Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Ôn tập lịch sử Việt Nam - phần 1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.71 KB, 53 trang )

Câu 1: VAI TRÒ CỦA Nguyễn Ái Quốc TRONG VIỆC THÀNH LẬP
ĐẢNG CSVN?
Hay là Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với Cách mạng Việt Nam?
- Nêu hoàn cảnh nước ta cuối thế kỷ 19 đầu 20 khi thực dân Pháp xâm lược
- Các mâu thuẫn chủ yếu và yêu cầu cần phải giải quyết các mâu thuẫn đó
- Xem xét các phong trào yêu nước cuối 19 đầu 20 có giải quyết được các
mâu thuẫn đặt ra của dân tộc không?
- Vai trò của Nguyễn Ái Quốc
+ Tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam - Con đường CM vô
sản, con đường đó đã giải quyết được những vấn đề gì của dân tộc VN trong
giai đoạn đó?
+ Chuẩn bị các điều kiện về chính trị tư tưởng, tổ chức và nhân sự cho việc
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
+ Tổ chức triệu tập và trực tiếp chỉ đạo HN hợp nhất ĐCSVN
+ Soạn thảo chính cương vắn tắt, sách lược tóm tắt, chương trình tóm tắt =>
đây là bản cương lĩnh chính trị đầu tiên, hết sức đúng đắn của Đảng.
Câu 2 : Quy luật ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Phân tích các yếu
tố đó
Các yếu tố thành lập ĐCS VN
I. Quy luật ra dời của Đảng CS
- Theo học thuyết Mác-Lênin
Đảng Cộng Sản = Chủ Nghĩa Mác-Lênin + Phong Trào Công Nhân
• Theo Hồ Chí Minh
Đảng Cộng Sản = Chủ Nghĩa Mác-Lênin +Phong Trào Công Nhân + Phong
Trào Yêu Nước
• Quan điểm này :
- Khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm của CN M-L.
- Mặt khác cũng thấy được tính hạn chế: không tính đến các nước thuộc địa.
- Ở các nước thuộc địa ngoài phong trào công nhân còn có phong trào yêu
nước.
II. Phân tích các yếu tố đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam


1.Chủ nghĩa Mác-Lênin
• Chủ nghĩa Mac-lênin đã chỉ ra:
- Mục tiêu lí tưởng nhiệm vụ phương pháp khoa học soi đường dẫn lối cho
giai cấp vô sản và quần chúng lao động tiến hành đấu tranh cách mạng xoá
bỏ chế độ xã hội cũ chế độ người áp bức bóc lột người và xây dựng xã hội
mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và để thực hiện được
sứ mệnh lịch sử của mình cần phải thành lập ra Đảng vô sản của mình :
+ Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc Việt Nam: cứu nước theo con đường cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin.
+ Từ năm 1921 đến 1930 Người đã tích cực hoạt động truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của ĐCS VN
Xuất bản báo chí viết bài, báo cáo tham luận.
Sáng lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và các hoạt
động của Hội.
=> Người nhấn mạnh cách mạng muốn thành công phải có đảng chân chính
lãnh đạo, một hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là
hệ tư tưởng Mác-Lenin
• Vai trò của chủ nghĩa Mac-lênin đã được thể hiện :
• Những tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã
hội chủ nghĩa đã thức tỉnh những người Việt Nam hướng theo con đường
cách mạng đúng đắn đó là con đường cách mạng vô sản;
- Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ và cách
mạng chủ nghĩa xã hội xác định đúng vấn đề động lực cách mạng liên minh
giai cấp vị trí of cách mạng thuộc địa.
=>
Đó là cơ sở lí luận cho cương lĩnh cách mạng của Đảng sau này. Nhờ có
chủ nghĩa Mác-Lênin mà phong trào công nhân đã chuyển từ "tự phát" sang
"tự giác".

2. Phong trào công nhân
- Từ đầu thế kỉ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập
trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức, bóc lột của tư sản,
thực dân cũng diễn ra từ rất sớm.
- Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào công nhân chưa trở thành
lực lượng riêng biệt còn hoà lẫn với phong trào yêu nước.
- Giai cấp công nhân Việt Nam đã được hình thành và bước vào trận tuyến
đấu tranh chống áp bức bóc lột :
+ Trong những năm 1919-1925, phong trào công nhân diễn ra dưới các hình
thức đình công, bãi công
+ Nguyễn Ái Quốc coi đó mới chỉ là “do bản năng tự vệ” của những người
công nhân “không được giáo dục và tổ chức” nhưng đã là dấu hiệu của thời
đại. Đây là những cuộc đấu tranh đòi quyền lợi về mặt kinh tế.
+ Trong những năm 1926-1929 phong trào công nhân đã phát triển dần lên
trình độ tự giác cao, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của các tổ chức
như hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức cộng
sản ra đời từ năm 1929. Các cuộc đấu tranh này đã mang tính chính trị rõ rệt
=> Sự phát triển của phong trào công nhân trong nước đã khẳng định sự lớn
lên trong nhận thức tư tưởng của GCCN về cách mạng giải phóng dân tộc
VN.
Như vậy phong trào công nhân ngày 1 trưởng thành là 1 trong những
điều kiện tất yếu dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản VN.
3. Phong trào yêu nước
- Việt Nam là một quốc gia dân tộc được hình thành từ rất sớm, có nền văn
hiến lâu đời, trong đó yêu nước là truyền thống quý báu và đặc sắc, là dòng
chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc VN.
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xăm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”

