Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Nhỏ mắt đúng cách pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.65 KB, 12 trang )


Nhỏ mắt đúng cách


Rất nhiều dược chất phục vụ cho chữa bệnh hoặc dinh dưỡng mắt có
thể pha chế thành các dạng thuốc tra, nhỏ như:
- Các kháng sinh như chloramphenicol, streptomycine, penicilline,
oreomycine, gentamycine
- Các thuốc chống viêm như: cortizol, indomethacine
- Thuốc thay đổi kích thước đồng tử như: atropine, pilocarpine
- Thuốc dinh dưỡng mắt như: catacol (làm chậm đục thể thủy tinh)
- Thuốc tăng năng lực điều tiết cho mắt như correctol
- Nước mắt nhân tạo (giúp mắt đỡ khô rát): tears natural
Với rất nhiều các bệnh về mắt, đặc biệt là bệnh kết giác mạc, thuốc
tra, nhỏ là chủ yếu. Thuốc tiêm, uống chỉ dùng khi thật cần thiết.
Tiêu chí của thuốc tra, nhỏ mắt
Giống như thuốc tiêm bắp, tiêm dưới da, trong da, thuốc tra, nhỏ mắt
có yêu cầu an toàn rất chặt chẽ về các mặt sau:
- Áp lực thẩm thấu phải đạt đẳng trương (tương đương với dung dịch
muối 0,9%).
- Độ pH trung tính (pH xấp xỉ 7).
- Không được hủy mô (thiêu nhục), không gây bỏng rát, kích ứng.
- Thuốc sạch, vô trùng, không sạn, cặn.
Chính vì vậy mà tra, nhỏ mắt phải chế tạo theo kỹ thuật dược mắt. Ta
không thể mang bột penicilline, bột streptpmycine pha với nước cất để nhỏ
mắt cho dù là các dược phẩm cùng tên vẫn bán trên thị trường. Thuốc thành
phẩm bôi da như cortizol, gentamycine cũng không thể đem tra vào mắt thay
thế cho mỡ cortizol hay gentamycine loại tra mắt. Bởi vì độ pH và thẩm thấu
muối của thuốc ngoài da có quy định khác mà các màng mắt không chịu nổi.
Thế nhưng các thuốc tra, nhỏ mắt lại có thể tra, bôi vào bất cứ bộ phận nào
trên cơ thể (tai, mũi, họng, da).


Ngoài các yếu tố bắt buộc như đã nêu trên thì bất kỳ dung dịch thuốc
nào tiêm được vào bắp hay dưới da đều có thể nhỏ vào mắt được khi cần
thiết (vì pH và độ thẩm thấu của chúng cũng giống như thuốc nhỏ mắt) trừ
các thuốc gây nóng rát như dầu long não, dầu eucalyptus.
Người ta dùng thuốc tiêm prostigmine nhỏ mắt để điều trị cơn glôcôm
cấp cũng được mặc dù thuốc này thường dùng cho người nhược cơ.
Tiện và bất tiện của từng dạng thuốc này
Thuốc nhỏ mắt
- Rất tiện cho người dùng, có khi tự tra, nhỏ được.
- Giảm công pha chế cho nhà sản xuất vì làm thuốc mỡ phải trộn dược
chất với vaseline hay lanoline.
- Bất tiện của thuốc nhỏ nước là trôi xuống lệ đạo, giữ ở khe mắt
không được lâu nên ngày phải nhỏ nhiều lần.
Thuốc tra mắt dạng mỡ
- Giữ được lâu trong mắt và ngấm khá sâu do chất mỡ xuyên qua
màng tế bào.
- Thoát chậm xuống lệ đạo, ngày tra số lần ít hơn so với thuốc nước.
- Nhược điểm là động tác tra phức tạp, nói chung không tự tra lấy
được.
- Gây dính dáp, vướng víu cho mắt, đồng thời cản trở việc liền sẹo
cho vết thương mắt (bởi vì muốn liền sẹo được thì tế bào phải áp sát vào
nhau “bắt tay” nhau mà chất mỡ lại ngăn cản việc này).
Thuốc mắt dạng nhày, nhớt (gel)
Hiện nay dạng thuốc này hay gặp trên thị trường. Xem nhãn mác sẽ
thấy có cấu tạo phụ gia là methylcellulose thì đó là thuốc nhày nhớt. Thuốc
có thuận lợi là gây cảm giác êm dịu cho mắt, giữ được lâu (do thuốc nhớt,
chậm thoát xuống lệ đạo). Tuy nhiên cũng do thuốc chậm thoát xuống lệ đạo
nên trong thời gian dùng thuốc người ta thấy lệ đạo kém thông, thuốc đắng
nhỏ không xuống được đường mũi họng. Thêm nữa, phần thuốc dây ra bờ
mi và lông mi sau khi khô đi, gây cảm giác bó cứng chân lông mi.

