Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

BỔ SUNG KẼM CHO CÁC TRẺ TIÊU CHẢY KÉO DÀI ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.05 KB, 25 trang )

BỔ SUNG KẼM CHO CÁC TRẺ TIÊU
CHẢY KÉO DÀI TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2

TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá lợi ích của bồi phụ kẽm nguyên
tố trong điều trị tiêu chảy kéo dài (TCKD). Một nghiên cứu thử nghiệm lâm
sàng có kiểm chứng được thực hiện trên 71 trẻ TCKD nhập viện Bệnh viện
Nhi đồng 2 từ 3/1999 đến 3/2001. Ba mươi lăm trẻ thuộc nhóm kẽm được
cho uống gluconate kẽm (3mg/kg/ngày kẽm nguyên tố) và 36 trẻ thuộc
nhóm chứng không được uống kẽm. Cả hai nhóm có những đặc điểm lâm
sàng về độ nặng, thời gian, tuổi, tình trạng dinh dưỡng, kẽm huyết thanh,
đạm máu không khác nhau ở đầu nghiên cứu. Kết quả cho thấy nhóm được
bổ sung kẽm có kẽm huyết thanh tăng cao hơn nhóm chứng (p<0,001).
Không có sự khác nhau về độ tăng cân và thời gian điều trị giữa nhóm kẽm
và nhóm chứng. Trong phân nhóm trẻ có kẽm huyết thanh ban đầu giảm rõ
(<60mg/dl), nhóm được bổ sung kẽm có tăng cân hơn (p<0,05) và thời gian
điều trị rút ngắn hơn trẻ trong nhóm chứng (p<0,01). Trong phân nhóm suy
dinh dưỡng gầy mòn, bồi phụ kẽm cũng mang lại lợi ích rút ngắn thời gian
điều trị (p<0,05). Độ tăng kẽm huyết thanh sau điều trị có liên quan nghịch
chiều với kẽm huyết thanh ban đầu. Như vậy bổ sung kẽm nguyên tố cho các
trẻ tiêu chảy kéo dài có kẽm huyết thanh ban đầu thấp <60mg/dl làm rút
ngắn thời gian điều trị và tăng cân. Bổ sung kẽm còn mang lợi ích giảm thời
gian điều trị cho các trẻ tiêu chảy suy dinh dưỡng gầy mòn. Bổ sung kẽm cải
thiện tình trạng kẽm cơ thể và độ tăng tương quan nghịch với kẽm huyết
thanh ban đầu.
SUMMARY
THERAPEUTIC EFFECT OF ORAL ZINC SUPPLEMENTATION
IN CHILDREN
WITH PERSISTENT DIARRHEA HOSPITALIZED IN CHILDREN
HOSPITAL N2
Tran Thi Thanh Tam * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 6 - No 2 -


2002: 97 – 103
The objective of the study is to evaluate the benefit of zinc
supplementation in treatment of persistent diarrhea. A randomized controlled
study was carried out on 71 children with persistent diarrhea hospitalized in
Children Hospital N2 from 3/1999 to 3/2001. Thirty - five children recruited
in the zinc supplement group were given zinc gluconate (3mg/kg/day zinc
element) and 36 children in control group. The two groups were similar at
baseline with regards to characteristics of the severity, the duration, the age,
the nutrition status, serum zinc, plasma protein. Supplemented children had a
significant improvement in serum zinc levels in comparison with controls
(p<0.001). There was no difference in weight gain and duration of illness
between supplemented and controls. Among the subset of children with
serum zinc levels <60mg/dl at admission, supplemented children had a
better weight gain (p<0.05) and shorter duration of treatment (p<0.01) as
compared to controls. Among the wasted children, there was a significant
reduction in the duration of treatment (p<0.05). The increase in serum zinc
levels after treatment were negatively correlated with serum zinc levels at
admission. In conclusion, oral zinc supplementation for subgroup of
persistent diarrheal children with low serum zinc level, or with wasted
situation significantly reduces duration of illness and increases the weight
gain. Oral zinc supplementation also improve zinc status and the change in
serum zinc levels is negatively associated with its level at baseline.
ĐẶT VẤN ĐE
Tiêu chảy kéo dài ở trẻ em là tình trạng tiêu chảy cấp mà thời gian bị
bệnh kéo dài trên 14 ngày. Trung bình có từ 3 - 20% các đợt tiêu chảy cấp
chuyển thành tiêu chảy kéo dài
(6)
. Nghiên cứu ở Brazil, Gambia, Ấn độ thấy
tỉ lệ mắc bệnh tiêu chảy kéo dài ở trẻ 6 - 23 tháng là 31 - 210 lượt/100
trẻ/năm. So với tiêu chảy cấp, bệnh gặp ít hơn nhưng nó cùng với suy dinh

