Phần III NHIỆT LUYỆN THÉP
3.1.1. Định
nghĩa:
là
nung
nóng
thép
đến
nhiệt
độ
xác
định,
giữ
nhiệt
một
thời
gian thích
hợp
rồi
sau
đó
làm
nguội
với
tốc
độ
xác
định
để
nhận
được
tổ
chức,
do
đó
tính
chất
theo
yêu
cầu.
Đặc điểm:
-
Không
làm
nóng
chảy
và
biến
dạng
sản
phẩm
thép
-
Kết
quả
được
đánh
giá
bằng
biến
đổi
của
tổ
chức
tế
vi
và
tính
chất.
3.
1.
2
. Các yếu tố đặc trưng cho nhiệt luyện
Ba
thông
số
quan
trọng
nhất
-
Nhiệt
độ
nung
nóng:
0
n
T
-
Thời
gian
giữ
nhiệt:
gn
T
- Tốc độ nguội V
nguội
sau khi giữ nhiệt
Các
chỉ
tiêu
đánh
giá
kết
quả:
+ Tổ chức tế vi bao gồm cấu tạo pha, kích
thước hạt,
chiều sâu lớp hóa bền là chỉ tiêu gốc, cơ bản
nhất.
+
Độ
cứng,
độ
bền,
độ
dẻo,
độ
dai.
+
Độ
cong
vênh,
biến
dạng.
3.1.3.
Phân
loại
nhiệt
luyện
thép
1.
Nhiệt
luyện:
thường
gặp
nhất,
chỉ
có
tác
động
nhiệt
làm
biến
đổi
tổ
chức
và
tính
chất
gồm
nhiều
phương
pháp:
ủ,
thường
hoá,
tôi,
ram.
2.
Hóa
-
nhiệt
luyện:
Nhiệt
luyện
có
kèm
theo
thay
đổi
thành
phần
hóa
học
ở
bề
mặt
rồi
nhiệt
luyện
tiếp
theo
để
cải
thiện
hơn
nữa
tính
chất
của
vật
liệu:
Thấm
đơn
hoặc
đa
nguyên
tố: C,N,
3.
Cơ
-
nhiệt
luyện:
là
biến dạng dẻo thép ở trạng thái
γ
sau đó tôi và ram để nhận được
tổ chức M nhỏ mịn có cơ tính tổng hợp cao nhất,
thường ở xưởng cán nóng thép, luyện kim
.
Sơ đồ của quá trình
nhiệt
luyện đơn giản nhất
3.2 nhiêt luyện trong nhà máy cơ khí
Trong chế tạo cơ khí, nhiệt luyện đóng vai trò quan trọng vì không những nó tạo cho chi tiết
sau khi gia công cơ những tính chất cần thiết mà còn làm tăng tính công nghệ của vật liệu. Vì
vậy có thể nói nhiệt luyện là khâu quan trọng không thể thiếu được đối với chế tạo cơ khí và
là một trong những yếu tố công nghệ quan trọng quyết định chất lượng của sản phẩm cơ khí.
Nhiệt luyện có ảnh hưởng quyết định tới tuổi thọ của các sản phẩm cơ khí. Máy móc càng
chính xác, yêu cầu cơ tính càng cao thì số lượng chi tiết cần nhiệt luyện càng nhiều. Đối với
các nước công nghiệp phát triển, để đánh giá trình độ ngành chế tạo cơ khí phải căn cứ vào
trình độ nhiệt luyện, bởi vì dù gia công cơ khí chính xác nhưng nếu không qua nhiệt luyện
hoặc chất lượng nhiệt luyện không đảm bảo thì tuổi thọ của chi tiết cũng không cao và mức
độ chính xác của máy móc không còn giữ được theo yêu cầu.
Nhiệt luyện nâng cao chất lượng sản phẩm không những có ý nghĩa kinh tế rất lớn (để kéo dài
thời gian làm việc; nâng cao độ bền lâu của công trình, máy móc thiết bị…) mà còn là thước
đo để đánh giá trình độ phát triển khoa học, kĩ thuật của mỗi quốc gia.
Các tác dụng chủ yếu của Nhiệt luyện:
1/ Tăng độ cứng, tính chịu ăn mòn, độ dẻo dai và độ bền của vật liệu
Mục tiêu của SX cơ khí là SX ra các cơ cấu và máy bền hơn, nhẹ hơn, khoẻ hơn với các tính
năng tốt hơn. Để đạt được điều đó không thể không sử dụng thành quả của vật liệu kim loại
và nhiệt luyện, sử dụng triệt để các tiềm năng của vật liệu về mặt cơ tính.