Ưu điểm chung của loại thuốc mỡ và gel là bảo quản được lâu (do
thuốc không di chuyển trong vỏ đựng nên đỡ tiếp xúc với không khí, đỡ bị
ôxy hóa). Có hóa dược chỉ bảo quản ở thuốc nước trong 1 tuần nhưng với
thuốc mỡ là một năm rưỡi.
Mỗi loại thuốc vừa nói, với ưu nhược điểm khác nhau nên gây ra thị
hiếu khác nhau với người chỉ định và người tiêu dùng. Các thầy thuốc Pháp
thì ưa kê thuốc mắt mỡ, các thầy thuốc Anh lại không ưa thuốc mắt mỡ.
Cách tra, nhỏ thuốc mắt
Với thuốc nhỏ nước hoặc nhày nhớt
Nhỏ vài ba giọt vào góc mắt phía trong (sát gốc mũi). Nhỏ xong lấy
ngón tay kéo nhẹ mi dưới xuống. Làm như vậy thuốc sẽ chan hòa khắp mắt.
Với trẻ em động tác đó càng cần thiết. Các em thường sợ, cứ nhắm nghiền
mắt. Nhiều khi rất khó bảo các em mở to mắt ra. Ta cứ nhỏ vài giọt vào góc
mắt phía trong. Sau đó kéo nhẹ mi dưới, thuốc sẽ không bị chảy ra ngoài.
Với thuốc mỡ mắt
Không nên và không được tự tra mỡ mắt. Tốt nhất là nằm tra. Ngồi
ghế tựa vẫn còn là gượng ép. Người bệnh nằm. Người nhà dùng tay trái của
mình mở mắt bệnh nhân, tay phải bóp lọ thuốc. Ngón tay trỏ nâng nhẹ mi
trên người bệnh, ngón tay cái kéo trễ mi dưới. Kết mạc mi dưới đỏ như da
môi lộn ra. Bóp một đoạn thuốc mỡ từ 3-5mm vào kết mạc đỏ đó. Ngắt nhẹ
đầu ống thuốc. Tiếp đó buông mi dưới trước sau đó mới thả mi trên. Nếu
cùng một lúc ta buông cả hai mi thì mi trên nhanh hơn sẽ vồ lấy thuốc (như
chú gà con đớp giun) thuốc không vào trong khe mắt được.
Hiện nay người đeo kính tiếp xúc không còn hiếm gặp. Khi ở mặt đất
thì không có vấn đề gì đáng nói. Nhưng khi đi máy bay, lên độ cao, gặp
không khí loãng thì các bọt khí thường hình thành giữa mặt trước giác mạc
và mặt sau kính tiếp xúc. Nếu buổi bay hôm đó mắt được nhỏ thuốc nhày
methylcellulose hay povidone thì bot khí sẽ không hình thành.
Rất nhiều dược chất phục vụ cho chữa bệnh hoặc dinh dưỡng mắt có
thể pha chế thành các dạng thuốc tra, nhỏ như:

