z
ĐỀ TÀI
Gía trị nhân văn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên thực hiện :
Sinh viên thực hiện :
1
Phụ Lục Trang
I .Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài 1
2 . Đối tượng , nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu 2
3.Ý nghĩa đề tài
II.Nội dung
1. Con người là vốn quý nhất - nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng
1.1 Nhận thức về con người 3
1.2 Thương yêu con người, thương yêu nhân dân 4
1.3 Tin vào sức mạnh, phẩm giá và tính sáng tạo 6
của con người
1.4 Lòng khoan dung rộng lớn 9
2. Con người vừa là mục tiêu,vừa là động lực cách mạng
11
2.1 Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
2.2 Con người là động lực của cách mạng
12
3. Xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của cách mạng
13
III.Kết luận 14
Tài liệu tham khao 16
Phụ lục 17
2
3
I.Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài:
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng với bao trang sử chói lọi.
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần đoàn kết,
tương thân tương ái đã trở thành sức mạnh của dân tộc ta, giúp chúng ta
chiến thắng bao kẻ thù. Không những thế, tình cảm thiêng liêng cao quý
đó còn trở thành niềm tự hào bao đời của những người con đất Việt. Từ
những tháng ngày lao khổ đến giây phút vinh quang, từ ngày bị áp bức
đến ngày giành lại nền độc lập, dân tộc ta đã phải trải qua bao thăng trầm,
đã chịu quá nhiều nỗi đau và nước mắt. Và cũng chính từ trong quá trình
dựng nước và giữ nước oanh liệt ấy, những truyền thống quý báu và phẩm
chất tốt đẹp của nhân dân ta đã nở hoa, trong đó nổi bật là tư tưởng nhân
văn nhân đạo, tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau: “Bầu ơi thương lấy bí
cùng”, “Thương người như thể thương thân” . Đó là nét đẹp nổi bật đáng
tự hào của con người Việt Nam, nhất là trong cơn hoạn nạn, rủi ro. Lòng
nhân ái của từng người con đất Việt đã gắn chặt vận mệnh của họ với sự
sống còn, tồn vong của dân tộc, với sự hùng cường, thịnh trị của Tổ quốc.
Càng yêu con người, càng thương con người, họ càng có thêm ý chí kiên
cường, tinh thần bất khuất, dám xả thân, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, dám vươn lên để tìm con đường giải thoát cho dân tộc khỏi đói
nghèo và xây dựng đất nước cường thịnh. Giống như bao người con đất Việt,
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong lòng một dân tộc giàu
truyền thống nhân ái. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở
những yêu cầu nhân bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con
người những gì mà con người có quyền được hưởng, trước hết là quyền
được sống, theo nghĩa "người ta sinh ra ai cũng có quyền được sống, được
tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc". Tư tưởng nhân văn
Hồ Chí
Minh được
nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ của toàn
nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục Hưng, Khai sáng.
Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận
khoa học, học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng Cộng sản
Chủ nghĩa của các lãnh tụ thiên tài: C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin.Vì
vậy em chọn đề tài này nhằm làm rõ giá trị nhân văn trong tư tưởng của
Người, tìm kiếm phương châm hành động với tình yêu thương con người
trở thành lẽ sống, yêu thương con người gắn với lòng tin con người,dùng
sức mạng con người để giải phóng và phục vụ con người của Bác.
4
2.Đối tượng , nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu:
- Về đối tượng nghiên cứu: Đó là tư tưởng nhân văn nhân đạo mà Người
hướng đến xuyên suốt trong cuộc đời chính trị và nghệ thuật của mình.
- Về phương pháp luận, Hồ Chí Minh sử dụng phương pháp biện chứng
duy vật hành động khoa học, không giáo điều, rập khuôn, máy móc hoặc
xét lại, bảo thủ trì trệ. Hồ Chí Minh luôn nhắc chúng ta học đi đôi với
hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, bất cứ ai làm việc gì, ở cấp bậc nào
đều phải đi sâu nghiên cứu lý luận, không ngừng học tập nâng cao trình
độ, đồng thời phải coi trọng tổng kết thực tiễn, bổ sung để làm sáng rõ
cho lý luận.