dưỡng tạo thành vòng xoắn bệnh lý phức tạp ảnh hưởng sâu sắc tới sự tăng
trưởng và phát triển của trẻ. Căn nguyên của bệnh chưa thật rõ ràng, vì vậy
vấn đề điều trị còn thật nan giải.
Gần đây có nhiều tác giả đã chứng minh kẽm huyết thanh giảm nhẹ ở
các trẻ tiêu chảy cấp, và giảm đáng kể ở các trẻ tiêu chảy kéo dài trên 10
ngày
(7,17)
, có sự liên quan chặt chẽ của kẽm huyết thanh và mất kẽm qua
phân tiêu chảy
(2,3,15)
. Việc giảm kẽm trong cơ thể làm chậm quá trình tái tạo
và phục hồi về cấu tạo và chức năng tế bào niêm mạc ruột dẫn đến kéo dài
thời gian tiêu chảy
(3,14,21)
. Hiệu quả chính của các nghiên cứu bồi phụ kẽm
trên bình diện cộng đồng đã làm giảm tỷ lệ mắc tiêu chảy cấp và kéo dài
đáng kể
(13,19)
. Mặc dù có nhiều công trình chứng minh tác dụng điều trị của
nguyên tố kẽm trong tiêu chảy cấp
(11,16,18)
, nhưng thông tin về vai trò của
kẽm trong điều trị tiêu chảy kéo dài còn hạn chế cả trong nước và ngoài
nước. Trong một nghiên cứu ban đầu về bồi phụ kẽm cho trẻ suy dinh dưỡng
tiêu chảy kéo dài tại Ấn độ, Sachdev và cs chỉ có thể chứng minh hiệu quả
có lợi của bồi phụ kẽm đối với nồng độ kẽm trong mẫu mô trực tràng bị
giảm thấp ở các trẻ này
(14)
. Một nghiên cứu tương tự ở các trẻ tiêu chảy kéo
dài Bangladesh cho thấy sự cải thiện rõ rệt tính thấm của ruột ở các trẻ thuộc

nhóm được bồi phụ kẽm
(10)
. Ở Việt Nam, Hoàng Thị Thanh và cs
(4)
cũng có
một nghiên cứu nói lên vai trò của bù kẽm nguyên tố trong tiêu chảy kéo dài.
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá vai trò của bồi phụ kẽm trên điều
trị tiêu chảy kéo dài ở trẻ em.
Đối tượng VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
- Tất cả bệnh nhi nhập viện khoa tiêu hóa bệnh viện Nhi đồng 2 từ
3/1999 đến 3/2001 có các tiêu chuẩn đưa vào lô nghiên cứu sau
- tuổi: 2 tháng - 60 tháng
- tiêu chảy phân nước, ³ 3 lần/ngày, kéo dài liên tục ít nhất 14 ngày
- Loại trừ các bệnh nhân:
- có kèm các bệnh mạn tính, dị tật bẩm sinh
- bắt đầu tiêu chảy từ thời kỳ sơ sinh
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng
Tất cả các bệnh nhân được chọn vào 2 lô: lô có bồi phụ kẽm (lô kẽm)
và lô không có uống kẽm (lô chứng) theo thứ tự chẵn lẻ của hồ sơ nghiên
cứu.
Cách thực hiện
- Mỗi bệnh nhân trong lô nghiên cứu vào viện được làm hồ sơ theo
mẫu nghiên cứu (ngoài mẫu hồ sơ chung của bệnh phòng)
- Điều trị chung
+ Điều trị phòng mất nước hay bù nước theo phác đồ A,B,C
+ Điều trị nguyên nhân
+ Kiểm soát chế độ nuôi dưỡng
+ Bổ sung kẽm