Bằng những phương pháp nhiệt luyện thích hợp như tôi + ram, tôi bề mặt, thấm cacbon - nitơ,
…độ bền và độ cứng của vật có thể tăng lên từ ba đến sáu lần (thép chẳng hạn), nhờ đó có thể
dẫn tới rất nhiều điều có lợi như sau:
-Tuổi bền (thời gian làm việc) của máy tăng lên do hệ số an toàn cao không gãy vỡ (do nâng
cao độ bền). Trong nhiều trường hợp máy hỏng còn là do bị ăn mòn quá mạnh, nâng cao độ
cứng, tính chống mài mòn cũng có tác dụng này.
-Máy hay kết cấu có thể nhẹ đi, điều này dẫn đến tiết kiệm kim loại (hạ giá thành), năng
lượng (nhiên liệu) khi vận hành.
- Tăng sức chịu tải của máy, động cơ, phương tiện vận tải (ôtô, toa xe, tàu biển…) và kết cấu
(cầu, nhà, xưởng…), điều này dẫn tới các hiệu quả kinh tế - kĩ thuật lớn.
Phần lớn các chi tiết máy quan trọng như trục, trục khuỷu, vòi phun cao áp, bánh răng truyền
lực với tốc độ nhanh, chốt…đặc biệt là 100% dao cắt, dụng cụ đo và các dụng cụ biến dạng
(khuôn) đều phải qua nhiệt luyện tôi + ram hoặc hoá nhiệt luyện. Chúng thường được tiến
hành gần như là sau cùng, nhằm tạo cho chi tiết, dụng cụ cơ tính thích hợp với điều kiện làm
việc và được gọi là nhiệt luyện kết thúc (thường tiến hành trên sản phẩm).
Như thường thấy, chất lượng của máy, thiết bị cũng như phụ tùng thay thế phụ thuộc rất nhiều
vào cách sử dụng vật liệu và nhiệt luyện chúng. Những máy làm việc tốt không thể không sử
dụng vật liệu tốt (một cách hợp lý, đúng chỗ) và nhiệt luyện bảo đảm.
2/ Cải thiện tính công nghệ (rèn, dập, gia công cắt, tính chịu mài, tính hàn…), từ tính, điện
tính…
Muốn tạo thành chi tiết máy, vật liệu ban đầu phải qua nhiều khâu, nguyên công gia công cơ
khí: rèn, dập, cắt…Để đảm bảo sản xuất dễ dàng với năng suất lao động cao, chi phí thấp vật
liệu phải có cơ tính sao cho phù hợp với điều kiện gia công tiếp theo như cần mềm để dễ cắt
hoặc dẻo để dễ biến dạng nguội. Muốn vậy cũng phải áp dụng các biện pháp nhiệt luyện thích
hợp (ủ hoặc thường hoá như với thép). Ví dụ, sau khi biến dạng (đặc biệt là kéo nguội) thép bị
biến cứng đến mức không thể cắt gọt hay biến dạng (kéo) tiếp được, phải đưa đi ủ hoặc
thường hoá để làm giảm độ cứng, tăng độ dẻo. Sau khi xử lý như vậy thép trở nên dễ gia công
tiếp theo.
Các phương pháp nhiệt luyện tiến hành với mục đích như vậy được gọi là nhiệt luyện sơ bộ,
chúng nằm giữa các nguyên công gia công cơ khí (thường tiến hành trên phôi).
Vậy trong sản xuất cơ khí cần phải biết tận dụng các phương pháp nhiệt luyện thích hợp,
không những đảm bảo khả năng làm việc lâu dài cho chi tiết, dụng cụ bằng thép mà còn đễ
dàng cho quá trình gia công.