- Nhiệm vụ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: Giáo dục toàn diện về
mặt đạo đức giác ngộ Xã hội Chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động
và sản xuất nhằm tẩy sạch ảnh hưởng chế độ giáo dục nô dịch thực
dân còn sót lại như: thái độ thờ ơ với xã hội, xa với đời sống lao động
và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi
sọ Cần xây dựng tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, giáo
dục phải toàn diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con người lao động
mới.
3.Ý nghĩa đề tài:
- Ý nghĩa của đề tài soi đường cho Đảng và nhân dân trên con đường
xây dựng đất nước, nâng cao tư duy lí luận, rèn luyện bản lĩnh chính
trị, nâng cao đạo đức cách mạng năng lực công tác, thực hiện tốt các
nhiệm vụ trọng đại của Đảng và nhà nước ta.
II.Nội dung
1. Con người là vốn quý nhất - nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt
Nam. Khi trở thành lãnh tụ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Người không màng danh lợi cá nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc
của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất
nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ Cách mạng Việt
Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh
phúc cho nhân dân. Tư tưởng đó được kết tinh thành một tuyên ngôn bất
5
hủ không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài
người tiến bộ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”
Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra
con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là "Độc lập dân tộc gắn
liền với Chủ nghĩa xã hội". Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất
nước còn nô lệ. Vì vậy, ham muốn tột bậc của Người là "làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do" (Sđd, t4,
tr161). “Độc lập, tự do” trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hy
sinh, cống hiến của Người. Bởi đó là điều kiện tiên quyết đem lại hạnh
phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vô cùng rộng lớn, nhưng tựu chung
lại vẫn là tình yêu thương con người. Tình yêu thương con người ở Hồ
Chí Minh đã trở thành lẽ sống của Người, yêu thương con người gắn với
tin ở con người, dùng sức của con người để giải phóng cho con người, vì
con người và phục vụ con người.
1.1 Nhận thức về con người
Khác với một số quan niệm chưa đúng đắn về nhân dân lao động, về
con người,tôn giáo, v.v Hồ Chí Minh đề cập con người cụ thể gắn với
từng thời kì lịch sử; không có con người chung chung, trừu tượng phi
nguồn gốc lịch sử hay con người kiểu tôn giáo. "Chữ người, nghĩa hẹp là
gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn… Nghĩa rộng là đồng bào cả nước.
Rộng hơn nữa là cả loài người", Hồ Chí Minh đã từng nói như vậy, quan
niệm “bốn bể đều là anh em” rất rõ ràng, cụ thể. Tình thương yêu con
người của Hồ Chí Minh chính là sự đồng cảm với những người cùng
chung cảnh ngộ, của những người dân mất nước, nô lệ, lầm than. Trái tim
Người hoà nhịp với khát vọng cháy bỏng được giải phóng của các dân tộc
bị áp bức. Người đau nỗi đau chung của nhân loại lầm than. Xuất phát từ
tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc,
giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công. “Từ giải phóng những người nô lệ
mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người”. Đó
chính là mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định trong Lời
ra mắt của báo “Người cùng khổ” (Le Paria) tại nước Pháp năm 1921.
Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, từ khi về nước lãnh đạo
nhân dân đấu
tranh giành chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh lại dùng
đến khái niệm "đồng bào", "quốc dân" Khi miền Bắc quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội, Người dùng thêm nhiều khái niệm như "công nhân", "nông
6
dân", "trí thức", "lao động chân tay", "lao động trí óc", "người chủ xã
hội"
1.2 Thương yêu con người, thương yêu nhân dân
Người từng nói: "Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề là vấn đề ở đời và
làm người ở đời và làm người phải là thương nước, thương dân, thương
nhân loại đau khổ bị áp bức". (Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật
Việt Nam, Nxb Pháp lý, H.1990, tr174).
