MỞ ĐẦU
Nhà nước là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn
nhất”
(1)
, nhưng lại “là một vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ
chính trị”
(2)
. Vì thế, ngay từ khi nhà nước ra đời, con người đã không
ngừng đi vào tìm hiểu bản chất của hiện tượng phức tạp này. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, các quan điểm này chưa xác định đúng
nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước,...
C.Mác và Ph.Ăngghen, đứng trên lập trường duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, là những người đầu tiên đề xướng học thuyết khoa học về
nhà nước. Học thuyết này sau này được V.I.Lênin phát triển ngày càng
hoàn bị hơn. Học thuyết Mác - Lênin đã tìm ra đúng nguồn gốc vật chất
của nhà nước và bản chất giai cấp của nhà nước. Học thuyết về nhà nước
của hai ông đã thể hiện lợi ích của giai cấp vô sản, phục vụ sự nghiệp giải
phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đồng thời đây là cơ sở
khoa học để giai cấp công nhân và nhân dân lao động xây dựng nhà nước
mới của mình - nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Do vậy, để xây dựng và ngày
càng hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ, chúng ta phải quán triệt và vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác - Lênin về nhà nước.
Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của đất nước. Do vậy, thấy rõ sự cần thiết, nội
dung và những vấn đề có tính nguyên tắc là những bảo đảm quan trọng để
chúng ta thực sự xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1
() V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 39, Nxb Tiến bộ, M.1979, tr.75.
2
( ). Sđd, tr. 76.
2
NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
1. Một số quan niệm ngoài mác xít về nguồn gốc, bản chất nhà nước
Vấn đề nguồn gốc, bản chất của nhà nước luôn là đối tượng của cuộc
đấu tranh tư tưởng gay gắt nhất. Đồng thời đây cũng là một trong những vấn
đề khó nhất đã trở thành trung tâm của mọi vấn đề chính trị và mọi tranh luận
chính trị.
Từ thời cổ, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng tiếp cận và đưa ra
những quan niệm khác nhau về nguồn gốc, bản chất nhà nước. Thuyết thần
học cho rằng: Thượng đế sáng tạo ra nhà nước để bảo vệ trật tự chung, do
vậy nhà nước là lực lượng siêu nhiên, quyền lực nhà nước là vĩnh cữu và sự
phục tùng quyền lực nhà nước cần thiết và tất yếu. Trong khi đó, Thuyết gia
trưởng lại tìm cách chứng minh rằng nhà nước là sản phẩm phát triển của gia
đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người. Như vậy, nhà
nước có trong mọi xã hội, về bản chất quyền lực nhà nước cơ bản như quyền
lực của người đứng đầu gia đình.
Đến thời kỳ cận đại đã xuất hiện hàng loạt quan niệm mới về nhà nước
của các học giả tư sản nhằm chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của nhà
nước phong kiến. Đa số các học giả tư sản tán thành quan điểm cho rằng sự ra
đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước được ký kết trước hết giữa
những người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Do đó, nhà
nước phản ánh lợi ích của cách thành viên trong xã hội và phục vụ và bảo vệ
lợi ích của các thành viên. Thuyết khế ước là tiền đề cho thuyết dân chủ cách
mạng và là cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản để lật đổ ách thống trị phong
kiến. Tuy vây, thuyết này vẫn còn những hạn chế căn bản là giải thích nguồn
gốc, bản chất nhà nước trên lập trường duy tâm, coi sự ra đời của nhà nước là
do ý chí của các bên tham gia khế ước, không giải thích được nguồn gốc vật
chất và bản chất xã hội của nhà nước. Tiêu biểu cho Thuyết khế ước xã hội là
3
các nhà tư như: J.Bôđin (1530 - 1596), T.Hốpben (1588 - 1679), J.Lốccơ
(1632 - 1704), Môngtéckiuơ(1689 - 1775),...
Ngoài các quan niệm trên, còn có nhiều học thuyết khác luận giải về
bản chất và nguồn gốc của nhà nước như: Thuyết bạo lực cho rằng nhà nước
ra đời là kết quả của việc sử dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị tộc khác,
thị tộc giành chiến thắng tổ chức ra nhà nước để thực hiện việc thống trị của
mình; Thuyết tâm lý lại cho rằng nhà nước ra đời do tâm lý của người nguyên
thuỷ luôn muốn phụ thuộc vào thủ lĩnh của mình...
Tóm lại, do nhiều nguyên nhân khác nhau, lập trường duy tâm, lập
trường giai cấp, điều kiện lịch sử,..., những học thuyết trên chưa giải thích
đúng đắn nguồn gốc, bản chất của nhà nước.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước
* Nguồn gốc, bản chất nhà nước
Với quan niệm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác -
Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng nhà nước là tổ chức chính trị của
giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản
kháng của các giai cấp khác. Nhà nước không phải là một hiện tượng xã hội
vĩnh cữu và bất biến. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người phát triển
đến một trình độ nhất định. Nhà nước luôn vận động, phát triển và sẽ “tự tiêu
vong” khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó không còn nữa.