(4)
.
- Do điều kiện lịch sử đương thời VN là 1 nước thực dân nửa phong kiến, số
lượng công nhân còn ít nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với phong trào yêu
nước ngay từ khi mới ra đời
• Biểu hiện của phong trào yêu nước :
- Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta (năm 1858 ), nhân dân
cả nước đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược, phong trào đấu tranh
chống thực dân Pháp liên tục diễn ra.
- Thực dân Pháp đã vấp phải một phong trào đấu tranh quyết liệt và kéo dài,
hễ phong trào này bị dập tắt thì phong trào khác lại tiếp tục, không hề ngơi
nghỉ
- Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự nối tiếp
truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn
năm lịch sử:
+ Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến do giai cấp phong kiến
lãnh đạo: Phong trào Cần Vương
+ Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng
Hoa Thám kéo dài mấy chục năm.
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo.
+ Các phong trào của giai cấp tư sản dân tộc và tiểu tư sản tiêu biểu như các
phong trào : Phong trào chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá(1919), chống
độc quyền cảng Sài Gòn(1923)
+ Những phong trào mít tinh biểu tình của các tầng lớp tiểu tư sản đặc biệt là
phong trào đòi thả Phan Bội Châu(1925) và đám tang Phan Châu Trinh
(1926) và đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa yên Bái(1930) do Việt Nam Quốc dân
Đảng phát động.
+ Hoạt động của các tổ chức Hội VN cách mạng thanh niên và Tân Việt cách
mạng Đảng đã làm cho nhiều thanh niên yêu nước đc giác ngộ trở thành đảng

viên cộng sản.
4. Vì sao lại cần có thêm phong trào yêu nước:
- Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của lịch sử dân tộc:
+ Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân
tộc và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của nước ta.
+ Phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân
- Phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối liên hệ chặt chẽ:
+ Hầu hết công nhân đều xuất thân từ nông dân
+ Có chung kẻ thù: giải phóng dân tộc, làm cho dân tộc VN dược
hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường
- Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy
sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của ĐCS VN
+ Là những ngòi nổ cho các PTYN bùng lên chống thực dân pháp
xâm lược và bọn tay sai cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất
nước.
+ Họ chủ trương đón nhận những “luồng gió mới” về tư tưởng của tất
cả các trào lưu trên thế giới dội vào VN.
- Phong trào yêu nước có tác động đến việc truyền bá Chủ nghĩa Mac-lenin
và sự phát triển của phong trào công nhân:
+ Bản thân Nguyễn Ái Quốc cũng xuất phát từ tinh thần yêu nước đi
tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc, Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước
đến với chủ nghĩa Mác-Lênin
+ Phong trào yêu nước chống Pháp có trước phong trào công nhân.
Phong trào yêu nước chống Pháp đã nuôi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần
dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, trong công nhân.
Kết luận:
1, Cuối 1929 đầu 1930 cả 3 yếu tố : chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công
nhân, phong trào yêu nước đã được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự kết hợp
chặt chẽ và nhuần nhuyễn đó đã đặt ra yêu cầu và tạo điều kiện thuận lợi để

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
2, Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân,
phong trào yêu nước đã giúp Đảng ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được
truyền thống yêu nước, đoàn kết được các lực lượng cách mạng và nhờ đó
giữ được quyền lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam tuyển lựa
đảng viên không những trong phong trào công nhân mà còn chọn những phần
tử tiên tiến giác ngộ chủ nghĩa cộng sản trong nông dân lao động, trí thức và
trong phong trào yêu nước.
Câu 3: Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ trong cách mạng Tháng Tám năm
1945
Thời cơ là tình thế xuất hiện trong thời điểm nhất định có lợi nhất cho
việc chủ động phát huy mọi sức mạnh để giành thắng lợi. Thời cơ đó có thể
là do sai lầm của đối phương, do năng động chủ quan tạo nên hoặc do khách
quan đưa đến. Khi thời cơ đến, phải nhạy bén nắm bắt và phải kịp thời chớp
lấy. Ngày Tổng khởi nghĩa 19-8-1945 làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám
kỳ diệu, chính là do chúng ta đã kịp thời chớp lấy thời cơ và giành thắng lợi
trọn vẹn
I. Nghệ thuật tạo thời cơ:
1.Không thụ động chờ thời cơ xuất hiện mà tích cực chủ động tiến hành
đấu tranh cách mạng để tạo thời cơ cách mạng mà nổi bật là:
• Giai đoạn 1936-1939:
+Chuyển hình thức bí mật , không hợp pháp sang các hình thức đấu tranh
công khai, nửa công khai.( Nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với
quần chúng, lãnh đạo quần chúng bằng những biện pháp và khẩu hiệu thích
hợp).
+Củng cố, tăng cường tổ chức và hoạt động bí mật của Đảng, giữ vững mối
quan hệ giữa bí mật và công khai;hợp pháp với không hợp pháp, đảm bảo sự
lãnh đạo của các tổ chức Đảng bí mật với các tổ chức và hoạt động công
khai, hợp pháp.
• Giai đoạn 1939-1945:

+ Xúc tiến phát triển khởi nghĩa vũ trang, xây dựng lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang, lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn va Vũ Nhai làm trung
tâm.
• Cao trào kháng Nhật: chỉ thị Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta của Ban Thường vụ Trung ương Đảng(12/3/1945)
+Chiến tranh du kích, giải phóng từng phần, giành chính quyền bộ phận, mở
rộng khu căn cứ địa.
2. Thành lập các Mặt trận và các tổ chức quần chúng yêu nước, thống
nhất các lực lượng vũ trang:
- Giai đoạn 1936-1939: thành lập mặt trận nhân dân phản đế( bao gồm các
giai cấp, dân tộc, đảng phái,đoàn thể chính trị xã hội ). Sau đổi tên thành
mặt trận dân chủ Đông Dương.
- Giai đoạn 1939-1945:

