Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Lưu ý khi dùng thuốc trị bệnh đái tháo đường pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.95 KB, 6 trang )

Lưu ý khi dùng thuốc trị bệnh
đái tháo đường


Bệnh đái tháo đường lâu ngày thường dẫn đến những biến chứng
tim mạch, mắt, thận và thần kinh. Qua nhiều công trình nghiên cứu
người ta thấy nếu kiểm soát tốt được đường huyết sẽ ngăn ngừa hoặc
làm chậm phát sinh những biến chứng trên. Muốn vậy cần phối hợp
một chương trình gồm chế độ ăn, tập thể dục thích hợp với từng cá
nhân và dùng thuốc hợp lý.
Bệnh đái tháo đường là một bệnh về chuyển hóa, cơ chế sinh bệnh rất
phức tạp.
Bệnh týp 1 (phụ thuộc insulin) thường gặp ở người trẻ tuổi, chức năng
tiết insulin của tụy ở những bệnh nhân này không còn nên phải tiêm insulin
hằng ngày để duy trì cuộc sống. Triệu chứng thường gặp là đái nhiều, ăn
nhiều, uống nhiều, sút cân, mệt mỏi, da khô.
Còn bệnh týp 2 (không phụ thuộc insulin) thường xảy ra ở người trên
40 tuổi. Những bệnh nhân này chức năng tiết insulin của tụy vẫn còn ít
nhiều, nên có thể điều trị bằng thuốc uống hạ đường huyết kết hợp với chế
độ ăn kiêng hợp lý. Đái tháo đường týp 2 chiếm vào khoảng 80-85% trong
tổng số các ca đái tháo đường, bệnh thường không có triệu chứng gì đặc
biệt, thường chỉ tình cờ phát hiện qua những lần khám bệnh thông thường,
lượng đường huyết cao trên 1,4g/l (lớn hơn 7,8mmol/l), kiểm nghiệm vào
lúc buổi sáng chưa ăn gì.
Thuốc trị bệnh đái tháo đường. Gồm có 2 loại: Thuốc uống hạ đường
huyết và thuốc insulin tiêm. Thuốc uống có hiệu lực với bệnh đái tháo
đường týp 2. Còn thuốc insulin tiêm được sử dụng cho bệnh nhân đái tháo
đường týp 1 và một số bệnh nhân týp 2 khi thuốc uống không còn đáp ứng
được yêu cầu.
Thuốc hạ đường huyết có thể chia làm:
Nhóm sulfamid: (sulfonylurea): nhóm này lại chia làm 2 nhóm nhỏ:


- Thế hệ I: Thường dễ bị nhờn thuốc, hiện chỉ có chlorpropamid có tác
dụng kéo dài còn được sử dụng. Thuốc này dùng mỗi ngày một lần, không
nên dùng cho người già.
- Thế hệ II: Ít bị nhờn thuốc hơn và 2 thứ thuốc thường dùng là
glyburid (micronase, mobenol, novobutamide, novopropamid, oramide,
orinase, tolamide), liều tối đa 20mg mỗi ngày và glypizid (glucamide,
glucotrol) liều tối đa 40mg/ngày. Có 2 thứ thuốc mới là glymepirid (amaryl
ở Mỹ và amarel ở Việt Nam) uống mỗi ngày một lần và repaglinid (prandil)
có tác dụng ngắn, không sợ bị hạ lượng đường quá mức.
Sulfamid hạ đường huyết kích thích tế bào bêta của tụy giải phóng
insulin. Điều trị bằng sulfamid hạ đường huyết phải bắt đầu với liều thấp
quy định cho từng loại thuốc, rồi dò liều thích hợp trên cơ sở kiểm tra đường
huyết, đường niệu, khi dùng thuốc vẫn cần tiếp tục chế độ ăn kiêng để có
hiệu lực tối ưu của thuốc. Thuốc thường được uống trước bữa ăn. Trường
hợp hạ đường huyết quá mức với biểu hiện đói cồn cào, vã mồ hôi, da tái
nhợt, tim đập nhanh thậm chí có trường hợp nặng có thể hôn mê bất tỉnh,
do dùng thuốc quá liều, nhất là ở người già, suy gan, suy thận. Hạ đường
huyết quá mức đôi khi xảy ra khi dùng kèm với thuốc miconazol uống.
Không dùng sulfamid hạ đường huyết cho phụ nữ có thai.
Nhóm biguanid
Thuốc tiêu biểu là metformin (glucophage). Thuốc này rập khuôn hoạt
chất cây galega officinalis (goat’s rue) có tác dụng lợi sữa, cây này hiện vẫn
được dùng làm dược liệu chữa bệnh đái tháo đường ở châu Âu và châu Úc.
Nhóm này trước đây bị cấm sử dụng ở Mỹ vì gây nhiễm độc axit lactic, do
đó nên thận trọng đối với những bệnh nhân dễ có nguy cơ nhiễm độc axit.
Thuốc này không làm giảm đường huyết thái quá.
Trong nhóm, chẳng hạn metformin (glucophage) 500mg không có tác
dụng kích thích tụy tiết insulin mà chỉ giúp cho tế bào sử dụng glucose tốt
hơn. Thuốc được dùng kết hợp với một chế độ ăn thích hợp. Liều uống trung
bình từ 2-3 viên/ngày, uống trong hoặc cuối bữa ăn. Sau 10-15 ngày điều