Nhà nước không phải là một hiện tượng vĩnh viễn, bất biến, mà là một
phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong. Nhà
nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm của sự phát triển nội tại của
xã hội. Nhà nước xuất hiện khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội đã
phát triển đến một trình độ nhất định. Nhà nước “không phải là một quyền lực
từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một
lực lượng “tựa hồ như đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột
4
và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”.
(1)
Nhà nước ra đời dưới
sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có hai tiền đề quan trọng nhất: tiền đề
kinh tế - chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và tiền đề xã hội - sự
phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng không thể điều hòa được.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất cuối thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ,
trước hết là công cụ lao động, đã cho phép tiến hành sản xuất tương đối độc
lập theo nhóm nhỏ hay đơn vị gia đình. Lực lượng sản xuất phát triển cũng
đưa đến sự dư thừa của cải tương đối trong xã hội, điều này đưa đến sự thèm
khát chiếm đoạt ở những người đứng đầu bộ tộc, và như vậy, trong xã hội có
sự phân hoá giàu nghèo và giai cấp xuất hiện, sự đối kháng giai cấp bắt đầu.
Cùng với điều đó, chiến tranh ăn cướp giữa các bộ tộc làm cho quyền lực của
thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường. Cũng từ lúc này, cơ quan thị
tộc, bộ tộc, ra đời từ chỗ gắn bó với nhân dân, dần tách khỏi nhân dân và quay
trở lại thống trị nhân dân, áp bức nhân dân. Tất cả những điều kiện này làm cho
mâu thuẫn trong xã hội ngày càng thêm sâu sắc, do đó giai cấp thống trị tổ
chức ra một cơ quan để duy trì những mâu thuẫn đó trong vòng “trật tự” - nhà
nước ra đời.
Sự ra đời của nhà nước cụ thể ở các nơi trên thế giới cũng không hề
giống nhau, do những đặc điểm về giai cấp, địa lý, kinh tế, truyền thống, tập
quán, dân tộc,... khác nhau.
Như vậy, sự ra đời của nhà nước không phải là cơ quan điều hoà mâu
thuẫn giai cấp. Ngược lại, nó ra đời do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc,
không thể điều hòa được. Đề cập đến vấn đề này, V.I. Lênin đã viết: “ Nhà
nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà
được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự
1
(1). C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Tập 6, Nxb. Sự thật, H.1984, tr.260.
5
tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều
hoà được”.
(1)
Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và luôn mang
bản chất giai cấp sâu sắc. Trước hết, nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc
biệt nằm trong tay của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất để thực hiện
sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì xã hội trong vòng trật tự.
Sự thống trị của giai cấp này đối với các giai cấp khác thể hiện dưới ba
loại quyền lực là quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị và quyền lực tư tưởng.
Trong ba loại quyền lực này, quyền lực kinh tế đóng vai trò quyết định, là cơ sở
bảo đảm cho sự thống trị giai cấp. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không thể
duy trì được các quan hệ bóc lột mà phải thông qua quyền lực chính trị, với tổ
chức đặc biệt của nó là nhà nước, để củng cố, tăng cường quyền lực của giai
cấp thống trị. Và như vậy, nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện chuyên
chính giai cấp của giai cấp cầm quyền đối với các giai cấp khác.
Để khái quát hoá bản chất của nhà nước, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra nhiều luận điểm. Các luận điểm này đều khẳng
định nhà nước là một bộ máy để thực hiện sự thống trị giai cấp. V.I.Lênin cho
rằng nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối
với giai cấp khác. Người giải thích rõ thêm: “Nhà nước theo đúng nghĩa của
nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác”.
(2)
Như vậy, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã xác định bản chất và ý
nghĩa xã hội của nhà nước. Nhà nước trước hết là bộ máy đặc biệt tách khỏi
xã hội để thực hiện quyền lực mang tính cưỡng chế. Xét về mặt bản chất, nhà
nước là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Cần phải thấy rằng, tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của
nhà nước. Nhưng bên cạnh đó, nhà nước còn thể hiện tính xã hội. Bởi lẽ, nhà
1
(1)V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 33, Nxb. Tiến bộ, M.1976, tr.9.
2
() V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 33, Nxb. Tiến bộ, M.1976, tr.110.
6
nước mặt chủ yếu là bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị, nhưng
đồng thời còn phải chú ý (dù ít hay nhiều) đến lợi ích của toàn xã hội.
Như vậy, từ những kiến giải trên, có thể hiểu nhà nước là một tổ chức
đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy trấn áp của giai cấp thống trị
nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị trong
xã hội có giai cấp.
* Đặc trưng và chức năng của nhà nước
Theo Ph.Ăngghen, bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản
sau:
Thứ nhất, nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định.