3/ Nhiệt luyện trong nhà máy cơ khí
Ở các nhà máy cơ khí với quy mô nhỏ và trung bình, bộ phận nhiệt luyện không lớn và
thường đặt tập trung. Sau khi nhiệt luyện sơ bộ, từ đây phôi thép được chuyển tới các phân
xưởng cắt gọt, dập và sau khi nhiệt luyện kết thúc các chi tiết máy quan trọng (cần cứng và
bền cao) được đưa qua mài hay thẳng đến lắp ráp. Cách sắp xếp như vậy có nhiều nhược
điểm, song không thể khác vì sản lượng thấp. Ở các nhà máy cơ khí có quy mô lớn và rất lớn,
các chi tiết máy được gia công hoàn chỉnh từ khâu đầu đến khâu cuối trên dây chuyền cơ khí
hoá hoặc tự động hoá trog đó bao gồm cả nguyên công nhiệt luyện. Do vậy nguyên công nhiệt
luyện ở đây cũng phải được cơ khí hoá thậm chí tự động hoá và phải chống nóng, độc để
không có ảnh hưởng xấu đến bản thân người làm nhiệt luyện cũng như cả dây chuyền sản
xuất cơ khí. Cách sắp xếp chuyên môn hoá cao như vậy đảm bảo chất lượng sản phẩm và lựa
chọn phương án tiết kiệm được năng lượng.
Các nhà máy cơ khí có thể xem xét tuỳ thuộc vào mức độ sản xuất của đơn vị mình ra sao mà
lựa chọn quy mô của phân xưởng nhiệt luyện sao cho phù hợp và tiết kiệm nhất nhưng vẫn
đảm bảo được chất lượng của sản phẩm.
3.3 các phương pháp nhiệt luyện
3.3.1 Phương pháp ủ
1. loại 1 hay ủ không chuyển biến pha
là quá trình nhiệt luyện tiến hành ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ tới hạn, sau đó làm nguội cùng
lò. Dạng nhiệt luyện này không làm thayđổi mạng tinh thể mà chỉ khắc phục một phần hoặc
hoàn toàn các sai lệch về mạng tinh thể.
2. Ủ có chuyển biến pha: Nung kim loại cao hơn nhiệt độ chuyển biến pha, giữ nhiệt rồi sau
đó làm nguội chậm, làm kết tinh lại dẫn tới sự tạo thành pha mới làm nhỏ hạt tinh thể, đưa
hợp kim về trạng thái cân bằng.
-Ủ
hoàn
toàn:
áp
dụng cho
thép tr
ư
ớc
cùng
tích
%C=
0,30
÷
0,65%,
0
u
T
=A
3
+(20
÷
30
0
C)
Mục
đích:
làm
nhỏ
hạt,
giảm
độ
cứng
và
tăng
độ
dẻo
để
dễ
cắt
gọt
và
dập
nguội
(160
÷
200HB).
-Ủ không
hoàn
toàn
và
ủ
cầu
hóa:
- áp
dụng
cho
thép
dụng
cụ
%C=
0,70%, A
1
<T<A
cm
:
0
u
T
=
A
1
+
(20
÷
30
C)
=
750
÷
760
C,
T/c:
peclit
hạt
,
HB
<
220
dễ
gia
công
cắt
hơn, không
áp
dụng
cho
thép
tr
ư
ớc
cùng
tích
có
C
Ê
0,65%
vì
ảnh hưởng
xấu
đến
độ
dai.
- Ủ
cầu
hóa:
là
dạng
đặc
biệt
của
ủ
không
hoàn
toàn,
T=
750
÷
760
o
C-5min
(phút)
rồi
T=
650
÷
660
o
C-
5min ,
với
lặp
đi
lặp
lại
→
cầu
hóa
xêmentit
để
tạo
thành peclit
hạt.
-
Ủ
đẳng
nhiệt:
dùng
cho
thép
hợp
kim
cao
do
γ
quá
nguội
có
tính
ổn
định
quá
lớn
nên
dù
làm
nguội
chậm
cùng
lò
cũng
không
đạt
đ
ư
ợc
tổ
chức
peclit
mà
là
P-X,
X,
X-T
nên
không
đủ
mềm
để
gia
công
cắt
→
ủ
đẳng
nhiệt:
T=
A
1
-
50
o
C
(xác
định
theo
giản
đồ
T
-
T
-
T
của
chính
thép
đó)
để
nhận
được
tổ
chức
peclit.
-
Ủ
khuếch
tán:
T
rất
cao
1100
÷
1150
o
C
-
(10
÷
15h)
để
khuếch
tán
làm
đều
thành phần.
Lĩnh
vực
áp
dụng:
thép
hợp
kim
cao
khi
đúc
bị
thiên
tích
đ
hạt
to
→
cán
nóng hoặc
ủ
nhỏ
hạt
Chú
ý
:
ủ
có
chuyển
biến
pha,
chỉ
cần
làm
nguội
trong
lò
đến
600
÷
650
o
C,
lúc
đó
sự
tạo
thành
peclit
đã
hoàn
thành,
cho
ra
nguội ngoài
không
khí
và
nạp
mẻ
khác vào
ủ
tiếp.