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh xuất phát từ tình yêu thương
của những người đồng cảnh ngộ, mất nước, bị nô lệ, cùng chung số phận
bị áp bức bóc lột, đi tìm lối thoát cho dân tộc. không chung chung, trừu
tượng kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập
trường của giai cấp vô sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp bức,
đau khổ. Khi bôn ba nơi hải ngoại, chứng kiến cảnh bị áp bức bóc lột của
công nhân, của nhân dân lao động các nước Tư bản Chủ nghĩa, chứng
kiến cảnh bị áp bức của nhân dân các thuộc địa khác, tình yêu thương con
người ở Người mở rộng sang yêu thương những người cùng cảnh ngộ,
những người lao động nghèo đói, những người thuộc các dân tộc Việt
Nam. Xuất phát từ tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải
phóng cho dân tộc, giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công. Mục tiêu của
Hồ Chí Minh đã từng nói rõ trong lời ra mắt của báo Người cùng khổ (Le
Paria) năm 1921: "đi từ giải phóng những người nô lệ mất nước, những
người lao động cùng khổ đến giải phóng con người". Hồ Chí Minh
thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa
gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn
sống giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí
Minh lại là xa lạ. Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của
từng người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi người dân,
không quên, không sót một ai, từ những người bạn thuở hàn vi, đến
những người quen mới. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn
gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do
hạnh phúc cho con người.Với mục tiêu được xác định, Người trở về nước
thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức của
thực dân
Pháp và bè lũ tay sai. Với đường lối đúng đắn mà Người đề ra,
tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc vào một Mặt trận thống nhất và tranh thủ
sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, nhân dân ta đã đánh đuổi đế quốc thực
dân, giải phóng dân tộc, nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất và xây
dựng cuộc sống mới. Luôn thương yêu con người, nên Hồ Chí Minh luôn
khát khao hòa bình, một nền hòa bình thật sự, trong độc lập, tự do. Trước
cách mạng, trong kháng chiến, Hồ Chí Minh luôn có thái độ nghiêm túc,
thận trọng đối với vấn đề khởi nghĩa, tranh thủ khả năng phát triển hòa
7
bình để hạn chế sự đổ máu cho nhân dân ta và nhân dân các nước. Lãnh
đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người chủ trương chủ yếu sử
dụng bạo lực chính trị. Đó là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất. Sau Cách
mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã cố gắng làm tất cả những gì có thể
làm được để tránh cuộc chiến tranh Việt - Pháp. Nhưng khi bọn thực dân
hiếu chiến quyết gây ra chiến tranh để buộc dân ta sống kiếp đời nô lệ,
mất nước thì Hồ Chí Minh kêu gọi cả dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì nền hòa bình và phẩm giá của nhân loại tiến bộ.
Hồ Chí Minh coi sinh mạng con người là quý giá nhất. Theo Người,
"không có một trận đánh đẫm máu nào là "đẹp" cả, mặc dù thắng lớn.
Người quý trọng sứcdân, của dân; trọng người tài, đức, trân trọng "người
tốt, việc tốt" dù rất nhỏ".Người trân trọng từng ý kiến của dân, lắng nghe
dân, học hỏi dân, bàn bạc với dân, tự phê bình trước dân, trả lời ý kiến
của dân, tôn trọng và chấp hành nghiêm minh pháp luậtNgay sau khi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người đề ra những nhiệm
vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng với việc chống giặc
ngoại xâm. Trước mắt phải xóa đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển "làm
cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì
giàu thêm" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr65). Kinh tế
có phát triển, đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh.
Người từng nói: Tôi thấy các cháu bụng ỏng, mắt choẹt, tôi hết sức đau
lòng". Người yêu cầu những người lãnh đạo chính quyền phải chăm lo
đến đời sống nhân dân, phải chăm lo từ việc "tương cà, mắm muối của
dân", không được áp bức quần chúng nhân dân.