+ Bổ sung đa sinh to
+ Điều trị bệnh kèm theo (viêm phổi )
+ Điều trị triệu chứng (chướng bụng, nôn, sốt)
- Bổ sung kẽm
Kẽm nguyên tố được bồi phụ dưới dạng viên gluconate de zinc của
hãng Mason, Mỹ, hàm lượng 50mg kẽm nguyên tố cho mỗi viên nén tròn
màu trắng. Thuốc chỉ có một dạng duy nhất được cung cấp cho bệnh nhân.
Liều lượng 3mg/kg/ngày uống một lần duy nhất vào cữ thuốc buổi sáng.
Thời gian điều trị: bắt đầu từ ngày thứ hai sau khi nhập viện đến 2 tuần lễ
sau. Nếu xuất viện trước 2 tuần thì sẽ được ghi đơn cho đủ thời gian điều trị.
- Kiểm soát chế độ nuôi dưỡng
Tất cả các trẻ nếu có bú mẹ được khuyến khích tiếp tục bú mẹ. Trẻ
nào ăn dặm bột hoặc cháo thì tiếp tục như vậy theo lứa tuổi phù hợp. Cháo
và bột được người nhà chuẩn bị theo hướng dẫn của bác sĩ. Trẻ nào bú sữa
công thức từ nhỏ thì chuyển toàn bộ sang sữa đậu nành công thức và vẫn
tiếp tục ăn dặm như trên. Trẻ được mẹ khuyến khích ăn nhiều bữa và càng
nhiều càng tốt theo khả năng của trẻ. Chỉ có các trường hợp suy dinh dưỡng
nặng mới cần phải đưa vào phòng cấp cứu và cho ăn qua ống thông dạ dày.
- Chỉ tiêu đánh gia
+ Lâm sàng:
- thời gian ngưng tiêu chảy sau khi điều trị. Ngưng tiêu chảy được
định nghĩa như 3 ngày liên tục tiêu phân đặc
- tăng trọng (g/kg thể trọng/tổng số ngày điều trị)
- thời gian bắt đầu tăng trọng
- sự thay đổi Z-score của cân nặng theo tuổi
+ Cận lâm sàng
- soi cấy phân, pH phân
- kẽm huyết thanh trước và sau điều trị
- đạm máu và albumine máu
- Kỹ thuật xét nghiệm

- Các xét nghiệm thông thường được thực hiện tại phòng xét nghiệm
huyết học và sinh hóa của bệnh viện Nhi đồng 2.
- Kẽm huyết thanh được đo bằng phương pháp quang phổ hấp thụ
nguyên tử, đọc ở bước sóng 560nm, thực hiện tại phòng xét nghiệm sinh hóa
bệnh viện Chợ Rẫy.
Xử lý số liệu
+ chương trình Epinut: xử lý các số liệu nhân trắc thành các chỉ số Z
score
+ chương trình SPSS 9.05 for windows để thực hiện thống kê mô tả
và phân tích.
KẾT QUA
Bảng 1: So sánh các đặc điểm nhập viện của hai nhóm

Nhóm
kẽm (n=35)

Nhóm
chứng
(n=36)
Giá
trị p
Nam:Nư 21/14

16/20

>0,05
Tuổi (tháng)