3.3.2 Tôi :
-tôi có chuyển biến pha
Là quá trình nhiệt luyện hợp kim gồm nung hợp kim lên tới nhiệt độ có trạng thái pha nhất
định, giữ nhiệt rồi làm nguội đủ nhanh để quá trình khuếch tán không kịp xảy ra, kết quả nhận
được tổ chức không cân bằng.
- Tôi bề mặt:
Thực hiện tôi trên bề mặt chi tiết hợp kim, thường sử dụng các lò tần số để chỉ nung phần
mặt ngoài của chi tiết.
Các bánh răng, các trục thường được tôi bề mặt để đảm bảo độ cứng bề mặt cao (để chống
mài mòn), nhưng phần bên trong nó lại dẻo.
Tôi
trong
hai
môi
tr
ư
ờng
(nước qua dầu)
Tận dụng được ưu điểm của cả nước lẫn dầu: nước, nước pha muối,
xút qua dầu (hay không khí) cho đến khi nguội hẳn.
o
Như vậy vừa bảo đảm độ cứng cao cho thép vừa ít gây biến dạng, nứt.
Nhược điểm: khó, đòi hỏi kinh nghiệm, khó cơ khí hóa,
chỉ áp dụng cho tôi đơn chiếc thép C cao.
Tôi
phân
cấp:
Muối
nóng
chảy
có
nhiệt
độ
cao
hơn
điểm
M
đ
khoảng
50
÷
100
0
C,
3
÷
5min
để
đồng
đều nhiệt độ trên tiết diện rồi nhấc ra làm nguội trong không khí để chuyển
biến M.
Ưu điểm: khắc phục được khó khăn về xác định thời điểm chuyển môi trường của cách b.
Đạt độ cứng cao song có ứng suất bên trong rất nhỏ, độ biến dạng thấp nhất, thậm chí có
thể sửa, nắn sau khi giữ đẳng nhiệt khi thép ở trạng thái
γ
quá nguội vẫn còn dẻo.
Nhược điểm: năng suất thấp, chỉ áp dụng được cho các thép có Vth nhỏ
(thép hợp kim cao như thép gió) và với tiết diện nhỏ như mũi khoan, dao phay
Cả
ba
ph
ư
ơng
pháp
tôi
kể
trên
đều
đạt
đ
ư
ợc
tổ
chức
mactenxit.
Tôi
đẳng
nhiệt:
Khác tôi phân cấp ở chỗ giữ đẳng nhiệt lâu hơn (hàng giờ) cũng trong môi trường lỏng
(muối nóng chảy) để austenit quá nguội phân hóa hoàn toàn thành hỗn hợp
F-Xê nhỏ mịn có độ cứng tương đối cao, độ dai tốt. Tùy theo nhiệt độ giữ đẳng nhiệt
sẽ được các tổ chức khác nhau: 250
÷
400oC - bainit, 500
÷
600oC - trôxtit.
Sau khi tôi dẳng nhiệt không phải ram.
Tôi đẳng nhiệt có mọi ưu, nhược điểm của tôi phân cấp, nhưng độ cứng thấp hơn
và độ dai cao hơn, năng suất thấp í t được áp dụng cách tôi này.
Một phương pháp tôi đẳng nhiệt đặc biệt là tôi chì (patenting) - tôi đẳng nhiệt trong
bể
Pb
nóng
chảy
ở
500
÷
520
o
C
đ
X
mịn,
qua
khuôn
kéo
sợi
nhiều
lần
(
ε
tổng=
90%),
đạt
δ
E
và
δ
max.
Gia
công
lạnh
áp
dụng
cho
thép
dụng
cụ
hợp
kim,
%C
cao
và
được
hợp
kim
hóa,
các
điểm
M
đ
và
M
K
quá
thấp
nên
khi
tôi
lượng
g
dư
quá
lớn,
làm
giảm
độ
cứng.
Đem
gia
công
lạnh
(-50
hay
-70
o
C)
để
γ
d
ư
→
M,
độ
cứng
có
thể
tăng
thêm
1
÷
10
đơn
vị
HRC.
