp vụ mới như quyền chọn ngoại hối, quyền chọn vàng, hoán đổi lãi suất. Tuy
nhiên cơ sở pháp lý cho nghiệp vụ phái sinh còn chưa đầy đủ, ngoại trừ chỉ có giao dịch hoán đổi
lãi suất đã có quy chế của NHNN là Quyết định số 1133/2003/QĐ-NHNN, ngày 30/09/2003.
Mặc dù hiện nay tất cả các NHTM đều được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, tuy nhiên
chỉ được thực hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và ngoại tệ, còn quyền chọn giữa ngoại tệ và VND
thì phải được sự cho phép từ phía NHNN. Trên thực tế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường
chuyển đổi ngoại tệ ra VND để phục vụ hoạt động đầu tư sản xuất trong nước mà hầu như không
23
chuyển đổi từ ngoại tệ ra ngoại tệ. Đây cũng là trở ngại lớn đối với các NHTM làm cho doanh số
giao dịch quyền chọn rất thấp.
Ba là, thiếu kiến thức, hiểu biết về công cụ phái sinh.
Sản phẩm phái sinh trong phòng chống rủi ro là một sản phẩm khá mới và phức tạp đối với thị
trường Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cũng như các NHTM phải có hệ thống thông tin dự
báo tỷ giá quốc tế nhanh, chính xác, cập nhật liên tục; phải có công cụ đo lường và cảnh báo rủi
ro tỷ giá, lãi suất; đội ngũ các nhà quản lý, các giao dịch viên chuyên nghiệp, Thực tế có nhiều
NHTM được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại hối từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa triển khai
được. Đối với các doanh nghiệp thì việc hiểu biết các công cụ phái sinh để phòng chống rủi ro
còn nhiều hạn chế.
1.2 Điều kiện để phát triển các công cụ phái sinh ngoại hối tại Việt Nam
Từ thực tế trên, để ứng dụng và phát triển công cụ phái sinh tại Việt Nam cần phải có các điều
kiện sau

Thứ nhất, về khách quan.
Tỷ giá thị trường phải biến động tới mức đủ để các doanh nghiệp phải quan tâm chú ý tới vấn đề
bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Các NHTM cũng rất muốn triển khai các sản phẩm dịch vụ mới nhưng
không thể "cố ép" khách hàng sử dụng khi thực sự họ không có nhu cầu.
NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, tạo ra một thị trường ngoại hối phản ánh
đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ. NHNN cần tiếp tục nới rộng biên độ dao động so với tỷ giá bình
quân và thường xuyên điều chỉnh linh hoạt biên độ này cho phù hợp với thị trường hơn. Đây là
cơ sở để NHTM cũng như doanh nghiệp quen dần với các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá.
Bên cạnh đó, NHNN cần nghiên cứu ban hành những quy tắc cơ bản nhất trong giao dịch phái
sinh, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp với điều kiện thị trường của Việt Nam hiện nay,
để có hành lang pháp lý chung cho hoạt động của các NHTM. Cho phép các NHTM chủ động
thực hiện quyền chọn ngoại hối giữa ngoại tệ và VND khi có nhu cầu phái sinh. Tránh để các
NHTM thực hiện nghiệp vụ mới một cách riêng lẻ theo sự hiểu biết của ngân hàng, dẫn đến tình
trạng không thống nhất, dễ gây ra tranh chấp khi có sự cố xảy ra.
NHNN cần tăng cường hơn nữa vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành nhằm hình thành một thị trường mua
bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên thị trường. Ngân hàng Nhà nước
tham gia thị trường với tư cách là người mua, người bán cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần
thiết vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Hai là, về phía các NHTM
24
Cần tiếp cận khách hàng, tổ chức hội thảo để giới thiệu và tư vấn nhằm mục đích vừa nâng cao
nhận thức của khách hàng về rủi ro tỷ giá vừa giúp cho khách hàng hiểu biết về các công cụ phái
sinh ngoại hối. Phát triển các công cụ phái sinh và thị trường phái sinh là giúp cho các doanh
nghiệp có thêm cơ hội lựa chọn loại hình giao dịch hối đoái phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
Khi sử dụng các công cụ phái sinh doanh nghiệp có được sự lựa chọn về tỷ giá mong muốn. Mặt
khác, cần tập trung ưu tiên đào tạo và bồi dưỡng cho các cán bộ trực tiếp kinh doanh trên thị
trường hối đoái quốc tế về các công cụ phái sinh nói chung và phái sinh ngoại hối nói riêng, vì
đây là những sản phẩm mới, phức tạp cả về lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng. Ngoài ra cần trang bị
thêm những kiến thức và kinh nghiệm về thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ quốc tế, kỹ

năng phân tích kỹ thuật, phân tích cơ bản trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp và phân tích thông tin để
dự đoán xu hướng diễn biến của thị trường nhằm sử dụng các công cụ phái sinh một cách hiệu
quả nhất. Thông qua đó để có thể tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ cho khách hàng của mình hiểu biết
hơn về thị trường ngoại hối.
Ba là, về phương tiện, thiết bị.
Ngoài những phương tiện, thiết bị hiện có của Reuters, Thomson, SowJones News hay
Metastock, cần trang bị thêm phần mềm xử lý, quản lý rủi ro và tính phí đối với các nghiệp vụ
phái sinh. Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trên thị trường ngoại hối quốc
tế, để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, về hệ thống phân tích quản lý rủi ro đối với các công cụ
phái sinh nói chung và công cụ quyền chọn ngoại hối, công cụ tương lai ngoại hối nói riêng.
II:Những con số và sự kiện đã sảy ra ở việt nam
Năm 2008, thị trường ngoại hối từng có những đợt biến động mạnh và căng thẳng; tỷ giá
USD/VND trên thị trường tự do có lúc lên sát 19.000 VND. Những diễn biến này được đặt trong
những áp lực cơ bản: nhập siêu tăng kỷ lục và lạm phát tăng rất mạnh.
Những tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối cũng căng thẳng, nhưng những áp lực trên đã
không còn quá lớn.
7 tháng đầu năm, nhập siêu chỉ mới ở mức 3,38 tỷ USD; và theo mục tiêu Bộ Công Thương đặt
ra, năm nay nhập siêu sẽ dưới 20% kim ngạch xuất khẩu, cả năm sẽ khoảng 8 - 10 tỷ USD, rất
thấp so với sự đột biến 18 tỷ USD năm 2008.
Cũng trong 7 tháng đầu năm, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chỉ
tăng 3,22% so với cuối năm 2008; trong khi đó tỷ giá USD/VND tăng 6,22%. Mức tăng của hai
chỉ số này vẫn đang đảm bảo yếu tố có lợi và hỗ trợ cho xuất khẩu. Áp lực lạm phát đối với tỷ
giá cũng không quá lớn khi nhiều dự báo tin tưởng khả năng chỉ tăng dưới 10%, thậm chí chỉ
khoảng 7% - 8% trong năm nay.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng khẳng định có đủ khả năng để can thiệp thị trường khi cần
thiết với nguồn ngoại tệ đủ mạnh. Hiện dự trữ ngoại tệ ở khoảng trên dưới 22 tỷ USD. Tuy
nhiên, nhà điều hành không thể dùng biện pháp tưởng như đơn giản là tung một nguồn ngoại tệ
lớn cho thị trường để xoa dịu sự căng thẳng của cầu, bởi theo giải thích của Thống đốc Nguyễn
Văn Giàu, điều hành chính sách tỷ giá còn phải đảm bảo hài hòa các lợi ích, yêu cầu khác của
25

×