Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Phát hiện mới về nhóm thiazid lợi niệu trong điều trị tăng huyết áp pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.05 KB, 4 trang )

Phát hiện mới về nhóm thiazid lợi niệu
trong điều trị tăng huyết áp

Có thể nói nhóm thiazide là thuốc lợi niệu hàng đầu dùng trong
điều trị tăng huyết áp (THA). Với nhiều ưu điểm đã được chứng minh
và qua thực tiễn sử dụng, vừa tăng thải trừ muối, vừa có tác dụng giãn
mạch và tăng tác dụng của các thuốc chống THA khác.
Có rất nhiều thông tin mới và thú vị về lợi niệu thiazide trong điều trị
THA, từ các kết quả thử nghiệm lâm sàng mà lợi niệu được sử dụng như một
liệu pháp chuẩn. Những nghiên cứu này khẳng định rằng lợi niệu ít nhất
cũng có tác dụng tương đương với các nhóm thuốc mới (thuốc ức chế men
chuyển ACE hoặc ức chế kênh canxi) trong việc phòng ngừa các biến chứng
tim mạch.
Phát hiện thú vị nhất trong lĩnh vực này là về dược lý di truyền. Các
nghiên cứu gần đây phát hiện ra rằng những người mang gen biến thể α-
adducin Gly460Trp có thể tăng giữ natri và THA nhạy cảm với muối. Vì lợi
liệu tăng đào thải muối nên vai trò của lợi niệu có thể tốt hơn với bệnh nhân
THA mang biến thể gen α-adducin.

Một nghiên cứu bệnh chứng dựa trên quần thể so sánh kiểu gen giữa
các bệnh nhân THA từng có biến chứng tim hoặc đột qụy trước đó với các
bệnh nhân chưa bị biến chứng tim mạch. Lợi niệu không những ngăn ngừa
được đột qụy và các biến chứng tim mạch không kể kiểu gen, nhưng người
ta thấy hiệu quả của lợi niệu trong ngăn ngừa những biến chứng này cao hơn
nhiều ở người có mang biến thể α-adducin.
Trong nghiên cứu Allhat , thử nghiệm lớn nhất về THA từng được
thực hiện, lợi niệu chlorthalidone (nhóm thiazide) được sử dụng như phác đồ
chuẩn để so sánh với amlodipine, lisinopril hoặc doxazosin. Doxazosin sau
đó đã bị ngừng lại vì nguy cơ tim mạch cao hơn ở những bệnh nhân điều trị
thuốc này. Với 33.357 người tham gia được chia làm 3 nhóm và theo dõi
trong 4,9 năm, không thấy có sự khác biệt giữa các nhóm về kết quả, cả biến


chứng tim mạch và các nguyên nhân khác. Tuy nhiên, nhóm dùng
amlodipine có tỷ lệ suy tim cao hơn so với nhóm dùng lợi niệu
chlorthalidone. Để đạt được tỷ lệ 66% được kiểm soát huyết áp vào cuối của
nghiên cứu, 63% bệnh nhân cần dùng từ 2 loại thuốc trở lên.
Kết quả của thử nghiệm Allhat là khá ngạc nhiên, nghiên cứu này cho
thấy người dùng lisinorpil có tỷ lệ đột qụy cao hơn 15% so với nhóm dùng
chlorthalidone. Kết quả này cũng tương tự một nghiên cứu khác, nhóm điều
trị bằng captopril có tỷ lệ đột quỵ cao hơn so với nhóm điều trị chuẩn bằng
lợi niệu và/hoặc ức chế beta giao cảm. Nhưng đáng chú ý nhất là phát hiện
về 19% tỷ lệ suy tim cao hơn ở nhóm dùng thuốc ức chế ACE so với nhóm
dùng lợi niệu. Kết quả này cũng phù hợp với một số kết quả nghiên cứu
khác về ưu thế của lợi niệu. Phát hiện cũng cho thấy dùng chlorthalidon có
gây tăng lipid máu một cách có ý nghĩa thống kê, dù nhẹ, nhưng lợi ích của
thuốc lợi niệu vẫn được đánh giá cao hơn. Ưu thế của chlorthalidon so với
lisinorpil được thấy trên bệnh nhân thuộc mọi lứa tuổi, giới tính, có hay
không kèm theo bệnh đái tháo đường.
Nghiên cứu này cũng dẫn đến kết luận chung là cả 3 thuốc đều làm
giảm các nguy cơ cho người bệnh THA và để đạt mục tiêu kiểm soát huyết
áp, thường phải dùng 2-3 loại thuốc, trong đó, một thuốc nên là lợi niệu.

×