Tôi
tự
ram
Là
cách
tôi
với
làm
nguội
không
triệt
để,
nhằm
lợi
dụng
nhiệt
của
lõi
hay
các
phần khác
truyền
đến,
nung
nóng
tức
ram
ngay
phần
vừa
đ
ư
ợc
tôi:
đục,
chạm,
tôi
cảm ứng
băng
máy,
trục
dài
3.3.4 Ram:
Ram là quá trình nhiệt luyện gồm nung kim loại đã được tôi đến nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ
chuyển biến pha, đưa hợp kim về trạng thái cân bằng, do đó mà tổ chức không ổn định khi tôi
sẽ được phân huỷ thành tổ chức ổn định hơn.
Ram là phương pháp nhiệt luyện kim loại gồm nung nóng chi tiết đã tôi đến nhiệt độ thấp hơn
nhiệt độ tới hạn (Ac1), sau đó giữ nhiệt một thời gian cần thiết để mactenxit và austenit dư
phân hoá thành các tổ chức thích hợp rồi làm nguội.
Phần nhiều sau khi ram chi tiết được làm nguội trong không khí, tuy nhiên cũng có trường
hợp sau khi ram phải làm nguội trong nước hoặc dầu để tránh hiện tượng dòn ram.
Với thép thì quá trình ram sẽ làm cho thép dẻo dai hơn bởi sự biến đổi martenite "dòn" thành
ferite . Việc tôi nhanh thép thì cần phải được ram lại sau đó nhằm giảm nội ứng lực bên trong
chi tiết.
Trong luyện kim , người ta luôn chú ý cân bằng giữa hai yếu tố dòn (dễ vỡ) và dẻo . Sự cân
bằng và ổn định cấu trúc tinh thể là nhiệm vụ chính của quá trình ram. Việc tính toán để
khống chế thời gian giữ nhiệt cũng như nhiệt độ ram sẽ quyết định chất lượng chi tiết sau đó.
Một vài nước có nền công nghiệp tiên tiến, luôn luôn bảo vệ bí quyết và đầu tư nghiên cứu
lĩnh vực này.
Ram được phân thành 3 loại: Ram thấp, Ram trung bình và Ram cao.
- Ram thấp : Ram thấp là phương pháp nhiệt luyện gồm nung nóng thép đã tôi trong khoảng
150 đến 250 độ C tổ chức đạt được là mactenxit ram. Khi Ram thấp hầu như độ cứng không
thay đổi (có thay đổi thì rất ít: từ 1-3 HRC).
- Ram trung bình : Ram trung bình là phương pháp nung nóng thép đã tôi trong khoảng 300-
450 độ C, tổ chức đạt được là trustit ram. Khi ram trung bình độ cứng của thép tôi tuy có giảm
nhưng vẫn còn khá cao, khoảng 40-45 HRC, ứng suất bên trong giảm mạnh, giới hạn đàn hồi
đạt được giá trị cao nhất, độ dẻo, độ dai tăng lên.
- ram cao : Ram cao là phương pháp nung nóng thép đã tôi trong khoảng 500-650 độ C, tổ
chức đạt được là xoocbit ram. Khi ram cao độ cứng của thép tôi giảm mạnh, đạt khoảng 15-25
HRC, ứng suất trong bị khử bỏ, độ bền giảm đi còn độ dẻo, độ dai tăng lên mạnh.
3.3.5 hóa già : Cũng như ram, nhưng nếu quá trình phân huỷ dung dịch rắn quá bão hoà ở
nhiệt độ phòng hay nhiệt độ không cao của các hợp kim trên cơ sở các kim loại không có
chuyển biến thù hình thì được gọi là hoá già.
3.4 tôi thép (tôi thể tích )
3.4.1 giản đồ T-T-T:
Nhiệt độ (T) - thời gian (T) và chuyển biến (T) Vì có dạng chữ "C")
→
đường cong chữ
“C”.Khi
γ
bị
nguội
(tức
thời)
d
ư
ới
727
o
C
nó chưa chuyển
biến
ngay
được
gọi
là
γ
quá nguội,
không
ổn
Đặc trưng của tôi: - Nhiệt độ tôi > A1 để có g (có thể giống ủ hoặc thường hóa).
-
Tốc
độ
làm
nguội
nhanh
dễ
gây
ứng
suất
nhiệt,
pha
→
dễ
gây
nứt,
biến
dạng,
cong
vênh.
-
Tổ
chức
tạo
thành
cứng
và
không
ổn
định.