chỉnh lại liều tùy theo kết quả xét nghiệm. Có thể phối hợp với thuốc
sulfamid hạ đường huyết khi cần thiết. Đối với bệnh nhân đái tháo đường
týp 1, metformin không thay thế được insulin, nhưng khi dùng phối hợp có
thể cho phép giảm được liều insulin và ổn định đường huyết hơn. Nhóm này
chống chỉ định trong trường hợp suy thận nên khi dùng thuốc phải kiểm tra
thường xuyên chức năng thận và nên uống nhiều nước hằng ngày. Phụ nữ có
thai không được dùng thuốc này.
Nhóm ức chế alpha glucosidase
Nhóm này có tác dụng làm ruột không thể hấp thu đường nhưng dễ bị
tiêu chảy. Có 2 thuốc thuộc nhóm này là acarbose (precose) và miglitol
(glyset). Nhóm này không giảm đường trong máu thái quá và có thể dùng
chung với insulin.
Acarbose (glucobay) là một chất ức chế cạnh tranh, thuận nghịch của
các men alpha glucosidase trong ruột, chịu trách nhiệm thủy phân các đường
đa thành đường đơn. Do tác dụng của thuốc, glucose ở ruột sẽ được hấp thu
chậm hơn, rải rộng ra nên tránh được hiện tượng tăng đường huyết sau khi
ăn. Thuốc có tác dụng phụ gây đầy hơi.
Ngoài ra còn có nhóm glitazon (thiazolidinedion)
Trong 3 thứ thuốc nhóm này, troglitazon, rosiglitazon và rioglitazon,
thì 2 thứ thuốc đầu được Cơ quan Quản lý Thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA)
công bố là có phản ứng phụ gây suy gan trầm trọng, thuốc không được dùng
một mình, chỉ được dùng phối hợp, phải bảo đảm cơ thể còn insulin tức là
chỉ dùng cho bệnh đái tháo đường týp 2.
Cả 3 thứ thuốc đều phải thử chức năng gan trước khi sử dụng và
không nên dùng cho bệnh nhân có triệu chứng đau gan hay ALT (alanin
transferase) cao trên 2,5 lần mức bình thường. Sau đó phải thử lại hằng
tháng trong 9 tháng và rồi sau đó phải thử lại 3 tháng/lần: nếu ALT cao từ
1,5-2 lần phải thử lại, nếu trên 3 lần phải ngưng thuốc.
Ngoài suy gan thuốc còn những phản ứng phụ khác như nôn mửa, đau
thắt bụng, biếng ăn, phù nhẹ. Không dùng cho phụ nữ có thai và cho con bú.


×