- Các kháng sinh như chloramphenicol, streptomycine, penicilline,
oreomycine, gentamycine
- Các thuốc chống viêm như: cortizol, indomethacine
- Thuốc thay đổi kích thước đồng tử như: atropine, pilocarpine
- Thuốc dinh dưỡng mắt như: catacol (làm chậm đục thể thủy tinh)
- Thuốc tăng năng lực điều tiết cho mắt như correctol
- Nước mắt nhân tạo (giúp mắt đỡ khô rát): tears natural
Với rất nhiều các bệnh về mắt, đặc biệt là bệnh kết giác mạc, thuốc
tra, nhỏ là chủ yếu. Thuốc tiêm, uống chỉ dùng khi thật cần thiết.
Tiêu chí của thuốc tra, nhỏ mắt
Giống như thuốc tiêm bắp, tiêm dưới da, trong da, thuốc tra, nhỏ mắt
có yêu cầu an toàn rất chặt chẽ về các mặt sau:
- Áp lực thẩm thấu phải đạt đẳng trương (tương đương với dung dịch
muối 0,9%).
- Độ pH trung tính (pH xấp xỉ 7).
- Không được hủy mô (thiêu nhục), không gây bỏng rát, kích ứng.
- Thuốc sạch, vô trùng, không sạn, cặn.
Chính vì vậy mà tra, nhỏ mắt phải chế tạo theo kỹ thuật dược mắt. Ta
không thể mang bột penicilline, bột streptpmycine pha với nước cất để nhỏ
mắt cho dù là các dược phẩm cùng tên vẫn bán trên thị trường. Thuốc thành
phẩm bôi da như cortizol, gentamycine cũng không thể đem tra vào mắt thay
thế cho mỡ cortizol hay gentamycine loại tra mắt. Bởi vì độ pH và thẩm thấu
muối của thuốc ngoài da có quy định khác mà các màng mắt không chịu nổi.
Thế nhưng các thuốc tra, nhỏ mắt lại có thể tra, bôi vào bất cứ bộ phận nào
trên cơ thể (tai, mũi, họng, da).
Ngoài các yếu tố bắt buộc như đã nêu trên thì bất kỳ dung dịch thuốc
nào tiêm được vào bắp hay dưới da đều có thể nhỏ vào mắt được khi cần
thiết (vì pH và độ thẩm thấu của chúng cũng giống như thuốc nhỏ mắt) trừ
các thuốc gây nóng rát như dầu long não, dầu eucalyptus.
Người ta dùng thuốc tiêm prostigmine nhỏ mắt để điều trị cơn glôcôm

cấp cũng được mặc dù thuốc này thường dùng cho người nhược cơ.
Tiện và bất tiện của từng dạng thuốc này
Thuốc nhỏ mắt
- Rất tiện cho người dùng, có khi tự tra, nhỏ được.
- Giảm công pha chế cho nhà sản xuất vì làm thuốc mỡ phải trộn dược
chất với vaseline hay lanoline.
- Bất tiện của thuốc nhỏ nước là trôi xuống lệ đạo, giữ ở khe mắt
không được lâu nên ngày phải nhỏ nhiều lần.
Thuốc tra mắt dạng mỡ
- Giữ được lâu trong mắt và ngấm khá sâu do chất mỡ xuyên qua
màng tế bào.
- Thoát chậm xuống lệ đạo, ngày tra số lần ít hơn so với thuốc nước.
- Nhược điểm là động tác tra phức tạp, nói chung không tự tra lấy
được.
- Gây dính dáp, vướng víu cho mắt, đồng thời cản trở việc liền sẹo
cho vết thương mắt (bởi vì muốn liền sẹo được thì tế bào phải áp sát vào
nhau “bắt tay” nhau mà chất mỡ lại ngăn cản việc này).
Thuốc mắt dạng nhày, nhớt (gel)
Hiện nay dạng thuốc này hay gặp trên thị trường. Xem nhãn mác sẽ
thấy có cấu tạo phụ gia là methylcellulose thì đó là thuốc nhày nhớt. Thuốc
có thuận lợi là gây cảm giác êm dịu cho mắt, giữ được lâu (do thuốc nhớt,
chậm thoát xuống lệ đạo). Tuy nhiên cũng do thuốc chậm thoát xuống lệ đạo
nên trong thời gian dùng thuốc người ta thấy lệ đạo kém thông, thuốc đắng
nhỏ không xuống được đường mũi họng. Thêm nữa, phần thuốc dây ra bờ
mi và lông mi sau khi khô đi, gây cảm giác bó cứng chân lông mi.
Ưu điểm chung của loại thuốc mỡ và gel là bảo quản được lâu (do
thuốc không di chuyển trong vỏ đựng nên đỡ tiếp xúc với không khí, đỡ bị
ôxy hóa). Có hóa dược chỉ bảo quản ở thuốc nước trong 1 tuần nhưng với
thuốc mỡ là một năm rưỡi.
Mỗi loại thuốc vừa nói, với ưu nhược điểm khác nhau nên gây ra thị