2
điểm
sau
khác
hẳn
ủ
và
th
ư
ờng hóa.
Mục
đích:
1)
Tăng
độ
cứng
để
chống
mài
mòn
tốt
nhất
(ram
thấp):
dụng
cụ
(cắt,
biến
dạng nguội),
∈
%C:
%C
<
0,35%C-
≤
HRC
50,
%C
=
0,40
÷
0,65%C-
HRC
52
÷
58,
%C
=
0,70
÷
1,00%C-
HRC
60
÷
64, %C
=
1,00
÷
1,50%C-
HRC
65
÷
66
2)
Nâng
cao
độ
bền
và
sức
chịu
tải
của
chi
tiết
máy,
áp
dụng
cho
thép
có
%C=0,15-0,65:
tôi
+
ram
trung
bình
thép
đàn
hồi
(0,55-0,65)%C
Tôi+ram
cao
→
thép
có
cơ
tính
tổng
hợp
cao
nhất
(thép
0,3-0,5)%C
3.4.2
Chọn
nhiệt
độ
tôi
thép
1.
Đối
với
thép
TCT
(<
0,80%C):
T
tôi
=
A
3
+
(30
÷
50
o
C)
→
M+ít
γ
d
ư
2. Đối
với
thép
CT
và
SCT
(³
0,80%C):
T
tôi
=A
1
+(30
÷
50
o
C)
≈
760
÷
780
o
C
→
M+ít
γ
d
ư
+ Xê
II
3. lý do để
chọn
nhiệt
độ
tôi:
+
Thép
TCT,
T<
A
3
còn
F
là
pha
mềm
gây
ra
điểm
mềm
ảnh
hưởng
xấu
tới
độ bền,
độ
bền
mỏi
và
tính
chống
mài
mòn.
+
Thép
SCT,
T>
A
cm
→
hàm lượng C trong
γ
cao
quá
dễ
sinh
γ
dư
nhiều,
o
hạt
lớn
(vì
T
>950
o
C)
A
1
<T
tôi
<A
cm
sau
tôi
được
M+ lưới
Xê
II
+
ít
γ
dư
→
chống
mài
mòn
tốt
Đối
với
thép
hợp
kim:
Cũng
dựa
vào
GĐP
Fe-C
để
tham
khảo
nhiệt
độ
tôi,
2
tr
ư
ờng
hợp:
+
T
hép
hợp
kim
thấp
(ví
dụ
0,40%C
+
1,00%Cr),
T
tôi
~
thép
0,40%C,
có
lấy
tăng
lên
1,1-1,2
lần
+
T
hép
hợp
kim
trung
bình
và
cao:
tra
trong
các
sách
tra
cứu
và
sổ
tay
kỹ
thuật.
3.4.3
Tốc
độ
tôi
tới
hạn
và
độ
thấm
tôi
Tốc
độ
tôi
tới
hạn
của
thép
càng
nhỏ
càng
dễ
tôi,
tạo
ra
độ
cứng
cao
(cả
sâu trong
lõi)
đồng
thời
với
biến
dạng
nhỏ
và
không
bị
nứt.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ tôi tới hạn:
-
Thành
phần
hợp
ki
m
của
γ
:
quan
trọng
nhất,
γ
càng
giàu
nguyên
tố
hợp
kim
(trừ
Co)
đ
ư
ờng
"C"
càng
dịch
sang
phải,
V
th
càng
nhỏ:
(2
÷
3)%
nthk
V
th
≈
100
o
C/s,
(5
÷
7)%
nthk
V
th
≈
25
C/s.
-
Sự
đồng
nhất
của
γ
:
γ
càng
đồng
nhất
càng
dễ
biến
thành
M
(
γ
không
đồng
nhất,
vùng
giàu
C
dễ
biến
thành
Xê,
vùng
nghèo
C
dễ
biến
thành
F)
→
T
tôi
↑
→
γ
đồng
nhất
→
V
th
↓
-
Các
phần
tử
rắn
chưa
tan
hết
vào
g:
thúc
đẩy
tạo
thành
hỗn
hợp
F-Xê,
làm
tăng V
th
.