Người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù
chữ, phát triển giáo dục. Người từng nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu". Người yêu cầu đảng cầm quyền phải chăm lo đến nâng cao trình độ
học vấn cho nhân dân, chăm lo phát triển mọi mặt của dân tộc ta. Người
thường nói chế độ thực dân đã dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân
tộc ta, để hủ hóa nhân dân ta bằng những thói xấu như lười biếng, gian
xảo, tham ô. Cho nên phải làm sao để dân tộc Việt Nam trở thành một
dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với
nước Việt Nam độc lập, "sánh vai với các cường quốc năm châu". Tình
yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn ở nhân dân Việt
Nam mà ở tình bác ái bao la. Người từng vạch rõ: "Trừ bọn Việt gian bán
nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết
đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng,
giúp đỡ Phải thực hành chữ Bác-Ái" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb
CTQG, H.1995, t5, tr644). Người còn nói
"Lòng yêu thương của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ
8
thay
đổi" và
trước lúc đi xa, Người viết "Đầu tiên là vấn đề con người"
và "Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn
Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi
cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu
thanh niên, nhi đồng quốc tế".Chăm lo, bồi dưỡng, phát huy sức mạnh
của con người, tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp
của con người. Cách mạng Tháng Tám thành công, tại cuộc họp đầu tiên
của ủy ban nghiên cứu kế hoạch, kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục
tiêu của Nhà nước là: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm
cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành". Người còn nói: "Chúng ta
đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi
Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự
do, độc lập cũng không làm gì . Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc
lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ".
1.3 Tin vào sức mạnh, phẩm giá và tính sáng tạo của con người
Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng kiệt xuất của các anh hùng, hào kiệt
của dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi về sức mạnh của nhân
dân "Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ", "đẩy thuyền cũng là
dân mà lật thuyền cũng là dân". Người còn kế thừa tư tưởng nhân văn
"lấy dân làm gốc" và chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của học thuyết Mác để
hình thành tư tưởng nhân văn mới, tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh, tính
chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và lòng tôn trọng, kính trọng
nhân dân lao động. Người nói "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân".
Trong điều kiện bị đế quốc thực dân thống trị, kẻ thù đàn áp dã man,
cùng với chính sách ngu dân của chúng, người dân các nước thuộc địa
tưởng chừng
không thể
gượng dậy nổi, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
tin tưởng ở nhân dân mình, dân tộc mình " đằng sau sự phục tùng tiêu
cực, người Đông Dương đang dấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét
và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến " và sự tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ cần phải làm cái
việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi. Trong quá trình
đấu tranh, Người đã làm cho nhân dân thế giới nhận thức rõ vấn đề thuộc
địa, đoàn kết giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc là giúp đỡ cho chính
mình. Năm 1921, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm khác hẳn với
nhiều suy nghĩ lúc bấy giờ. Người viết: "Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn
thể xác, bị bịt mồm và bị giam hãm, người ta có thể tưởng rằng cái bẫy
9
người ấy cứ mãi mãi bị dùng làm đồ để tế cái ông thần tư bản, rằng bầy
người đó không sống nữa, không suy nghĩ nữa và là vô dụng trong việc
cải tạo xã hội. Không: người Đông Dương không chết, người Đông
Dương vẫn sống, sống mãi mãi Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người
Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ
một cách ghê gớm, khi thời cơ đến" Dân ta có tài năng, trí tuệ và sáng tạo,
họ biết
"giải quyết
nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ,
mà những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra". Đặc biệt là lòng sốt sắng,
hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí Minh có
niềm tin vững chắc với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân
tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta,
chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Điểm nhấn trong tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh không những
là tình thương, sự đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Thực
chất, đó không phải là lòng thương hại, mà chính là lòng tin vững chắc
vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Tư tưởng “Dĩ dân vi
bản” (Lấy dân làm gốc) với Người vẫn muôn đời không đổi. Lòng tin
của Người vào sức mạnh và tính sáng tạo của quần chúng nhân dân đã
khẳng định điều đó. Sống trong lòng nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân
dân nên suy nghĩ thường trực trong Người là “đem tài dân, sức dân, của
dân để làm lợi cho dân”.
Trên cơ sở của tình thương để đặt niềm tin vào con người, đây là nền
tảng thiết yếu của một hệ thống tư tưởng lớn hơn. Từ Thương (đồng
cảm) đến Tin rồi mới Trọng. Đây là một quá trình hoàn toàn biện chứng,
Hồ Chí Minh đã vận dụng vô tinh tế truyền thống của cha ông trong một
triết lý: “Có trọng người, kính người thì người mới trọng ta”. Ngày nay,
nội dung trên càng có ý nghĩa lớn lao, nó đã thúc đẩy và tạo được mối
dung hoà, gắn kết bền chặt ở cả lý luận và thực tiễn.