10,09
± 9,2

8
,86 ±
10,32
>0,05
Cân n
ặng
theo tuổi Z score
-1,44
± 1,015
-0,90
± 1,49
>0,05
Chi
ều cao
theo tuổi Z-score
-1,03
± 1,04
-0,60
± 1,53
>0,05
Cân n
ặng
theo chi
ều cao Z
score
-0,79
± 1,24
-0,59
± 1,48
>0,05

Vòng cánh
tay (cm)
13,13
± 1,12
13,78
± 4,96
>0,05
Hemoglobine
(g/dl)
12,33
± 1,08
11,59
± 1,57
>0,05
CRP (mg/l) 13,81
± 16,01
22,65
± 48,98
>0,05
VS gi
ờ thứ 1
(mm)
10,8 ±
11,78
13,14
± 23,55
>0,05
VS gi
ớ thứ 2
(mm)

22,77
± 22,43
22,47
± 29,94
>0,05
Đ
ạm máu
(g/l)
63,24
± 6,53
64,23
± 6,81
>0,05
Albumine
máu (g/l)
35,99
± 6,4
36,77
± 5,06
>0,05
K
ẽm huyết
thanh ban đ
ầu
(mg/dl)
95,23
± 54,55
95,75
± 54,46
>0,05

Bảng 2: So sánh đặc điểm tiêu chảy khi mới nhập viện

Nhóm
kẽm (n= 35)

Nhóm
chứng
(n=36)
*
Th
ời gian


Nhóm
kẽm (n= 35)

Nhóm
chứng
(n=36)
tiêu ch
ảy
trư
ớc khi
nh
ập viện:
14 -
30
ngày
>30
ngày

27
(77,1%)
8
(22,9%)
28
(77,8%)
8
(22,2%)
* Tính
ch
ất phân lúc
nhập viện
Nước
nhiều
Nhày
nhớt
Nhày

24
(68,6%)
11
(31,4%)
0

20
(55,6%)
13
(36,1%)
3
(8,3%)


Nhóm
kẽm (n= 35)

Nhóm
chứng
(n=36)
máu
* S

lần ti
êu
ch
ảy/24 giờ
trư
ớc nhập
viện: 3 -
5
lần
6-10
lần
>10 lần


6
(17,1%)
25
(71,4%)
4
(11,4%)


7
(13,4%)
25
(69,4%)
4
(11,1%)
* S
ốt
trong vòng
24 giờ trư
ớc
ho
ặc sau
nhập viện:


20
(57,1%)


24
(66,7%)

Nhóm
kẽm (n= 35)

Nhóm
chứng
(n=36)

Không
sốt (<37,5
0
C)
Có s
ốt
(³37,5
0
C)
15
(42,9%)
12
(33,3%)

Nhóm
kẽm (n= 35)

Nhóm
chứng
(n=36)
Tình
tr
ạng mất

ớc lúc nhập
viện
Không
mất nước
Có m
ất

nước
Mất
nước nặng

33
(94,3%)
2
(5,7%)
0

34
(94,4%)
1
(2,8%)
1
(2,8%)
Tất cả sự khác nhau về đặc điểm tiêu chảy giữa hai nhóm không có ý
nghĩa thống kê với phép kiểm Chi bình phương, độ tin cậy 95%.
Bảng 3: Kết quả điều trị lâm sàng của nhóm điều trị và nhóm chứng
Tri
ệu
Nhóm
Nhóm
P
chứng kẽm (n=35)

chứng
(n=36)
(phép ki
ểm

T)
Thời
gian đi
ều trị
(ngày)
7,37 ±
9,26
8,31 ±
4,33
>0,05

Thời
gian n
ằm
viện (ngày)

10,91
± 9,27
10,67
± 7,30
>0,05

Tăng
cân
(g/kg/thể
trọng /ngày)

