Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Địa chất Và tài nguyên dầu khí Việt Nam - Chương 6 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 40 trang )

Chương

6

Địa tầng các
bể trầm tích
Kainozoi
Việt Nam


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam

Trầm tích Kainozoi phân bố rộng rãi trên thềm lục địa và đất liền Việt Nam. Phần lớn
chúng tập trung trong các bể trầm tích, có nơi dày trên 10.000 m. Nghiên cứu địa tầng trầm
tích Kainozoi trong thời gian qua gắn liền với quá trình tìm kiếm - thăm dò dầu khí và đã có
những kết quả đáng khích lệ.
Cho đến nay sau hơn nửa thế kỷ, công tác tìm kiếm - thăm dò dầu khí đã trải khắp trên các
bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam. Một khối lượng khổng lồ các tài liệu địa chất
- địa vật lý đã được thu thập. Hàng chục vạn km tuyến địa chấn đã được xử lý. Hàng trăm
giếng khoan đã có kết quả phân tích. Nhiều báo cáo về trầm tích, cổ sinh, carota và địa chấn
địa tầng cùng với hàng loạt các báo cáo tổng hợp của các cơ quan nghiên cứu, các công ty
trong và ngoài nước như Liên đoàn địa chất 36, Viện Dầu khí Việt Nam, Công ty TOTAL, BP,
SHELL, FINA, MOBIL, UNOCAL, VIETSOVPETRO, JVPC, IDEMITSU, PETRONAS..v.v...
Hầu hết các báo cáo đều đề cập đến khía cạnh địa tầng, song mức độ nghiên cứu của từng
báo cáo có nét khác nhau. Những kết quả đó đã được các tác giả Golovenok V.K - Lê Văn
Chân (1960 - 1970), Paluxtovich - Nguyễn Ngọc Cư (1971), Vũ Văn Nhi (1975) Sevostianov
(1977), Phạm Hồng Quế (1981), Nguyễn Giao (1982), Lê Văn Cự (1982), J. Moris (1993),
C. Sladen (1997) Ngô Thường San (1981, 1987), Lê Đình Thám (1992), Đỗ Bạt - Phan Huy
Quynh (1985, 1993, 2002)... nghiên cứu tổng hợp và trình bày trên các bảng 6.1, 6.2, 6.3,
6.4.
Đặc biệt kết quả nghiên cứu gần đây nhất đã được Đỗ Bạt, Phan Huy Quynh, Ngô Xuân


Vinh, Phan Giang Long và Nguyễn Quý Hùng tổng hợp vào năm 2002, được xem là tài liệu
địa tầng sử dụng phổ biến trong tìm kiếm thăm dò dầu khí các bể trầm tích Kainozoi thềm
lục địa và đất liền Việt Nam cả về phương pháp nghiên cứu và kết quả đạt được.
1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu địa tầng thực chất là phân

các trầm tích bị phủ, không trực tiếp quan

chia các đơn vị địa tầng và đối sánh chúng

sát được, các giếng khoan xa nhau, tỷ lệ

với nhau. Cơ sở để giải quyết nhiệm vụ này

mẫu lõi rất hạn chế v.v... nên để xây dựng

chủ yếu được dựa theo “Quy phạm về địa

cột địa tầng tổng hợp của từng giếng khoan,

tầng Việt Nam - 1994” và “Hướng dẫn địa

từng vùng, từng bể trầm tích và liên kết với

tầng quốc tế - 1993, 2000”.

khu vực phụ cận chúng tôi đã phối hợp sử

Do đặc điểm của vùng nghiên cứu là


dụng các phương pháp nghiên cứu thạch
139


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

địa tầng, sinh địa tầng, carota và địa chấn

hợp trong chuyên đề này sẽ cho bức tranh

địa tầng…, nhằm khắc phục điểm yếu và bổ

toàn cảnh địa tầng trầm tích Đệ Tam thềm

xung các thế mạnh cho nhau giữa phương

lục địa và đất liền Việt Nam.

pháp này và phương pháp khác trong

2. Địa tầng các bể trầm tích Đệ Tam

nghiên cứu địa tầng. Việc tổng hợp này sẽ
tuân theo các nguyên tắc chủ yếu sau:


2.1. Bể Sông Hồng

Các phân chia thạch địa tầng là đơn vị


a. Miền võng Hà Nội - Vịnh Bắc Bộ

cơ bản. Đặc điểm của chúng được xác

(BẮC BỂ SÔNG HỒNG)

định bằng các tài liệu trầm tích, cổ sinh

(Hình 6.1)

và carota.


