Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Những thay đổi quan trọng trong Windows 7 Service Pack 1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.07 KB, 10 trang )

Những thay đổi quan trọng trong Windows 7
Service Pack 1
Mới đây, blog của Công ty cũng cho thấy các phiên
bản OEM (cung cấp cho các nhà sản xuất thiết bị cài
đặt sẵn trong máy tính mới trước khi xuất xưởng) của
Windows 7 Service Pack 1 đã được chuyển tới tay
các nhà sản xuất máy tính kể từ ngày 15/1/2010. Với
vai trò là bản vá lớn đầu tiên hệ điều hành chủ đạo
của Microsoft và là hệ điều hành rất được người dùng
ưa chuộng hiện tại, Service Pack rõ ràng sẽ nhận
được nhiều sự quan tâm. Câu hỏi đặt ra là: nó sẽ đem
lại cho người dùng những gì?

Sửa các lỗi phát sinh
Một trong những đặc trưng không thể thiếu của bất
cứ bản Service Pack nào chính là việc khắc phục các
lỗi của hệ điều hành nguyên gốc, bao gồm cả lỗi sử
dụng lẫn lỗi bảo mật. Có thể kể tới ở Windows 7 là
các lỗi liên quan tới tính tương thích, lỗi khi sử dụng
thẻ SD dung lượng trên 32GB, lỗi Hibernate khi
khôi phục trạng thái gốc sẽ khiến máy bị treo hay đôi
khi các hệ thống Windows 7 bị đứng máy không có
lý do (KB2265176) chẳng hạn. Dĩ nhiên hầu hết các
lỗi nghiêm trọng dạng này đều đã được Microsoft xử
lý thông qua hệ thống Windows Update theo định
kỳ. Tuy nhiên, với Service Pack, người dùng sẽ có
một gói vá toàn diện để sử dụng mỗi lần cài đặt hệ
điều hành mà không cần phải ngồi tải từng bản cập
nhật rất mất thời gian.
Hỗ trợ chính thức chuẩn USB 3.0 tốc độ cao
Một trong số các tính năng mới được trông đợi nhất


ở Windows 7 Service Pack 1 chính là khả năng hỗ
trợ chính thức USB 3.0. Hiện tại nhiều nhà sản xuất
phần cứng đã tích hợp chuẩn mới này vào sản phẩm
của mình (chủ yếu là các bo mạch chủ, ổ đĩa cứng lắp
ngoài và ổ USB Flash). Tuy vậy, những phiên bản
đầu tiên này thường yêu cầu trình điều khiển riêng,
cài đặt không đơn giản - ngược lại hoàn toàn với đặc
tính cắm - chạy dễ sử dụng thường thấy của USB từ
trước tới nay. Lý do chính của điều này là bởi
Windows 7 chưa thực sự hỗ trợ USB 3.0 như một
chuẩn thực sự. Với Service Pack 1, điều này đã trở
thành hiện thực. Những người dùng USB 3.0 cũng sẽ
tận dụng được tốt hơn các thiết bị của mình mà
không còn phải lo ngay ngáy về việc cài đặt trình
điều khiển mỗi khi đem sang một PC mới. USB 3.0
được ra mắt thị trường vào đầu 2010 với hứa hẹn
băng thông dữ liệu tối đa lên tới 5Gbit/giây – nhanh
hơn 10 lần so với USB 2.0.
Bên cạnh đó, USB 3.0 cũng có khả năng tải lên và
tải xuống dữ liệu cùng lúc (2 chiều) so với chỉ một
trong hai chiều của USB 2.0 cũ. Tốc độ mới sẽ tạo
điều kiện cho một loạt đồ chơi công nghệ số mới xuất
hiện như các loại ổ lưu trữ dung lượng siêu lớn, đầu
đọc đĩa Bluray lắp ngoài, máy quay số, máy ảnh số
với nội dung chi tiết cao hơn… Thậm chí, các loại
màn hình hay card âm thanh sử dụng giao tiếp USB
cũng sẽ được lợi. Ngoài ra, USB 3.0 cũng có ưu thế
về khả năng cấp điện nguồn. USB 2.0 cho phép cấp
điện nguồn khoảng 500mW/cổng chính. Trong khi
đó, USB 3.0 vừa nhanh hơn cả hai lại vừa có khả