Đây là đặc trưng cơ bản của mọi nhà nước. Nhà nước đã lấy sự phân
chia lãnh thổ làm điểm xuất phát và để cho công dân “thực hiện những quyền
và nghĩa vụ của họ theo nơi cư trú, không kể họ thuộc thị tộc, bộ lạc nào”.
(1)
Thứ hai, nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao gồm
bộ máy quản lý hành chính và các lực lượng vũ trang đặc biệt mang tính
cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
Đây là đặc trưng thể hiện quyền lực công cộng đặc biệt của nhà nước,
không còn hoà nhập với dân cư nữa, mang tính chính trị và giai cấp. Để thực
hiện quyền lực này nhà nước thiết lập một bộ máy cưỡng chế chuyên làm
nhiệm vụ quản lý và “tựa hồ” như đứng trên giai cấp. Bộ máy này bao gồm
quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù,...
Thứ ba, nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để nuôi dưỡng bộ
máy của mình.
Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước cũng chỉ ra những chức năng cơ
bản của nhà nước
Chức năng của nhà nước được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau
như chức năng đối nội, đối ngoại, chính trị, kinh tế, tư tưởng. Khi xem xét
1
() C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Tập 6, Nxb. Sự thật, H.1984, tr.261.
7
dưới góc độ tính chất của quyền lực nhà nước, nhà nước có chức năng thống
trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Trong hai chức năng này, chức
năng thống trị chính trị của giai cấp đóng vai trò quyết định. Khi xem xét dưới
góc độ phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có
chức năng đối nội và đối ngoại.
Để thực hiện các chức năng của mình, nhà nước áp dụng nhiều hình
thức và phương pháp hoạt động khác nhau. Có ba hình thức hoạt động chính
là: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước sử dụng hai phương pháp chủ
yếu để thực hiện chức năng của mình là: giáo dục - thuyết phục và cưỡng chế.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1. Khái lược lịch sử tư tưởng về nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở
đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của
nhân dân.
(1)
Nhà nước pháp quyền có bốn tiêu chí chung như sau:
Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do
pháp luật quy định;
Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng
phái, tổ chức, tôn giáo... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của
pháp luật);
Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp;
Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh
trong xã hội; đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân.
1
() . Bộ GD và ĐT, Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên triết),
Nxb Chính trị - hành chính, H. 2010, tr.497.
8
Nhà nước pháp quyền chỉ ra đời khi nhà nước tư sản ra đời, nhưng
những tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử tư
tưởng triết học và luật học.
Từ thời cổ đại, mầm mống về tư tưởng nhà nước pháp quyền đã xuất
hiện ở cả phương Đông và ở phương Tây. Ở phương Đông, là tư tưởng pháp
trị của các nhà tư tưởng pháp gia như: Quản Trọng, Hàn Phi Tử,... Hàn Phi Tử
coi “pháp” là chuẩn mực cao nhất của việc cai trị đất nước, khi thi hành pháp
luật thì không kể đến tình cảm riêng, không câu nệ chuyện thân sơ, sang hèn,
tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Theo ông, "pháp luật không hùa theo
người sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành
pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tránh. Trừng
trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu".
(1)
Ở phương Tây, mầm mống tư tưởng pháp quyền ra đời chống lại sự chuyên
quyền, độc đoán của chế độ nông nô và phong kiến, bạo lực, lộng quyền và hỗn
loạn là cái tương phản với công bằng, pháp luật, cần phải xoá bỏ.
Các nhà tư tưởng pháp quyền thời kì này tiêu biểu là Sôlông (638 -559,
TCN), Hêraclít (530 - 470, TCN), Xôcrát (469 - 399, TCN), Platôn (427 -
347, TCN), Arixtốt (384 - 322, TCN),... Xôcrát là người ủng hộ triệt để về
nguyên tắc tư tưởng pháp chế. Ông cho rằng: công lý ở trong sự tuân thủ pháp
luật hiện hành; sự công minh và sự hợp pháp đều là một; nếu không tuân thủ
thì cũng không thể có nhà nước và trật tự pháp luật; nếu như các công dân của
nhà nước nào tuân thủ pháp luật thì nhà nước đó sẽ vững mạnh và phồn vinh.
Luận điểm của Platôn : "Ta nhìn thấy sự diệt vong của nhà nước, mà trong
đó pháp luật không có sức mạnh và ở dưới quyền lực của ai đấy"
(2)
đã được
khẳng định một cách đúng đắn trên thực tế của thế kỷ XX bằng sự sụp đổ của
một loạt nhà nước cực quyền kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.
1
( ). Doãn Chính - Nguyễn Văn Trịnh, Pháp gia với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb.
CTQG, Hà Nội. 2007, tr.73.
2() .
Platôn, Toàn tập, Tập 3, Phần 2, Nxb Tư tưởng, Matxcơva. 1972, tr.188.