hiếu khác nhau với người chỉ định và người tiêu dùng. Các thầy thuốc Pháp
thì ưa kê thuốc mắt mỡ, các thầy thuốc Anh lại không ưa thuốc mắt mỡ.
Cách tra, nhỏ thuốc mắt
Với thuốc nhỏ nước hoặc nhày nhớt
Nhỏ vài ba giọt vào góc mắt phía trong (sát gốc mũi). Nhỏ xong lấy
ngón tay kéo nhẹ mi dưới xuống. Làm như vậy thuốc sẽ chan hòa khắp mắt.
Với trẻ em động tác đó càng cần thiết. Các em thường sợ, cứ nhắm nghiền
mắt. Nhiều khi rất khó bảo các em mở to mắt ra. Ta cứ nhỏ vài giọt vào góc
mắt phía trong. Sau đó kéo nhẹ mi dưới, thuốc sẽ không bị chảy ra ngoài.
Với thuốc mỡ mắt
Không nên và không được tự tra mỡ mắt. Tốt nhất là nằm tra. Ngồi
ghế tựa vẫn còn là gượng ép. Người bệnh nằm. Người nhà dùng tay trái của
mình mở mắt bệnh nhân, tay phải bóp lọ thuốc. Ngón tay trỏ nâng nhẹ mi
trên người bệnh, ngón tay cái kéo trễ mi dưới. Kết mạc mi dưới đỏ như da
môi lộn ra. Bóp một đoạn thuốc mỡ từ 3-5mm vào kết mạc đỏ đó. Ngắt nhẹ
đầu ống thuốc. Tiếp đó buông mi dưới trước sau đó mới thả mi trên. Nếu
cùng một lúc ta buông cả hai mi thì mi trên nhanh hơn sẽ vồ lấy thuốc (như
chú gà con đớp giun) thuốc không vào trong khe mắt được.
Hiện nay người đeo kính tiếp xúc không còn hiếm gặp. Khi ở mặt đất
thì không có vấn đề gì đáng nói. Nhưng khi đi máy bay, lên độ cao, gặp
không khí loãng thì các bọt khí thường hình thành giữa mặt trước giác mạc
và mặt sau kính tiếp xúc. Nếu buổi bay hôm đó mắt được nhỏ thuốc nhày
methylcellulose hay povidone thì bot khí sẽ không hình thành.
Con mắt có kích thước nhỏ bé (đường kính trước sau khoảng
22mm, đường kính ngang 15-16mm) lại nằm sau túi kết mạc nên rất dễ
ngấm thuốc, hơn nữa lại mở lộ ra ngoài cơ thể. Do đó, thuốc tra nhỏ vào
mắt trực tiếp được dùng nhiều hơn hẳn so với thuốc tiêm và thuốc uống.
Cấu tạo của mắt rất hợp với thuốc tra, nhỏ mắt


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×