năng cấp nguồn công suất cao hơn.
Hơn thế nữa, USB 3.0 có khả năng quản lý điện năng
tốt hơn hẳn các đàn anh đi trước. Nó cho phép thiết bị
chuyển vào các trạng thái rỗi, nghỉ và thậm chí là ngủ
khi cần thiết. Điều này đồng nghĩa với việc MTXT
của bạn sẽ có thời lượng pin sử dụng lâu hơn, PC để
bàn dùng ít điện hơn… khi sử dụng thiết bị ngoại vi
USB 3.0. Với các loại ĐTDĐ hỗ trợ USB 3.0, máy
ảnh và máy tính bảng, điều này cũng là ưu thế rất lớn
của chuẩn mới. Như vậy, sự hỗ trợ chính thức của
Windows 7 đối với USB 3.0 là điều cực kỳ quan
trọng.
Công nghệ bộ nhớ động Dynamic Memory và
Remote FX
Đối với người dùng khối doanh nghiệp, 2 công nghệ
hỗ trợ ảo hóa (Virtualization) gồm Dynamic
Memory vàRemote FX trong bản Service Pack 1 tới
sẽ thực sự là cải tiến đáng kể. Dynamic Memory sẽ
mở rộng tính năng cho Hyper-V – công nghệ của
Microsoft – nhằm cho phép nó quản lý lượng bộ nhớ
sử dụng cho tất cả các máy ảo vận hành trên máy tính
chính. Hyper-V sẽ quản lý toàn bộ lượng bộ nhớ vật
lý và chia ra theo nhu cầu sử dụng. Đây là tính năng
giúp hạn chế tối đa các trường hợp hụt bộ nhớ trên
các máy ảo bận rộn cũng như giảm thiểu tình trạng
lãng phí tài nguyên trên các máy ảo rỗi. Điều đặc biệt
quan trọng là các quản trị sẽ không còn mất công sức
kiểm soát vấn đề này nữa.
Hiện tại, phiên bản SP1 đã bắt đầu được đưa lên
mạng Internet thông qua các kênh không chính thức.

Theo nhiều website đăng liên kết tải xuống, phiên
bản cho Windows 7 32-bit có dung lượng vào khoảng
537,81 MB trong khi đó, bản cho Windows 7 64-bit
lại nặng hơn khá nhiều (vào khoảng 903,20 MB).
Những người dùng quan tâm muốn dùng thử có thể
tải từ cả Torrent (hoặc tham khảo tại đây).
Trong khi đó, Remote FX lại cho phép các máy ảo
và máy tính điều khiển từ xa (Remote Desktop) có
được môi trường đồ họa tốt hơn. Theo Microsoft,
với Remote FX, người dùng sẽ có thể làm việc từ xa
thông qua mạng nội bộ mà vẫn có được đủ giao diện
Aero của Windows 7, xem phim ở tốc độ tốt nhất
đồng thời thưởng thức các hiệu ứng động
của Silverlight, ứng dụng 3D… với chất lượng
không thua gì khi đang sử dụng trực tiếp. Bạn có thể
tham khảo trình diễn cả 2 công nghệ này tại đây.
Lịch trình ra mắt của Service Pack 1
Bản thân Windows 7 và Windows Server 2008
R2 sử dụng chung một nền tảng mã nguồn. Do đó
không có gì đáng ngạc nhiên khi bản vá Service Pack
1 sẽ có mặt cùng lúc trên cả 2 phiên bản này. Để nắm
chính xác thời điểm ra mắt, bạn có thể nhìn lại lịch
trình của Windows Vista.
Phiên bản Service Pack đầu tiên của Vista được công
bố khoảng 5 tháng sau khi hệ điều hành ra mắt. Sau
đó, bản Beta được tung ra trong khoảng tháng 9/2007
rồi tới RC trong tháng 12/2009. Cuối cùng, bản chính
thức có mặt vào giữa tháng 3/2010. Với lịch trình
tương tự như vậy, người dùng hoàn toàn có thể suy
đoán ra thời điểm mà Windows 7 Service Pack 1 có

mặt. Thêm vào đó, chính việc Microsoft đã tung ra
bản RTM của Service Pack 1 cho các nhà sản xuất
vào ngày 15/1/2011 vừa qua cũng cho thấy ngày ra
mắt bản dành cho người dùng cuối sẽ không còn xa.
Nhiều ý kiến cho rằng Microsoft sẽ không vội vàng
trong việc ra mắt bản vá này của Windows 7 dẫn tới
việc người dùng phải chờ đợi thêm chút ít. Điều này
không phải là không có lý. Trước hết, bản thân
Windows 7 và người anh em cho môi trường máy
chủ của nó vận hành khá hoàn hảo ngay từ đầu và đối
với phần đông người dùng, bản Service Pack lại
không quá quan trọng do họ không vướng phải lỗi
nào nghiêm trọng cần khắc phục ngay lập tức như với
Vista trước đây.
Thay vào đó, phần đông khi đến với Service Pack
1 này sẽ trông đợi ở các tính năng mới nhiều hơn.
Một cuộc thu thập ý kiến mới đây do Dimensional
Research thực hiện cho thấy 46% các quản trị hệ
thống không muốn chờ Service Pack 1 rồi mới cài
Windows 7. Đây là mức đáng ngạc nhiên vì từ trước
tới nay hầu như sự chờ đợi này đã trở thành “truyền
thống”. Đây rõ ràng là một dấu hiệu khả quan đối với
Microsoft.

×