Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98 KB, 4 trang )
Điều trị huyết áp thấp
Không giống như tăng huyết áp, huyết áp thấp không phải là một
bệnh, mà đó chỉ là một trạng thái hay một triệu chứng gặp trong rất nhiều
trường hợp khác nhau. Gọi là huyết áp thấp khi huyết áp tối đa <100mmHg.
Chính vì huyết áp thấp chỉ là một trạng thái hay triệu chứng nên mức
độ ảnh hưởng của nó tùy thuộc vào bệnh lý gây nên huyết áp thấp (ví dụ bị
trụy tim mạch do mất nước, mất máu, suy tim hay tụt huyết áp do dùng
quá liều các thuốc hạ huyết áp; các bệnh nội tiết như suy tuyến giáp trạng,
suy tuyến thượng thận ).
Có rất nhiều người (nhất là phụ nữ) khi đo huyết áp thường xuyên
thấy thấp, nhưng vẫn sinh hoạt và làm việc hoàn toàn bình thường mà không
gặp bất kể một biến chứng nào như khi bị tăng huyết áp. Chính vì vậy nếu
kiểm tra huyết áp thấy thấp, kèm theo các triệu chứng khác như đã mô tả thì
cần phải khám xét xem có bệnh lý nào khác không, có dùng một loại thuốc
nào khác ảnh hưởng tới huyết áp hay không và cũng nên kiểm tra huyết áp
nhiều lần, với nhiều người kiểm tra khác nhau; lý tưởng nhất là đo huyết áp
liên tục 24 giờ theo phương pháp Holter, phương pháp này sẽ cho phép
người thầy thuốc biết được chính xác các số đo huyết áp trong thời gian 24
giờ; cả lúc thức cũng như lúc ngủ; cả khi có biểu hiện khó chịu hay khi hoàn
toàn bình thường.
Trên cơ sở các phân tích đó, người thầy thuốc sẽ có cơ sở chính xác
để nhận định về mức huyết áp và có kết luận cụ thể xem có phải các triệu
chứng khó chịu đó là do huyết áp thấp hay không (xem huyết áp tại thời
điểm xảy ra các triệu chứng khó chịu).
Vì huyết áp thấp không phải là một bệnh, do vậy phương pháp điều trị
phải tùy thuộc vào bệnh lý chính gây ra huyết áp thấp. Ví dụ trong trường
hợp dùng quá liều các thuốc hạ huyết áp thì phải điều chỉnh lại thuốc và liều