Người nhận thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng, "người là gốc của làng nước", "nước lấy dân làm
gốc", "gốc có vững cây mới bền", "xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân". Người còn nói rằng: "Dân như nước, mình như cá", "lực lượng
nhiều là ở dân hết". "Công việc đổi mới là trách nhiệm ở dân". Do đó,
Người yêu cầu "Đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân".
Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ
giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: nếu
không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có
Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo để
dân làm chủ. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Nhận thức như
10
vậy để hiểu rằng tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo
đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì sự
nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo
của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Tình thương bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với các anh
hùng, liệt sĩ, cán bộ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong, đối với
cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ, mà ngay cả đối với các nạn nhân
chiến tranh, đối với những người lầm đường lạc lối, những người thiếu
tu dưỡng…Người cũng tìm cách phát huy những ưu điểm và hạn chế
những nhược điểm của họ. Người căn dặn phải
giúp họ trở thành những người lao động lương thiện
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng "con người mới" vì
đây là động lực quyết định hướng đi lên của xã hội Việt Nam tương lai.
Người đòi hỏi phải có chiến lược trồng Người. Con người mới vừa là
nhân vừa là quả của quá trình đấu tranh xây dựng xã hội mới. Theo
Người, con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có tinh thần làm
chủ xã hội "đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan gánh vác, không
ỷ lại, không ngồi chờ". Con người mới phải có tri thức văn hóa và khoa
học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Con người mới phải có phẩm
chất đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính', "Chí công, vô tư". Phải
nghiêm khắc chống
chủ nghĩa cá nhân. Nhưng chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là
phủ định lợi ích chính đáng của cá nhân. Người nói: "Mỗi người đều có
tính cách riêng, sở
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Nếu lợi ích cá
nhân đó không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu".Theo
Người, con người mới Việt Nam là con người phải mang đậm truyền
thống dân tộc, đồng thời giàu chất quốc tế xã hội chủ nghĩa.
Một điểm rất nổi bật là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời
đại. Đó là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai
của đất nước. Trong chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy,
nhưng với nhãn quan duy vật
biện
chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy
được thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Thật hiếm thấy ở một vị
lãnh đạo quốc gia nào mà sự quan tâm đến con người, đến nhân dân lại
được đặt lên tầm lớn lao, sâu sắc nhưng hết sức cụ thể, thiết thực như ở
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tính nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là đặt hạnh phúc nhân dân lên trên hết. ở Hồ Chí Minh, nhân dân
không phải là một khái niệm chung chung, mơ hồ mà là cộng đồng Việt
Nam, là đồng bào, là từng con người, từng cuộc đời, từng hoàn cảnh cụ
11
thể. Cho đến lúc đi xa, Người chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân, sự phát
triển và tiến bộ của Đảng, của dân tộc; Người vẫn dành muôn vàn tình
thương yêu cho mọi người.
1.4 Lòng khoan dung rộng lớn
Tư tưởng bao dung Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm: “Sông to,
biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và
sâu. Cái ché nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn: vì độ
lượng nó hẹp nhỏ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân biệt bọn thực dân
cướp nước ta với nhân dân lương thiện ở các nước đó. Người cũng phân
biệt bọn hiếu chiến Mỹ với nhân dân Mỹ yêu tự do và hoà bình. Người
không hề đánh đồng bọn xâm lược Mỹ với nhân dân Mỹ. Và chính
Người đã coi bạn bè năm chân tận tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống đế
quốc Mỹ của nhân dân ta, trong đó có cả nhân dân yêu chuộng hoà
bình Mỹ.Vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tiến bộ xã hội, Hồ Chí Minh
đưa ra chủ trương có lý, có tình đối với kiều dân nước ngoài ở Việt Nam,
nhằm bảo vệ tính mạng,tài sản của họ. Người đánh giá cao vấn đề này và
ghép tội "vô cớ sát hại kiều dân ngoạiquốc" vào tử hình.Với lòng nhân ái
bao la, phát huy truyền thống "thương người như thể thương thân", "đánh
kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại", Hồ Chí Minh có chính sách khoan
hồng đại lượng, đối xử nhân đạo với tù binh.