PALEOGEN

Tuổi của các đơn vị địa tầng dựa theo

Eocen

tài liệu cổ sinh


Hệ tầng Phù Tiên (E2 pt)

Ranh giới của các đơn vị địa tầng thường
được xác định theo tài liệu carota, còn

Mặt cắt chuẩn được Phạm Hồng Quế

đặc trưng của các mặt bất chỉnh hợp,


mô tả tại GK.104 Phù Tiên-Hưng Yên từ

các đơn vị địa tầng thường dựa theo các

độ sâu 3.544 m đến 3.860 m và đặt tên là

tài liệu địa chấn.

Điệp Xuân Hoà (1981) bao gồm cát kết,

Liên kết địa tầng giữa các vùng dựa

sét bột kết màu nâu tím, màu xám xen các

theo tuổi trầm tích được xác định theo

lớp cuội kết có độ hạt rất khác nhau từ vài

tài liệu cổ sinh và theo dõi các tập địa

cm đến vài chục cm. Thành phần hạt cuội

chấn địa tầng mang tính khu vực.

thường là ryolit, thạch anh, đá phiến kết

Kết quả nghiên cứu địa tầng trầm tích

tinh và quarzit. Cát kết có thành phần đa


Đệ Tam của các nhà địa chất trong và

khoáng, độ mài tròn và chọn lọc kém, nhiều

ngoài nước trong thời gian qua được tổng

hạt thạch anh, calcit bị gặm mòn, xi măng



Hình 6.1. Địa tầng tổng hợp Bắc bể Sông Hồng

140


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam
Bảng 6.1. Khái quát phân chia địa tầng miền võng Hà Nội và Bắc bể Sông Hồng

calcit-sericit. Bột kết rắn chắc thường màu

móng trước Đệ Tam. Tuy nhiên, nó chỉ

tím chứa sericit và oxyt sắt. Trên cùng là

được theo dõi tốt ở vùng vịnh Bắc Bộ. Tập

lớp cuội kết hỗn tạp màu tím, màu đỏ xen

địa chấn này có các phản xạ biên độ cao,


các đá phiến sét với nhiều vết trượt láng

tần số thấp, độ liên tục từ trung bình đến

bóng. Bề dày của hệ tầng tại giếng khoan

kém ở miền võng Hà Nội và chuyển sang

này đạt 316 m. Năm 1982 trong các công

dạng phản xạ song song, độ liên tục tốt ở

trình nghiên cứu tổng hợp các tác giả Đỗ

vịnh Bắc Bộ.

Bạt, Phan Huy Quynh đã đổi thành Điệp

Tuổi Eocen của hệ tầng được xác

Phù Tiên, còn Lê Văn Cự (1982) đổi thành

định dựa theo các dạng bào tử phấn hoa,

hệ tầng Phù Tiên theo địa danh huyện Phù

đặc biệt là Trudopollis và Ephedripites.

Tiên (Hưng Yên), nơi giếng khoan 104 đã


Nguyễn Địch Dỹ (1981) và Phạm Quang

phát hiện ra hệ tầng. Ở ngoài khơi vịnh Bắc

Trung (1998) cho rằng chúng có tuổi Creta-

Bộ, hệ tầng Phù Tiên đã được phát hiện ở

Paleogen, có nhiều khả năng là Eocen. Tuy

GK. 107-PA-1X (3.050-3.535 m) với cuội

nhiên, dựa vào quan hệ nằm dưới các trầm

sạn kết có kích thước nhỏ, thành phần chủ

tích Oligocen (hệ tầng Đình Cao), nên xếp

yếu là các mảnh đá granit và đá biến chất

hệ tầng Phù Tiên vào Eocen. Hệ tầng được

xen với cát kết, sét kết màu xám, màu nâu

thành tạo trong môi trường sườn tích - sông

có các mặt trượt hoặc bị phân phiến mạnh.

hồ. Đó là các trầm tích lấp đầy các địa hào


Các đá kể trên bị biến đổi thứ sinh mạnh.

sụt lún nhanh, diện phân bố hẹp.
Oligocen

Bề dày hệ tầng ở đây khoảng 485 m.