3,93 ±
6,23
4

,36 ±
5,68
>0,05

Thay
đổi Z-
score
cân n
ặng
theo tuổi
0,19 ±
0,44
0,30 ±
0,54
>0,05

Các kết quả lâm sàng cho thấy không có sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê giữa hai nhóm được uống kẽm và không được uống kẽm.
Số trẻ có kẽm huyết thanh giảm rõ <60mg/dl là 27 trẻ, chiếm 38%
tổng số trẻ nghiên cứu. Khi nghiên cứu hiệu quả của bù kẽm trên nhóm bệnh
nhân này ta nhận thấy sự khác nhau về các chỉ tiêu lâm sàng có ý nghĩa
thống kê (bảng 4).
Bảng 4: Kết quả điều trị lâm sàng trong nhóm kẽm huyết thanh
<60mg/dl
Triệ
u
chứng
Nhóm
k
ẽm (n =

10)
Nhóm
ch
ứng (n =
17)
P
(phép ki
ểm
T)
Thời
gian đi
ều trị
(ngày)
6,2 ±
1,03
10,47
± 4.64
<0,05

Tăng
cân (g/kg
thể
trọng/ngày)

7,18 ±
4,16
2,81 ±
3,45
<0,01


Bảng 5: Hiệu quả của việc bù kẽm trên thời gian điều trị ở các nhóm
bệnh nhân tiêu chảy kéo dài có suy dinh dưỡng
Th
ời gian điều trị
(ngày)

Nhóm
kẽm
Nhóm
chứng
P
Z-
score
chiều
cao/tuổi <-
2 (SDD
còi)
N = 4

19,5 ±
2,7
N = 7

11,2 ±
5,45
>
0,05
Z-
score cân
n

ặng/chiều
cao<-2
(SDD g
ầy
mòn)
N = 3

6,67 ±
0,58
N = 6

13,67
± 5,47
<
0,05
Th
ời gian điều trị
(ngày)

Nhóm
kẽm
Nhóm
chứng
P
Z-
score cân
n
ặng /tuổi
(SDD nh


cân)
N=5
17,11
± 2,4
N=14

11,36
± 4,26
>0,05

Ở những bệnh nhân có suy dinh dưỡng nhẹ cân và còi cọc, chúng tôi
chưa phát hiện được sự khác nhau về thời gian điều trị giữa nhóm kẽm và
nhóm chứng. Trên những bệnh nhân tiêu chảy kéo dài có suy dinh dưỡng
gầy mòn thì bổ sung kẽm mang lại hiệu quả rút ngắn thời gian điều trị.
Trước điều trị và sau điều trị, ở cả hai nhóm chứng và kẽm đều có sự
gia tăng kẽm máu một cách đáng kể và có ý nghĩa thống kê, nhưng sự gia
tăng kẽm ở nhóm có điều trị lớn hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (bảng
6)
Bảng 6: So sánh mức thay đổi kẽm huyết thanh ở hai nhóm điều trị

Nhóm
chứng
(n=36)
Nhóm
kẽm (n=35)

P (test
T)
M
ức

chênh l
ệnh
k
ẽm huyết
thanh
trước v
à
sau đi
ều trị
(mg/dl)
15,25
± 19,24
35,33
± 28,34
<0,001

Bảng 7: Tương quan Pearson giữa thay đổi kẽm huyết thanh trước và
sau điều trị với nồng độ kẽm huyết thanh ban đầu
Hệ
số t
ương
quan R
Phương
trình tuy
ến
tính c
ủa thay
đ
ổi kẽm ht (Y)
theo n

ồng độ
k
ẽm ht ban
đầu (x)
T
ất cả
trẻ tron
g
nghiên c
ứu
(n=71)
-
0,479
(p<0,001)

Y= -
0,368x +
53,592
Nhóm
có b
ổ sung
kẽm (n=35)
-
0,586
(p<0,001)

Y= -
0,431x +
64,871
Nhóm

chứng
(n=36)
-
0,441
(p<0,001)