Chủ nghĩa bao dung trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ
là sự quan tâm đến hạnh phúc của con người, mà còn là tấm lòng rộng
mở đối với cả tự nhiên. Người không quên dặn dò các thế hệ sau này phải
bảo vệ hệ sinh
thá
i cho đa dạng, cân bằng. Người đề xuất ý tưởng trồng
cây và bảo vệ sự trong sạch của môi trường sống. Trong tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề cần giáo dục đạo đức sinh thái cho nhân
dân.
Có thể nói, bao dung trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh gắn chặt chẽ
với các vấn đề đạo đức mới, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi là đạo đức
vĩ đại. Đạo đức này không chỉ quan tâm đến con người, thương người,
tin tưởng ở con người, tự giác phục vụ những lợi ích của con người mà
còn có cả tình cảm bao la quan tâm đến tự nhiên, bảo vệ mối quan hệ hài
hoà giữa con người với tự nhiên.
Sinh thời, Người trồng cây, nuôi cá, chăm chút từng gốc bưởi, hàng bụt
mọc nơi mình sinh sống. Người thương con người và thương yêu cả
cây cỏ, hoa lá. Tình cảm khoan dung Hồ Chí Minh là một nét đặc sắc
trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
12
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không phải là một chủ nghĩa nhân văn
không có tính chiến đấu. Hồ Chí Minh kiên quyết chống lại mọi cái gì
trái với lẽ phải. Vì thế, tính nhân văn trong tư tưởng của Người gắn liền
tình thương bao la với lẽ phải chân chính. Bọn xâm lược Mỹ, những
phần tử hại dân, hại nước, những hư hỏng của xã hội không thể được
khoan dung vô điều kiện. Phải cải tạo, phải đấu tranh để cho cái thiện
thắng cái ác.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện. Con người
không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, theo Người
phải "làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu bị mất dần đi". Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm,
đánh thức những gì tốt đẹp trong con người. Ngay cả đối với những
người lầm đường lạc lối, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất khoan dung,
độ lượng: "Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài
đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này,
thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy
nên ta phải khoan hồng đại độ". Khi cán bộ, đảng viên có lỗi, Người chú
ý giáo dục, nhẹ về xử phạt. Người cố gắng cổ vũ con người, hướng con
người tới chân - thiện - mỹ và trân trọng mọi ý kiến khác nhau, kể cả
những ý kiến không đồng tình, trái với suy nghĩ của Người. Ứng xử văn
hóa của Hồ Chí Minh đã tranh thủ được trái tim, khối óc của bạn bè năm
châu, làm cho kẻ thù cũng phải khâm phục.
Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh là kết tinh truyền thống nhân ái, độ
lượng Việt Nam và cũng là nét đặc trưng của văn hóa hòa bình trong thời
đại ngày nay. Người nói: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình
và bác ái”. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những giá trị khoan
dung của dân tộc và nhân loại, nâng
lên thành
một chất lượng mới, ở một
tầm cao mới.Là người cộng sản, Hồ Chí Minh có thái độ tôn trọng,
không bao giờ tỏ ra kỳ thị, bài bác mà luôn luôn có ý thức khai thác, vận
dụng những yếu tố tích cực của các học thuyết chính trị và tôn giáo như
Nho, Phật, Lão, Thiện chúa giáo… vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất
nước.Khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở chữ
“nhân” nhưng là một chữ nhân sáng suốt, có nguyên tắc, lấy công lý,
chính nghĩa là nền tảng, chủ trương giải quyết những vấn đề dân tộc và
quốc tế trên cơ sở “có lý, có tình”.Khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh là
thái độ trân trọng đối với mọi giá trị văn hóa nhân loại, là không ngừng
rộng mở, thâu hóa những yếu tố tích cực, tiến bộ và nhân văn của loài
người để làm giàu cho văn hóa Việt Nam. Khoan dung văn hóa Hồ Chí
Minh là chấp nhận giao lưu và đối thoại bình đẳng về giá trị để đạt tới cái
chung, cái nhân loại, để cùng tồn tại và phát triển. Trong khi chống thực
13
dân Pháp xâm lược, Người vấn đề cao văn hóa Pháp. Trong khi chống đế
quốc Mỹ, Người vẫn ca ngợi truyền thống văn hóa dân chủ và cách mạng
Mỹ. Nói về văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh, nhà báo Mỹ Đ.Han-bơ-
xtam đã thừa nhận: “Cụ Hồ đã làm được một điều đáng chú ý: biết dùng
tới văn hóa và tâm hồn kẻ thù để chiến thắng” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản văn hóa cao đẹp và phong phú,
trong đó không thể nhắctới những tư tưởng chỉ đạo của Người về xây
dựng một nền văn hóa mới: dân tộc, khoa học và nhân văn, một nền văn
hóa “lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”, “làm cho ai
cũng có lý tưởng, độc lập, tự chủ”, “văn hóa phải sửa đổi được tham
nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ”, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân
đi”… Những phương châm đó vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với
việc xây dựng nền văn hóa dân tộc, cho hôm nay và cả mai sau.
2. Con người vừa là mục tiêu,vừa là động lực cách mạng
2.1 Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết,
trên hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền
đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh
lại được ưu tiên hơn. Bởi vì, Người cho rằng, nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì; vì
vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có
mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Trong Di chúc,
Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con người". Xuất phát từ
truyền thống yêu nước, thương dân bị nô lệ, Hồ Chí Minh đi tìm đường
cứu nước, cứu dân. Suốt cuộc đời của người là vì dân, vì nước.
"Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là nước được độc lập,
tự do,
nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".Cách mạng
tháng Tám 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu
kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là:
"1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành".
14
Người còn nói "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập.
Chúng ta đã tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà
dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ
biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ" Do
vậy, khi có chính quyền rồi, Người luôn nhắc nhở phải xây dựng bộ
máy trong sạch, đấu tranh với những biểu hiện của thói quan liêu, hách
dịch, nhũng nhiễu nhân dân; phải dựa vào nhân dân, khơi dậy sức mạnh
tiềm tàng trong nhân dân để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng
đời sống mới trong nhân dân…
2.2 Con người là động lực của cách mạng
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi
cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và
nông dân. Điều
này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải
là
những con
người được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ
chức. Họ phải
có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền
thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam
Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát
triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước với nghĩa rộng,
vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp. Người khẳng
định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người
xã hội chủ
nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội
tạo ra. Nhưng ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì "trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa". Điều này cần được hiểu là
ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm
chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi
cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn
thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá
nhân mỗi người. Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một
nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng
giữa "xây dựng chủ nghĩa xã hội" và "con người xã hội chủ nghĩa".
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa có hai
mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của
con người truyền thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là hình thành
15
những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức cách
mạng; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có
lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
3. Xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của cách mạng
Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó
vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với
nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp.
Người khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh quan niệm"Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người".
Để "trồng người", có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện
pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại
tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng
xấu tới thế hệ trẻ. Hồ Chí Minh nói vai trò của giáo dục: Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn Cho nên phải chống giặc dốt
cũng như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm. Muốn có cán bộ
tốt, côn dân tốt, phải "trồng" và dĩ nhiên là rất công phu. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ cho chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục với
cách mạng, giữa giáo dục với sự nghiệp giải phóng dân tộc và kiến thiết
đất nước: "muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước
giàu mọi người Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn
phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc
xây dựng nước nhất. Vì thế, giáo dục có tầm quan trọng hàng đầu trong
chiến lược con người, bởi giáo dục đào tạo nên chất người, nên nhân tài.
Trong Nhật ký trong tù, Bác viết: "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn. Phần
nhiều do giáo dục mà nên". Chiến lược giáo dục là hạt nhân trong chiến
lược con người, cung cấp trí thức mới, đào tạo nên nhân tài cho đất nước.