-
Kích
th
ư
ớc
hạt
γ
:
càng
lớn,
biên
giới
hạt
càng
ít,
càng
khó
tạo
thành
hỗn
hợp
F-
Xê
,
V
th
↓
2.4.4
Độ
thấm
tôi
Định nghĩa:
là chiều sâu lớp tôi cứng có tổ chức 1/2M + 1/2T Cách xác định:
bằng thí nghiệm tôi đầu mút
1. Các yếu tố ảnh h
ư
ởng:
V
th
:
càng
nhỏ
độ thấm
tôi
càng
cao,
V
th
<
V
lõi
tôi
thấu,
các
yếu
tố
làm
giảm
V
th
→
δ
↑
Tốc
độ
làm
nguội:
nhanh
→
δ
↑
nh
ư
ng
dễ
gây
nứt,
biến
dạng.
Ý
nghĩa:
biểu
thị
khả
năng
hóa
bền
của
thép
bằng
tôi
+
ram,
đúng
hơn
là
biểu
thị
tỷ
lệ
tiết
diện
của
chi
tiết
đ
ư
ợc
hóa
bền
nhờ
tôi
+
ram.
-
Thép
có
độ
thấm
tôi
càng
cao
được
coi
là
chất
lượng càng
tốt,
-
Mỗi
mác
thép
có
d
xác
định
do
đó
nên
dùng
cho
các
chi
tiết
có
kích
th
ư
ớc
nhất
định
để
có thể
tôi
thấu
Đánh giá độ thấm tôi:
dải
thấm
tôi
của
các
thép
với
cùng
lượng
cacbon
là
0,40%,
ở
đây
độ
thấm
tôi
được
tính
tới
vùng
nửa
1/2M+1/2T.
+
Thép
cacbon,
d
trung
bình
chỉ
khoảng
7mm,
nếu
thêm
1,00%Cr
là
12mm,
còn thêm
0,18%Mo
nữa
tăng
lên
đến
30mm.
+
Để
tăng
mức
độ
đồng
đều
cơ
tính
trên
tiết
diện,
trước
khi
đem
chế
tạo
các
bánh răng
quan
trọng
người
ta
phải
kiểm
tra
lại
d
của
mác
thép
mới
định
dùng.
+
Ngược
lại:
còn
có
yêu
cầu
hạn
chế
độ
thấm
tôi
để
bảo
đảm
cứng
bề
mặt
lõi
vẫn
dẻo
dai.
2.Tính
thấm
tôi
và
tính
tôi
cứng:
Tính
tôi
cứng
là
khả
năng
đạt
độ
cứng
cao
nhất
khi
tôi,
%C
càng
cao
tính
tôi cứng
càng
lớn.
Tính
thấm
tôi
là
khả
năng
đạt
chiều
dày
lớp
tôi
cứng
lớn
nhất,
%nthk
càng
cao
thì
tính
thấm
tôi
càng
lớn.
.
Khả
năng
tôi
cứng
của
một
số
loại
thép:
(a):
0,40%C;
(
b):
0,40%C
+
1,00%Cr,
(
c):
0,40%C
+
1,00%Cr
+
0,18%Mo,
Các
phương
pháp tôi thể tích và công dụng. Các môi trường tôi
Các
cách
phân
loại
tôi:
Theo
T
tôi:
tôi
hoàn
toàn
và
không
hoàn
toàn,
theo
phạm
vi:
tôi
thể tích và tôi bề mặt, theo phương thức
và
môi
tr
ư
ờng
làm
nguội
ta
có:
Tôi
trong
một
môi
tr
ư
ờng
Phương
pháp
tôi
Đường
nguội
lý
t
ư
ởng
khi
tôi
Trong đó: a.
trong
1
môi
trường,
b.
trong
2
môi
trường, c.
tôi
phân
cấp,
d.
tôi
đẳng
nhiệt.
2.4.5 Yêu
cầu
đối
với
môi
tr
ư
ờng
tôi:
-
Làm
nguội
nhanh
thép
để
đạt
được
tổ
chức
M,
-
không
làm
thép
bị
nứt
hay
biến dạng
-
Rẻ,
sẵn,
an
toàn
và
bảo
vệ
môi
trường.
Để
đạt
được
hai
yêu
cầu
đầu
tiên,
môi
trường
tôi lý tưởng
hình
4.19:
1)
Làm
nguội
nhanh
thép
ở
trong
khoảng
γ
kém
ổn
định
nhất
500
÷
600
o
C
để
γ
không
kịp
phân
hóa
thành
hỗn
hợp
F-Xê.
V
nguội
>
V
th
.