+
Xây dựng các tổ chức Việt Minh
+
Các đoàn thể yêu nước trên phạm vi cả nước
Điều có tính chốt quyết định cho thắng lợi Cách mạng tháng 8 đó là việc
Hồ Chí Minh đã chủ trương thành lập Mặt trận Việt minh. Cùng với sự ra
đời của Mặt trận Việt Minh là sự phát triển mạnh mẽ của các đoàn thể trong
mặt trận như Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu
quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc… Dưới ngọn cờ của Mặt trận
Việt minh và hiệu triệu “cứu quốc” của các đoàn thể, mà mọi tầng lớp nhân
dân yêu nước được tập hợp đoàn kết lại, lôi cuốn mạnh mẽ vào phong trào
đứng lên đánh đổ thực dân xâm lược, giành độc lập tự do. Thành lập Mặt
trận Việt minh là một sáng tạo của Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu của lịch
sử. Khi Đảng hoạt động bí mật thì chính Mặt trận là nơi tập hợp quần chúng
đông đảo, là cầu nối quan trọng giữa Đảng với quần chúng, là tiêu biểu cho
khối đại đoàn kết dân tộc. Có thể nói, sự ra đời của Mặt trận Việt minh là

yếu tố quyết định cho thắng lợi Cách mạng tháng 8.
+ Xây dựng LLVT.
+ Quyết định thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
(ngày 22-12-1944). Cùng với lực lượng chính trị, LLVT không ngừng lớn
mạnh, đã tạo điều kiện vô cùng quan trọng cho thắng lợi của Cách mạng
tháng 8.
• Cao trào kháng Nhật: thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt
Nam giải phóng quân(15/4/1945) tại hội nghị quân sự Bắc kỳ (Hiệp Hòa-
Bắc Giang).
3.Chuẩn bị tốt lực lượng đông đảo quần chúng, sẵn sàng chủ động chớp
thời cơ
Trước khi có Đảng, từ hồi còn là tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí
hội, Bác Hồ chính là người chiến sĩ cộng sản đã dùng vũ khí văn hóa và
thông tin, mà tiêu biểu là báo Người cùng khổ năm 1922, là tác phẩm Bản án
chế độ thực dân năm 1925, Đường kách mệnh năm 1927 v.v cùng với
những người cộng sản Việt Nam đầu tiên khéo kết hợp việc tuyên truyền
đường lối cách mạng với công tác cổ động chính trị đưa quần chúng ra hành
động hàng ngày với nhiều hình thức linh hoạt, phong phú để giáo dục lòng
yêu nước, nâng cao giác ngộ của quần chúng, tổ chức quần chúng đấu tranh
giành quyền lợi, tiến lên giải phóng dân tộc.
Đảng đã xây dựng niềm tin và quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các
giai cấp và tầng lớp không phân biệt dân tộc, tôn giáo. Xây dựng nên lực
lượng cách mạng to lớn và rộng khắp trong cả nước, đấu tranh hchống thực
dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai
4.Có sự chuẩn bị chu đáo về mặt quân sự và vũ trang :
Cách mạng Tháng Tám chính là kết quả của 3 cuộc vận động lớn, ba cuộc
tổng diễn tập cách mạng chuẩn bị lực lượng, tạo cơ sở giành thắng lợi cho
cuộc chiến đấu mới. Đó là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 –1931; cuộc
vận động chính trị dân chủ 36 – 39 và cuói cùng là cuộc vận động giải phóng
dân tộc của Mặt trận Việt Minh thời kỳ từ năm 1939 đến năm 1945

5.Xây dựng một Đảng Mac Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa
giành chính quyền.
+7/1939, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích
bàn về việc xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ
của Đảng,
+Giai đoạn 1939-1945: Ban chấp hành Trung Ương chú trọng công tác xây
dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng.
Gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ nông vận, binh vân, quân sự
và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
6.Quan hệ với các tổ chức quốc tế để tranh thủ được sự ủng hộ của
nhân dân các nước cho phong trào giải phóng dân tộc của ta :
+Giai đoạn 1936-1939: Đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và Đảng
cộng sản Pháp. Đề ra khẩu hiệu “ ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp”, “ủng hộ
chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp”.
+ Giai đoạn 1939-1945: Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều hoạt động ngoại
giao dồn dập nhằm tranh thủ mọi lực lượng ở ngoài nước. Người đã trực tiếp
gặp Chu Ân Lai đại diện cho Đảng Cộng sản Trung Quốc để bàn phối hợp
hoạt động cách mạng giữa 2 nước, cử người đi Diêu An để mở rộng quan hệ
quốc tế, củng cố đường dây liên lạc với Quốc tế Cộng sản… Người đã quyết
định gặp đại diện Mỹ ở Côn Minh, đã bàn phương thức hợp tác Việt minh –
Mỹ. Thực hiện kế hoạch hợp tác vô cùng nhạy cảm đó, Mỹ đã giúp Việt
Nam một số súng đạn, thuốc men, điện đài và cả một số quân tình nguyện để
huấn luyện cho LLVT Việt Nam về sử dụng vũ khí, điện đài, về kỹ thuật
quân sự.
II. Dự đoán và chớp thời cơ:
Một cuộc khởi nghĩa hoặc tổng khởi nghĩa muốn thắng lợi đòi hỏi phải hội đủ
những điều kiện bên trong và bên ngoài (chủ quan và khách quan) mà chúng ta
thường gọi là điều kiện chín muồi.
• Dự đoán thời cơ:
• Có thể từ tháng 5-1941, trong Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành

Trung ương lần thứ tám dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Quyền
Tổng Bí thư Trường Chinh, tại Pắc Bó, Cao Bằng. Nghị quyết đã dự báo một
cách chính xác về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó: “Nếu cuộc
đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc
đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó cách
mạng nhiều nước sẽ thành công…”(1). Xin nhớ là, Nghị quyết này được thông
qua vào tháng 5-1941, khi Liên Xô chưa tham chiến; một tháng sau, tháng 6-
1941, phát-xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô.
• Như vậy, thời cơ sẽ đến với nhiều nước trên thế giới khi chiến tranh thế giới
thứ hai kết thúc, phần thắng nghiêng về Liên Xô và phe dân chủ. Đó là một khả
năng làm xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng nhiều nước, trong đó có cách
mạng nước ta. Như chúng ta đã biết, dự báo đó hoàn toàn chính xác, đặc biệt là
đối với châu Âu. Ở đó, chủ nghĩa xã hội từ một nước trở thành một hệ thống.
Việt Nam ở châu Á đang rên xiết dưới ách thống trị của phát-xít Nhật và thực
dân Pháp, chịu ảnh hưởng bởi chiến trường Thái Bình Dương, nơi mà cuộc
chiến Mỹ - Nhật đang bước vào giai đoạn chót.
• Từ rất sớm, Đảng ta, với sự phân tích chính xác, khoa học mâu thuẫu trong
hàng ngũ kẻ thù, đã dự báo cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương và vạch ra
những kế hoạch hành động khi tình hình mới tới. Bài báo đầu tiên dự báo về
cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương là bài “Bóc trần mưu gian của đế quốc
Nhật! Thống nhất hành động đánh đổ thù chung!” của Tổng Bí thư Trường
Chinh, đăng trên Báo Cờ Giải phóng, số 3, ngày 15-2-1944. Trong bài báo đó,
sau khi phân tích mâu thuẫn ngày càng tăng trong hàng ngũ kẻ thù, tác giả đã đi
tới một nhận định đúng đắn là, sớm hay muộn cuộc đấu súng giữa chúng với
nhau nhất định sẽ xảy ra: “Sự xung đột giữa Nhật - Pháp ngày thêm sâu sắc.
Cho nên Nhật gấp rút”.
• Từ đó, trong suốt năm 1944 và những tháng đầu năm 1945, trên những tờ
báo, trong những văn kiện chính thức của Đảng ta, vấn đề “cuộc đảo chính của
phát-xít Nhật” luôn luôn được nhắc tới nhằm hướng công tác chuẩn bị của
Đảng và phong trào cách mạng của quần chúng chủ động đón nhận nó. Vì thế,

khi cuộc đảo chính của Nhật nổ ra vào đêm 9-3-1945, Đảng ta không bị động
trước thời cuộc mà trái lại, chủ động vạch ra những nhiệm vụ chiến lược sát
đúng để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên. Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau,
từ chập tối, Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư
Trường Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, Bắc Ninh. Sợ bị lộ, Hội nghị
chuyển sang làng Đình Bảng họp tiếp. Trên đường đi, bỗng nghe tiếng súng nổ
dồn từ phía Hà Nội, các đồng chí dự Hội nghị dồn bước tới địa điểm mới, họp
tiếp và ra ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào
ngày 12-3-1945. Bản Chỉ thị đó lập tức được chuyển tới nhà in bí mật của Đảng
tại làng Tráng Việt, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ông Nguyễn Lương Hoàng phụ
trách nhà in, đã cấp tốc cho in hàng nghìn bản và theo những đường giây bí mật
chuyển đi các nơi.
• Đồng chí Trường Chinh trong tác phẩm Cách mạng Tháng Tám đã phân tích
thời cơ khi Tổng khởi nghĩa nổ ra như sau: “Nếu ngày 9-3-1945, Nhật vừa đánh
đổ Pháp mà cuộc khởi nghĩa đã nổ ra nhanh thì cách mạng có thể tổn thất nhiều
và chính quyền chưa thể thành lập trong toàn quốc, vì lực lượng Nhật lúc đó
còn khá vững, có thể tiêu diệt quân cách mạng ở những nơi có thể giữ. Cho nên
lúc đó chỉ khởi nghĩa bộ phận giành chính quyền địa phương. Nếu sau khi quân
Nhật đầu hàng Đồng minh mà nhân dân ta bị động trông chờ quân Đồng minh
vào “giải phóng”, không tức thời nổi dậy giành chính quyền toàn quốc thì sẽ ra
sao ?. Hai trường hợp có thể xảy ra: Hoặc bọn bù nhìn tay sai của Nhật đứng ra
vỗ ngực “thoát ly ảnh hưởng của Nhật” và tự xưng là “độc lập, dân chủ” để đầu
hàng Anh, Mỹ chứ không phải để giải phóng dân tộc. Hoặc Pháp sẽ ngóc đầu
dậy thu thập sức tàn ở Đông Dương và đem tàn quân chạy ra ngoài rồi tháng 3
trở lại cùng với bọn Việt gian thân Pháp, lập chính quyền bù nhìn thân Pháp
trong toàn quốc và tuyên bố thi hành bản tuyên ngôn ngày 24-3-1945 cho Đông
Dương “tự trị”. Cả hai trường hợp ấy đều vô cùng nguy hiểm”.
• Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương đã tạo ra
cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự
chín muồi, tuy vậy cũng đã tạo ra những tiền đề cần thiết thúc đẩy cuộc khởi

nghĩa chóng tới. Trong Bản Chỉ thị đó, Ban Chấp hành Trung ương, ngoài việc
xác định kẻ thù mới và đề ra khẩu hiệu đấu tranh mới, còn dự báo hai khả năng
làm xuất hiện thời cơ cho nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước,
đó là: 1. Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật; và 2. Nhật đầu hàng
Đồng minh.
• Chớp thời cơ:
• Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến
địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Sau khi
Hồng quân Liên Xô tiêu diệt một triệu quân Quan đông của Nhật ở Đông Bắc
Trung Quốc và Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-
sa-ki, ngày 9-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật Bản đã họp bàn về
các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pô-xđam. Sau những cuộc thương lượng
giữa Nhật Bản và Đồng minh, ngày 14-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và
nội các Nhật Bản với sự hiện diện của Nhật hoàng đã nhóm họp và thông qua
quyết định đầu hàng Đồng minh.
• Đúng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực
lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Như vậy, thời cơ xuất
hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Tin đó đến với lãnh tụ Hồ Chí
Minh rất sớm qua bản tin đài BBC mà Người nghe được ở lán Nà Lừa, Tân
Trào (Tuyên Quang). Thời cơ có một không hai đã đến với dân tộc chúng ta,
bởi vậy, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do
độc lập!” (Lời của lãnh tụ Hồ Chính Minh nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp ở
lán Nà Lừa). Lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra quân lệnh số 1, trong
đó có đoạn viết: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân
Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà… Chúng ta phải hành
động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!
Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”.
• Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân Đại hội nhóm họp tại Tân
Trào quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả

nước.
• Thời cơ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 chỉ tồn tại trong một thời gian rất
ngắn – từ sau khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước lúc quân Đồng
minh tiến vào nước ta giải giáp quân Nhật. Nếu khởi nghĩa sớm hơn, khi Nhật
chưa đầu hàng thì sẽ khó khăn, vì chúng tuy có suy yếu, nhưng vẫn còn lực
lượng để chống cách mạng. Ngược lại, nếu Tổng khởi nghĩa muộn hơn, khi
quân Anh, theo gót quân Anh là Pháp và quân Tưởng, tiếp đến là đế quốc Mỹ
đã nhảy vào nước ta, lúc cách mạng chưa giành được chính quyền; chính quyền
bù nhìn Trần Trọng Kim sẽ tiếp xúc với bọn đế quốc, phục vụ cho chúng. Lúc
đó, thời cơ giành chính quyền không còn nữa, cách mạng sẽ rất khó khăn.
• Như trên đã nói, thời cơ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất
định. Trong Cách mạng Tháng Mười Nga, thời cơ chỉ tồn tại trong vòng 24 giờ.
Vậy, trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của chúng ta, thời cơ tồn tại trong
bao lâu? Trong Cách mạng Tháng Tám, thời cơ tồn tại một cách khách quan
trong vòng hai mươi hôm, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày
15-8) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất
nước ta theo Hiệp định Pô-xđam (ngày 5-9). Nếu phát động tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 15-8 và sau ngày 5-9 đều không
có khả năng thành công, bởi trước ngày 15-8, quân Nhật còn mạnh và sau ngày
5-9, trên đất nước có nhiều kẻ thù (từ vĩ tuyến 16 trở ra là quân Tưởng - Mỹ và
sau đó là những kẻ “theo đóm ăn tàn”, và từ vĩ tuyến 16 trở vào là quân Anh và
sau nó là quân Pháp trở lại xâm lược). Chỉ có thể giành chính quyền thắng lợi
trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt đó.
• Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước ta đã đồng loạt đứng dậy, tiến
hành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong khắp cả nước. Cuộc tổng khởi
nghĩa bắt đầu nổ ra từ ngày 14-8 và đến ngày 18-8, chúng ta đã giành thắng lợi
ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận các tỉnh miền Trung, một phần
miền Nam và ở các thị xã Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng
Nam. Ngày 19-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng
lợi ở Huế và các thị xã: Bắc Cạn, Hoà Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Trị,

Quảng Bình, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Tân An, Bạc Liêu. Ngày 25-8,
khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Lạng Sơn, Kon Tum, Sóc
Trăng, Vĩnh Long, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Biên Hoà, Tây Ninh,
Bến Tre… Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã
giành thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước
thuộc về nhân dân.
• Cuộc Cách mạng Tháng Tám mà Đảng và Mặt trận Việt Minh phát động,
như cơn sóng thần, đã cuốn phăng chính quyền phát-xít Nhật và tay sai. Ngày
30-8, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị và tuyên bố “thà làm dân một nước tự do,
còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Trên đống đổ nát đó, chúng ta bắt tay xây
dựng chế độ cộng hòa dân chủ bằng việc công bố trước quốc dân Việt Nam và
nhân dân thế giới bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa tại vườn hoa Ba Đình, ngày 2-9-1945. Như vậy, mọi việc được chúng ta
hoàn tất trước ba ngày để ngày 5-9-1945, với tư cách là chủ nhà, Chính phủ
Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đón tiếp quân Đồng minh vào tước
khí giới quân Nhật trên đất nước ta.
OK.Câu 4: Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương thời kỳ kháng
chiến chống Pháp và Mỹ (1946 - 1975)
• Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954):
• Đường lối xây dựng hậu phương của Đảng ta:
+ Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị: thống nhất Việt Minh và Liên Việt
thành Mật trận liên hiệp quốc dân tộc Việt Nam (3-1951), xây dựng Đảng là
trung tâm lãnh đạo hệ thống chính trị
+ Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết liên minh ba nước Đông Dương
+ Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương và dân quân du kích)
+ Xây dựng hậu phương vững mạnh. Đây là nhân tố thường xuyên quyết
định thắng lợi ở chiến trường
• Quá trình xây dựng hậu phương:
+ Về quân sự:

• Xây dựng cǎn cứ địa và hậu phương tại chỗ vững mạnh, lấy nông
thôn, đồng bằng và rừng núi làm địa bàn chiến lược trọng yếu
• Tích cực củng cố những cǎn cứ đã có, đồng thời tích cực xây dựng các
làng chiến đấu, các cǎn cứ và khu du kích trong vùng tạm chiếm
• Quyết tâm giữ vùng nông thôn để xây dựng hậu phương tại chỗ vững
mạnh
• Công tác trong vùng địch kiểm soát và chiếm đóng nhằm giữ vững và
nâng cao trình độ giác ngộ và tinh thần quyết chiến của dân, lập lại và làm
kiên cố các tổ chức quần chúng của Đảng
+ Về chính trị:
• Năm 1948, Ủy ban Hành chính sáp nhập với Ủy ban kháng chiến
thành Ủy ban Kháng chiến - Hành chính
• Năm 1951 thống nhất Mặt trận Việt Minh với Hội Liên hiệp quốc dân
Việt Nam thành Mặt trận Liên Việt
• Các đoàn thể kháng chiến như các Hội Nông dân cứu quốc, Công
nhân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Thiếu niên cứu
quốc đã được xây dựng và củng cố
+ Về kinh tế:
• Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, tăng gia sản xuất, xây dựng
kinh tế tự cấp, tự túc
• Chính phủ phát hành công trái kháng chiến, lập Quỹ tham gia kháng
chiến, Quỹ công lương, thuế nông nghiệp
• Từ năm 1953, Đảng có chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, giảm
tức, bước đầu thí điểm cải cách ruộng đất
+ Về văn hóa xã hội:
• Phong trào xóa nạn mù chữ, bình dân học vụ phát triển mạnh. Trong
thời kỳ này đã có gần 10 triệu người thoát nạn mù chữ
• Các hoạt động xuất bản, báo chí, phim ảnh đã hình thành. Nhờ đó
hậu phương đã cung cấp ngày càng lớn nhân lực, vật lực cho công cuộc
kháng chiến nhất là cho chiến dịch lớn