Gửi thư cho học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945, Bác viết: "Ngày nay, các cháu được cái
may mắn hơn cha anh là được hưởng một nền giáo dục của một nước độc
lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các cháu nên nhưng người công dân
có ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn
năng lực sẵn có của các cháu… Đó là một nền giáo dục “vì lợi ích trăm
năm" của đất nước.
Trong năm vừa qua, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả
16
một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực…
thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống, tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí… Vì thế trong công tác cán bộ, Đại hội X đã
đưa ra mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa… Đại hội X đã đề ra mục tiêu những năm tới của giáo dục và
đào tạo là: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ
chức, nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa” chấn hưng nền giáo dục Việt Nam
Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể,
mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội
chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, không tách
rời nhau, trong đó
"đức" là
gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải
kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm Có như vậy
mới có thể "học để làm người". "Trồng người" là công việc "trăm năm",
không thể nóng vội "một sớm một chiều", không phải làm một lúc là
xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó.Nhận thức và giải
quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi
con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy không
được coi nhẹ, sao nhãng sự nghiệp giáo dục. Theo tinh thần của V.I.
Lênin: "Học học nữa, học mãi" và của Khổng Tử: "Học không biết chán,
dạy không biết mỏi", Hồ Chí Minh cho rằng: "Việc học không bao giờ
cùng, còn sống còn phải học".Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
một hình mẫu của con người nhân văn của thời đại mới. Trong con người
Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lòng yêu thương con người với lòng
tin, sự tôn trọng và ý chí cùng hành động triệt để giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người.
III.Kết luận
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình mẫu về một con người nhân
văn của thời đại. Con người Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lòng yêu
thương và niềm tin vào con người với ý chí và hành động triệt nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người Việt Nam.
Nét nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đặt hạnh phúc của
nhân dân lên trên hết. Ở Người, nhân dân không phải là một khái niệm
chung chung, mơ hồ mà là cộng đồng Việt Nam, là đồng bào, là mỗi con
17
người, mỗi cuộc đời và từng hoàn cảnh cụ thể. Cho đến lúc đi xa, Người
vẫn luôn đau đáu lo cho vận mệnh đất nước. Nhưng Bác đã đặt niềm
tin vào sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển và tiến bộ của Đảng, của dân
tộc. Bác tin một mai đất nước ta sẽ được giái phóng, dân ta sẽ được độc
lập tự do. Người luôn luôn dành trọn muôn vàn tình thương yêu cho mọi
người con đất Việt. Lời dạy của Bác muôn vàn kính yêu cũng chính là
tâm niệm của mỗi thanh niên bao thế hệ. Theo lời dặn của Bác, Đảng và
Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm tin tưởng đặc biệt đối vào thế hệ trẻ.
Đó chính là niềm cổ vũ lớn lao, là lực lượng lao động mạnh mẽ để tuổi
trẻ tự tin, vững bước đi lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta,
những sinh viên “tuổi trẻ ĐHBK” hôm nay hãy ra sức học tập, rèn luyện
và làm theo lời Bác, luôn tu dưỡng đạo đức để sau này trở thành những
trí thức hoàn thiện cả về đức và tài, đem sức lực và trí tuệ cống hiến cho
đất nước.
Ý nghĩa của đề tài soi đường cho đảng và nhân dân trên con đường
xây dựng đất nước,nâng cao tư duy lí luận,rèn luyện bản lĩnh chính
trị,nâng cao đạo đức cách mạng năng lực công tác, thực hiện tốt các
nhiệm vụ trọng đại của Đảng và nhà nước ta .
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1)Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – NXB LĐ Hà Nội 2005.
2) Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh của bộ giáo dục và đào tạo.
3) Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – ĐH BKHN
4) Tư tưởng Hồ Chí Minh- TS Phạm Ngọc Anh. PGS TS Bùi Đình
Phong đồng chủ biên- NXB lý luận chính trị ( trang 169).
5)Cổng thông tin tư liệu về HCM ( www
.
t
h e
h e
h o c
h i
m inh .
n e
t
)
6) Đoàn thanh niên cộng sản HCM
19