2)
Làm
nguội
chậm
thép
ở
ngoài
khoảng
nhiệt
độ
trên
vì
Ơ
đó
γ
quá
nguội
có
tính
ổn
định
cao,
không
sợ
bị
chuyển
biến
thành
hỗn
hợp
F-
Xê
có
độ
cứng
thấp.
Đặc biệt
trong
khoảng
chuyển
biến
M
(300
÷
200
o
C),
nguội
chậm
sẽ
làm
giảm
ứng suất
pha
do
đó
ít
bị
nứt
và
ít
cong
vênh.
Các
môi
tr
ư
ờng
tôi
thường
dùng
.
Đặc
tính
làm
nguội
của
các
môi
trường
tôi
Môi
tr
ư
ờng
tôi
Tốc
độ
nguội,
[độ/s],
ở
các
k
hoảng
nhiệt
độ
600
÷
500
0
C 300
÷
200
0
C
N
ư
ớc
lạnh,
10
÷
30
0
C
600-500
27
0
N
ư
ớc
nóng,
50
0
C
100
27
0
N
ư
ớc
hòa
tan
10%NaCl,
NaOH,20
0
C
1100-1200
30
0
Dầu
khoáng
vật 100-150 20
-
25
Tấm
thép,
không
khí
nén 35-30 15
-
10
Nước: là môi trường tôi mạnh, an toàn, rẻ, dễ kiếm nên rất thông dụng nhưng cũng dễ
gây ra nứt, biến dạng, không gây cháy hay bốc mùi khó chịu, khi nhiệt độ nước bể tôi
> 40oC tốc độ nguội giảm, (khi To nước = 50oC, tốc độ nguội thép chậm hơn cả
trong dầu mà không làm giảm khả năng bị biến dạng và nứt (do không làm giảm tốc
độ nguội ở nhiệt độ thấp) phải lưu ý tránh: bằng cách cấp nước lạnh mới vào và thải
lớp nước nóng ở bề mặt đi.
N
ư
ớc
(lạnh)
là
môi
tr
ư
ờng
tôi
cho
thép
cacbon
(là
loại
có
V
th
lớn,
400
÷
800
o
C/s),
song
không
thích
hợp
cho
chi
tiết
có
hình
dạng
phức
tạp.
Nước được hoà tan 10% các muối (NaCl hoặc Na2CO3) hay (NaOH):
nguội
rất
nhanh ở nhiệt độ cao song không tăng khả năng gây nứt (vì hầu như không tăng tốc
o
độ nguội ở nhiệt độ thấp) so với nước, được dùng để tôi thép dụng cụ cacbon (cần độ
cứng cao).
Dầu
:
làm
nguội
chậm
thép
ở
cả
hai
khoảng
nhiệt
độ
do
đó
ít
gây
biến
dạng,
nứt
nhưng
khả năng tôi cứng lại kém. Dầu nóng, 60
÷
80oC, có khả năng tôi tốt hơn vì có
độ loãng (linh động) tốt không bám nhiều vào bề mặt thép sau khi tôi. Nhược điểm
dễ bốc cháy phải có hệ thống ống xoắn có nước lưu thông làm nguội dầu, bốc mùi
gây ô nhiễm và hại cho sức khỏe.
Dầu
là
môi
tr
ư
ờng
tôi
cho
thép
hợp
kim
(loại
có
V
th
nhỏ,
<
150
0
C
/
s),
các
chi
tiết
có
hình
dạng
phức
tạp,
là
môi
trường
tôi
thứ
2
(thép
CD)
Quy
tắc
chọn
môi
trường
tôi
ngoại
lệ:
- Thép C tiết diện nhỏ (f < 10), hình dạng đơn giản, dài (như trục trơn) nên tôi dầu
Chi tiết có hình dạng phức tạp về độ bền có thể chọn thép C nhưng phải làm bằng
thép hợp kim để tôi dầu.
- Chi tiết bằng thép hợp kim, có tiết diện lớn, hình dạng đơn giản phải tôi nước.
Các vật mỏng, hình dạng phức tạp dễ bị cong vênh khi làm nguội tự do cần tôi trong
khuôn ép, trong khung giữ chống cong vênh hoặc bó chặt nhiều thanh dài lại,
Tôi
trong
một
môi
trường
rất
phổ
biến
do
dễ
áp
dụng
cơ
khí
hóa,
tự
động
hóa,
giảm
nhẹ
điều
kiện
lao
động
nặng
nhọc