• Kết quả:
+ Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai. Bộ máy chính quyền các cấp
được củng cố. mặt trận liên việt được thành lập
+ Về quân sự: Ta đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giả phóng nhiều vùng
đất, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam, giúp đỡ cách mạng Lào. Chiến
thắng Điện Biên Phủ 7-5-1954 báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân
tộc thuộc địa
+ Về ngoại giao: Ngày 21-7-1954 các văn bản của hiệp định giơ ne vơ về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của ta kết thúc thắng lợi
• Nguyên nhân và bài học:
+ Nguyên nhân thắng lợi:
• Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng
• LLVT do đảng lãnh đạo ngày càng vững mạnh
• Có CQ dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân
• Có sự liên minh đoàn kết đấu tranh
+ Bài học kinh nghiệm:
• Kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống ĐQ với nhiệm vụ chống
phong kiến PK
• Thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới,
xây dựng hậu phương vững mạnh
• Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ
• Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức mạnh chiến đấu
và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh
• Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975):
• Đường lối xây dựng hậu phương của Đảng: Cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả
nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của
toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà

• Quá trình xây dựng hậu phương:
+ Xây dựng chế độ chính trị - xã hội:
• Miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội
• Các thiết chế dân chủ cũng được xây dựng, hoàn thiện hơn, nhằm bảo
đảm cho Nhà nước thể hiện được nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân
+ Xây dựng nền kinh tế:
• Đến hết năm 1960, công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp đã căn bản
hoàn thành. 41.000 HTX nông nghiệp đã được thành lập
• Hoàn thành cải cách ruộng đất, tiến hành sửa chữa sai lầm đã đưa lại
những chuyển biến lớn trong nông thôn và nông dân miền Bắc
• Kết quả:
+ Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bước đầu được hình thành
+ Dù chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất, thiệt hại lớn về
người, song không có nạn đói, dịch bệnh và rối loạn xã hội.
+ Văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có sự
phát triển mạnh
+ Sản xuất nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường
+ Quân dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ
+ Miền Bắc không chỉ chia lửa với các chiến trường mà còn hoàn thành xuất
sắc vai trò là căn cứ địa của cách mạng cả nước và là nhiệm vụ hậu phương
lớn của chiến trường miền Nam.
• Ý nghĩa và bài học:
+ Ý nghĩa:
• Hậu phương miền Bắc vững mạnh đã góp phần không nhỏ vào thắng
lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước
• Xây dựng cơ sở, tạo nền tảng cho cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa.
• Tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng dân

tộc Việt Nam
• Làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
+ Bài học:
• Hậu phương vững chắc là nền tảng cho chiến thắng ở tiền tuyến
• “Nếu không xây dựng CNXH ở miền Bắc thì không thể đánh thắng
Mỹ ở miền Nam. Ngược lại, nếu không đánh Mỹ ở miền Nam thì cũng không
thể xây dựng được CNXH ở miền Bắc”
• Huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến,
sức mạnh của cả nước và sự hỗ trợ của các nước trên thế giới
Câu 5: Phân tích nội dung quan điểm: Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là nhiệm vụ trung tâm thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở
miền bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân
tc dõn ch nhõn dõn ó hon thnh thng li, t nc ó hũan thnh thng
li, t nc ó hũa bỡnh thng nht quỏ lờn ch ngha xó hi.
T i hi ng ln th III, ng ta luụn coi CNH-HH l nhim v trung
tõm ca thi k quỏ lờn CNXH
Vic xõy dng ỳng n nhng quan im CNH-HH Vit Nam hin nay
cú v trớ rt quan trng i vi quỏ trỡnh CNH-HH. Bi xõy dng y
cỏc quan im CNH-HH s l c s ỳng n cho vic nh hng, nh
lng ch o v t chc thc hin cỏc ni dung v cỏc bc i ca CNH-
HH phự hp vi bi cnh xó hi ch ngha nc ta.
Ngh quyt i hi VIII ca ng ó a s nghip i mi t nc lờn
tm cao mi, y mnh quỏ trỡnh CNH-HH.
Khai niem CNH HDH ( cha rừ ỳng hay sai, cú cn nờu qua cỏc thi kỡ
khụng)
Hi ngh TW 7 khúa VII (7/1994) ó cú bc t phỏ mi trong
nhn thc v cụng nghip húa: Ln u tiờn a ra khỏi nim:
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao

động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến, hiện đại dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo
ra năng suất lao động xã hội cao
Ni dung c bn ca CNH-HDH :
a- Phỏt trin mnh m LLSX trc ht = vic c khớ húa nn sx xó hi trờn c
s ỏp dng nhng thnh tu CM khoa hc v cụng ngh hin i.
Bng cỏch :
- To dng KH-CN hin i t trong nc
- Chuyn giao KH-CN hin i t nc ngoi
b- Xõy dng 1 c cu kinh t hp lớ, hin i v hiu qu.
Ngnh kinh t : Chuyn dch t khu vc sx vt cht sang khu vc dch v.
Chuyễn dịch từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp.
Vùng kinh tế : Vùng kinh tế 3 miền : Bắc, Trung, Nam . Vùng kinh tế Nam
bộ, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long
• Tầm quan trọng của CNH-HĐH đối với quá trình quá độ lên CNXH ở
nước ta
• Bối cảnh trong và ngoài nước
Nền kinh tế của nước ta trong quá trình phát triển gặp rất nhiều khó khăn:
chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, sự chủ quan ỷ lại của lãnh đạo trong
khôi phục kinh tế sau chiến tranh bằng máy móc dập khuôn mô hình kinh tế
Liên Xô cũ. Sự nghiệp CNH-HĐH lại được tiến hành sau một loạt nước trong
khu vực và trên thế giới
• CNH-HĐH là một tất yếu khách quan
Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ, để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội,
khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng ổn
định, nước ta phải thực hiện CNH - HĐH
Theo dự thảo báo cáo chính trị của đại hội VII trình lên đại hội VIII của Đảng
dự kiến từ nay đến năm 2020 phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp. Tuy nhiên điểm xuất phát CNH-HĐH ở nước ta hiện nay

là tiền công nghiệp với những đặc điểm chủ yếu là nền kinh tế dựa vào các
hoạt động thương mại khai thác tài nguyên lao động, quản lý còn nặng về
kinh nghiệm. Mặt khác nước ta là một nước nông nghiệpthuần nông. Nhìn
tổng quát, Việt Nam là một nước nghèo nàn, khó khăn và lạc hậu.
Để tiến hành sản xuất lớn, hiện đại, nước ta phải thực hiện quá trình công
nghiệp hoá. Đây là một quá trình nhảy vọt của LLSX và của khoa học kĩ
thuật
Ở nước ta CNH XHCN được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.
Đảng ta đã xác định được thực chất của CNH XHCN là “quá trình thực hiện
sự phân công mới về lao động và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để
không ngừng tái sản xuất mở rộng, CNH XHCN là quá trình xây dựng cơ sở
vật chất của chủ nghĩa xã hội, do giai cấp công nhân và nông dân lao động
dưới sự chỉ đạo của Đảng cộng sản … CNH XHCN có nhiệm vụ đưa nền
kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
• Vai trò của CNH-HĐH trong quá trình quá độ lên CNXH ở Việt Nam
CNH-HĐH làm phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng
sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế, do đó góp
phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần quyết định sự thắng
lợi của CNXH.
Tạo tiền đề về vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò kinh tế
nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ, tăng công ăn việc làm, nhờ đó làm tăng
sự phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người-
nhân tố trung tâm của nền sản xuất xã hội.
CNH-HĐH góp phần phát triển kinh tế-xã hội. CNH-HĐH còn tác động đến
việc đảm bảo kỹ thuật, giữ gìn bảo quản và từng bước cải tiến vũ khí, trang
thiết bị hiện có cho lực lượng vũ trang.
CNH-HĐH góp phần tăng nhanh quy mô thị trường. Bên cạnh thị trường
hàng hoá, còn xuất hiện các thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường
công nghệ
• Thực trạng CNH-HĐH trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt

Nam
• Nội dung của CNH-HĐH
+ Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các ngành của
nền kinh tế quốc dân
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
• Yêu cầu của CNH-HĐH
+ Phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
+ Góp phần tăng cường, củng cố khối liên minh công-nông
• Đánh giá quá trình thực hiện CNH-HĐH nước ta
+ Thành tích và thắng lợi
• Tăng sản phẩm thu nhập quốc dân
• Đời sống kinh tế xã hội được cải thiện, uy tín quốc tế tăng lên
+ Những tồn tại chủ yếu
• CNH chưa tạo điều kiện cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững
và có hiệu quả.
• Công nghiệp hoá tác động rất yếu đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tiến bộ và có hiệu quả.
• Công nghiệp hoá chưa đẩy nhanh và có hiệu quả quá trình nâng cao
trình độ kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong sản xuất-kinh doanh, đời sống.
(Cần hoàn chỉnh)Câu 6: Phân tích quan điểm: Công nghiệp hóa gắn
với hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức của Đảng. Liên hệ
trong giai đoạn hiện nay
• Khái niệm Kinh tế tri thức:
• Kinh tế tri thức là sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con
người, có vai trò quyết định nhất với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải nâng
cao chất lượng cuộc sống
• Cơ sở lý luận thực tiễn của vđề CNH – HĐH gắn liền với phát triển
KT tri thức:
• Đhội X của Đảng ta nhận định rằng: “Trong thế kỉ 21, Khoc và Cnghe
sẽ có những bước phát triển vượt bậc, KT tri thức có vai trò ngày càng nổi

bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Đhội X cho rằng CNH –
HĐH đất nước gắn liền với phát triển KT tri thức ở VN trên cơ sở lý luận –
thực tiễn sau:
+ Một là, nước ta tiến hành CNH – HĐH trong đkiện điểm xuất phất thấp,
Kte chưa phát triển. Vì vậy, CNH – HĐH gắn với KT tri thức là bước đi thích
hợp, là một quá trình mang tính tất yếu khách quan
+ Hai là, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ, Đảng ta
chỉ ra: CNXH ở nước ta dựa trên nền KT phát triển cao, lực lượng sản xuất
hiện đại, chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Chúng ta ko thể
nào phát triển KTXH trên 1 nền sản xuất thấp kém, như vậy là đi ngược lại
với CNXH.
+ Ba là, thực tiễn 20 năm tiến hành đổi mới, Đảng ta đã chuyển tư duy cũ về
CNH theo kiểu khép kín, hướng nội thiên về CN nặng, lợi thế lao động, tài
nguyên, đất đai và nguồn viện trợ từ các nước XHCN sang đường lối CNH
gắn với HĐH trong 1 nền KT mở, rồi chuyển từ việc Nhà Nước đóng vai trò
chủ lực sang tư duy mới, các doanh nghiệp cả Nhà nước và tư nhân , và cả
toàn dân đóng vai trò chủ lực trong qtrinh CNH
+ Cuộc CM KH – CN đang phát triển như vũ bão, VN là nước đi sau. Vì vậy
chúng ta buộc phải lựa chọn con đường đi tắt đón đầu để rút ngắn thời gian.
Con đường CNH – HĐH gắn với KT tri thức chính là con đường phát triển
đúng.
• Nội dung của qtrinh CNH – HĐH gắn với KT tri thức:
Đhội X xác định chúng ta phải tranh thủ cơ hội thuận lợi về tình hình quốc tế,
về tiềm năng và lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH – HĐH theo
định hướng XHCN gắn với phát triển KT tri thức. Coi KT tri thức là yếu tố
quan trọng nhất của nền KT và qtrinh CNH đất nước:
• 1: phát triển mạnh các ngành có sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng
cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người
VN với tri thức mới nhất của nhân loại.
• 2: coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi

bước phát triển của đất nươc, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kte –
xhoi
• 3: xây dựng cơ cấu kte hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh
thổ
• 4: giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động, nhất là các
ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
Đhội X xác định phát triển 6 ngành và lĩnh vực chủ yếu:
• 1: Đẩy mạnh CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng
bộ các vấn đề nông nghiệp nông thôn
• 2: phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
• 3: phát triển kinh tế vùng làm cho cơ cấu kte vùng trở thành 1 trong
những cơ cấu cơ bản của nền KT quốc dân, trong đó có các vùng KT trọng
điểm đóng vai trò là động lực tạo ra sự lan tỏa ra vùng khác.
• 4: phát triển kinh tế biển: cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế
biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển, đbiệt đẩy nhanh CN đóng tàu biển.
• 5: Chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ: Lựa chọn 1 số
ngành công nghiệp then chốt. Chú trọng phát triển các ngành Cnghe cao để
tạo đột phá và Cnghe sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm.
• 6: Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường
tự nhiên để phát triển bền vững.
• Liên hệ hiện nay: Tự chém thôi ( không có tài liệu đâu )
OK.Câu 7: Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới:
• Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp:
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập
trung với những đặc điểm chủ yếu là:
• Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành
chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh
nghiệp
hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và

các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả các phương hướng sản xuất, nguồn
vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương…
đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chì tiêu kế hoạch,
cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho
nhà nước. Lỗ thì nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu.
• Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật
chất
đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định
không
đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp không

quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối
với kết quả sản xuất, kinh doanh.
• Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan
hệ hiện
vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao
nộp”
• Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều trung gian vừa kém năng
động vừa
sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
- Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư,
hàng hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá thị trường.
Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
- Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối
vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, công nhân theo định
mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tờ em tem, phờ iêu phiêu sắc
phiếu khác sha sho với rá thị chường đã biến chế độ tiền lương thành

lương iện ật, thủ tiêu động lực kích văn thích người lờ đờ và phá vỡ
nghin tắc phờ phờ theo lờ đờ.
- Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng không có chế
tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.
Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử
dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin – chế”.
Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này
có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế
vào các
mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá
trình
công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát công nghiệp nặng. Nhưng nó lại
thủ tiêu
cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh
tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các
đơn vị sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn
phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học – công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ
những khuyết điểm của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước
đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị
trường,
chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội
chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường
chỉ là công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế
sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế
quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và
kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín. Nền kinh tế rơi vào
tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
b. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế:

Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế -
xã hội, chúng ta đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo hướng thị
trường, tuy
nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để. Đó là khoán sản phẩm trong nông
nghiệp
theo chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào
lương ở
Long An; nghị quyết Trung ương 8 khóa V (1985) về giá – lương – tiền;
thực hiện
Nghị định 25 và Nghị định 26-CP của Chính phủ…Tuy vậy, đó là những căn
cứ
thực tế để Đảng đi đến quyết định thay đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định:
“Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo
được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc
sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm
năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và
đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.
OK.Câu 8=9 : Quan điểm xây dựng nền kinh tế thị trường và tác dụng
của việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đối với VN
1. Mục tiêu và quan điểm cơ bản
a. Thể chế kinh tế và thể chế KTTT
· Thể chế kinh tế : là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế
* Nội dung của thể chế kinh tế :
- Các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài về
kinh tế

- Các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế và cơ chế vận
hành nền kinh tế
· Thể chế KTTT : là một tổng thể bao gồm các quy tắc, luật lệ và hệ thống
các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh các hoạt động
giao dịch, trao đổi trên thị trường
* Nội dung của thể chế KTTT : Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên
thị trường
- Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được mục tiêu hay kết quả mong
muốn
- Các thị trường - nơi các hàng hóa được giao dịch, trao đổi
· Thể chế KTTT định hướng XHCN :
- Cách hiểu thứ nhất : là thể chế KTTT trong đó các thiết chế, công cụ và
nguyên tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử dụng để phát triển LLSX, cải
thiện đời sống nhân dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ và văn minh
- Cách hiểu thứ hai : thể chế KTTT định hướng XHCN là công cụ hướng
dẫn cho các chủ thể trong nền kinh tế vận động theo đuổi mục tiêu kinh tế xã
hội tối đa, chứ không đơn thuần là mục tiêu lợi nhuận tối đa
b. Mục tiêu hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN
· Mục tiêu cơ bản (dài hạn)
- Làm cho thể chế phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của thể chế KTTT,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế
quốc tế thành công, giữ vững định hướng XHCN, xây dựng và bảo vệ vững
chắc tổ quốc Việt Nam XHCN
- Mục tiêu này hoàn thành cơ bản vào năm 2020

×