Y=-
0,39x + 49,465

Bảng 7 cho thấy có sự liên quan giữa độ tăng của kẽm huyết thanh và
nồng độ kẽm huyết thanh ban đầu. Đây là mối tương quan nghịch tức là kẽm
huyết thanh ban đầu thấp thì gia tăng kẽm huyết thanh sau điều trị càng
nhiều, và ngược lại. Mối tương quan này mạnh ở nhóm có bổ sung kẽm và
yếu ở nhóm không có bổ sung kẽm.
Bảng 8: Tình trạng kẽm huyết thanh ban đầu theo thời gian tiêu chảy
Thời
gian tiêu
chảy (ngày)

Kẽm
máu ³ 60
mg/dl
Kẽm
máu < 60
mg/dl
14-30
ngày
38
(70%)
17

(30%)
>30
ngày
6
(40%)
16
(60%)
Phép kiểm l
2
, p<0,05
Tiêu chảy kéo dài từ 2 đến 4 tuần có 30% trẻ có kẽm máu giảm rõ, và
khi tiêu chảy kéo dài trên 4 tuần có đến 2/3 trẻ bị giảm kẽm máu. Sự khác
nhau về tỷ lệ này có ý thống kê.
BÀN LUẬN
Tiêu chảy ở trẻ nhỏ gây ra một tình trạng giảm kẽm huyết thanh và độ
giảm liên quan nghịch chiều với thời gian tiêu chảy
(7)
. Vì vậy các nghiên cứu
về vai trò của kẽm trong điều trị tiêu chảy kéo dài đều nêu lên một tỷ lệ trẻ
bị giảm kẽm huyết thanh kèm với tình trạng tiêu chảy. Nghiên cứu này đã
chỉ ra tỷ lệ trẻ tiêu chảy kéo dài có kẽm huyết thanh giảm rõ <60 mg/dl là
38%. Điều này phù hợp với tỷ lệ đưa ra trong các nghiên cứu khác của
Penny (ở Peru), Bhutta (ở Pakistan), Sazawal (ở An độ), Hoàng Thị Thanh
(ở Việt Nam) lần lượt là: 20%
(9)
, 29%
(1)
, 37%
(18)
, 49,4%

(4)
. Với cùng một
điểm ngưỡng <60 mg/dl, tỷ lệ giảm kẽm huyết thanh trong nghiên cứu
chúng tôi tương đương với tác giả ở An độ, nhưng lại thấp hơn so với tác giả
Thanh làm tại miền Bắc Việt Nam. Sự khác nhau này có thể được giải thích
do chế độ ăn, tình hình bệnh tật nhất là các bệnh lý đường ruột ở hai miền có
khác nhau. Phải chăng sự khác nhau này cũng nói lên xuất độ lưu hành của
tình trạng thiếu kẽm nói chung đối với trẻ em hai miền cũng có khác nhau.
Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng bổ sung 3mg/kg kẽm nguyên tố
cho trẻ em tiêu chảy kéo dài nói chung không làm tăng trọng hay giảm thời
gian điều trị khi so với nhóm chứng không được bổ sung kẽm, dù rằng bổ
sung kẽm đã làm tăng kẽm huyết thanh đáng kể so với nhóm chứng. Trong
khi đó, ở nhóm trẻ có kẽm huyết thanh giảm rõ, hiệu quả của bổ sung kẽm
làm cải thiện hai chỉ số lâm sàng rõ rệt là rút ngắn thời gian tiêu chảy và tăng
trọng đáng kể. Rõ ràng bổ sung kẽm ở trẻ bị giảm kẽm huyết thanh mang lại
lợi ích lâm sàng rõ rệt trong điều trị. Một nghiên cứu về tiêu chảy kéo dài ở
Peru
(9)
cũng cho kết quả tương tự: bổ sung 20mg gluconate kẽm cho các trẻ
tiêu chảy kéo dài làm rút ngắn thời gian điều trị chỉ ở nhóm trẻ có hàm
lượng kẽm huyết thanh <60mg/dl, mà không có hiệu quả trên tổng thể các
trẻ tiêu chảy kéo dài. Trong 6 nghiên cứu trước đây về bổ sung kẽm cho các
bệnh nhân tiêu chảy kéo dài, một ở Peru
(9)
, hai ở Bangladesh
(5,12)
, một ở An
độ
(14)
, một ở Pakistan

(1)
, và một ở Việt Nam
(4)
đều cho thấy một khuynh
hướng giảm thời gian điều trị và tăng trọng, nhưng chỉ có một nghiên cứu
cho thấy sự khác nhau với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê
(4)
. Nhưng hiệu
quả của bổ sung kẽm trên các đối tượng tiêu chảy kéo dài có suy dinh dưỡng
gầy mòn, còi cọc, trẻ nhỏ <12 tháng, và có kẽm huyết thanh giảm rõ <60
mg/dl thì được xác định rõ trong hầu hết các nghiên cứu trên với ý nghĩa
thống kê. Có thể việc không tìm được hiệu quả có ý nghĩa thống kê trong
việc bổ sung kẽm điều trị cho trẻ tiêu chảy kéo dài xuất phát từ một hoặc
nhiều nguyên nhân sau: (1) sự khác nhau của thời gian điều trị giữa hai
nhóm tương đối nhỏ nên muốn phát hiện nó cần một cỡ mẫu lớn; theo
Penny
(9)
tính toán mỗi nhóm trong nghiên cứu thử nghiệm này cần phải đạt
tới 165-400 trẻ. (2) nguyên nhân và yếu tố góp phần trong tiêu chảy kéo dài
rất phức tạp, do đó khó cân bằng hoặc loại trừ các yếu tố này giữa 2 nhóm
chứng và điều trị (3) tần suất trẻ có kẽm huyết thanh thấp ở trẻ tiêu chảy kéo
dài thay đổi từ 20% đến 50%
(1,4,5,912)
, nên nghiên cứu của các tác giả Hoàng
Thị Thanh và Nguyễn Gia Khánh
(4)
dễ tìm thấy sự khác nhau hiệu quả lâm
sàng có ý nghĩa thống kê hơn là các tác giả khác kể cả nghiên cứu này do có
xuất độ kẽm huyết thanh giảm ít hơn, vì vậy như đã nói cần phải có cỡ mẫu
rất lớn. Thật vậy bằng phương pháp phân tích hồi quy sinh tồn Cox, nhóm

nghiên cứu kẽm
(20)
đã phân tích góp chung 4 nghiên cứu về bổ sung kẽm cho
tiêu chảy kéo dài nhận thấy kẽm đã làm giảm đi 24% khả năng tiếp tục tiêu
chảy và giảm 42% điều trị thất bại hoặc tử vong.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng bổ sung kẽm cho các trẻ tiêu
chảy kéo dài, chúng tôi rút ra các nhận xét sau:
1. Tỷ lệ trẻ tiêu chảy kéo dài có nồng độ kẽm huyết thanh giảm rõ <60
mg/dl là 38%
2. Thời gian tiêu chảy càng dài, số trẻ có kẽm huyết thanh giảm càng
cao.
3. Điều trị bổ sung kẽm cải thiện tình trạng kẽm cơ thể rõ rệt qua việc
làm tăng kẽm huyết thanh có ý nghĩa thống kê.
4. Bổ sung kẽm song song với các biện pháp khác trong điều trị tiêu
chảy kéo dài có lợi ích lâm sàng rõ ở trẻ có thời gian tiêu chảy dài ngày (>3
-4 tuần), trẻ có kẽm huyết thanh <60 mg/dl, trẻ bị suy dinh dưỡng gầy mòn.
5. Do hạn chế của thử nghiệm chưa phát hiện được hiệu quả lâm sàng
có ý nghĩa thống kê trên tất cả trẻ bị tiêu chảy kéo dài, nhưng do hiệu quả
làm cải thiện tình trạng kẽm cơ thể, và hiệu quả nhận biết được qua phân
tích góp chung của các nghiên cứu ngoài nước, chúng tôi khuyến cáo điều trị
bổ sung kẽm cho tất cả trẻ bị tiêu chảy kéo dài.

×