Hệ tầng Đình Cao (E3 đc)

Trên các mặt cắt địa chấn, hệ tầng Phù
Tiên được thể hiện bằng tập địa chấn nằm

Hệ tầng mang tên xã Đình Cao (Phù

ngang phủ bất chỉnh hợp ngay trên mặt đá

Tiên-Hưng Yên), nơi đặt GK. 104 đã mở
141


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

ra mặt cắt chuẩn của hệ tầng. Tại đây, từ

tầng Đình Cao và Phù Tiên. Ở các giếng

độ sâu 2.396 đến 3.544 m, mặt cắt chủ yếu

khoan 203, 81, 204, 200, 106 các trầm tích


gồm cát kết màu xám sáng, xám sẫm đôi

bị vò nhàu và dốc đứng đến 800 với chiều

chỗ phớt tím, xen các lớp kẹp cuội kết dạng

giếng khoan.

ping, sạn kết chuyển lên các lớp bột kết,

Trong hệ tầng Đình Cao mới chỉ tìm

sét kết màu xám, xám đen, rắn chắc xen ít

thấy các vết in lá thực vật, bào tử phấn hoa,

lớp cuội sạn kết. Các đường cong đo địa vật

Diatomeae, Pediatrum và động vật nước

lý giếng khoan phân dị rõ với giá trị điện

ngọt.
Tuổi Oligocen của phức hệ nói trên dựa

trở suất cao. Bề dày của hệ tầng ở mặt cắt

theo: Cicatricosisporites dorogensis (LAD


này là 1.148 m.

trong Oligocen muộn), Lycopodiumsporites

Hệ tầng Đình Cao phát triển mạnh ở

(chỉ

trong

Oligocen),

Đông Quan, Thái Thụy, Tiền Hải và vịnh

neogenicus

Bắc Bộ, bao gồm cát kết xám sáng, sáng

Gothanopollis bassensis (chỉ có trong

xẫm, hạt nhỏ đến vừa, ít hạt thô, đôi khi

Oligocen muộn), Florschuetzia trilobata

gặp cuội kết, sạn kết có độ lựa trọn trung

(FAD trong Eocen/Oligocen).

bình đến tốt. Đá gắn kết chắc bằng xi măng


Hoá thạch động vật thân mềm nước ngọt

carbonat, sét và oxýt sắt. Cát kết đôi khi

Viviparus kích thước nhỏ. Tuy hóa thạch

chứa glauconit (GK.104-QN-1X, 107-PA-

này có khoảng phân bố địa tầng rất rộng

1X). Sét kết xám sáng, xám sẫm có các mặt

(Creta-Neogen), nhưng rất có ý nghóa trong

trượt láng bóng, đôi chỗ có các thấu kính

việc đánh dấu đối với trầm tích Oligocen

than hoặc các lớp kẹp mỏng sét vôi, chứa

miền võng Hà Nội, nên được dùng để nhận

hoá thạch động vật. Chiều dầy hệ tầng thay

biết hệ tầng Đình Cao là “Các lớp chứa

đổi từ 300-1.148m.

Viviparus nhỏ”.


Điều đáng lưu ý là các tập bột kết và

Hệ tầng Đình Cao thành tạo trong môi

sét kết màu xám đen phổ biến ở trũng

trường đầm hồ - aluvi. Hệ tầng nằm không

Đông Quan và vịnh Bắc Bộ chứa lượng vật

chỉnh hợp trên hệ tầng Phù Tiên.

chất hữu cơ ở mức độ trung bình (0,54%wt).

NEOGEN

Chúng được xem là đá mẹ sinh dầu ở bể

Miocen dưới
Hệ tầng Phong Châu (N11 pch)

Sông Hồng.
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Đình Cao

Năm 1972 Paluxtovich và Nguyễn

đặc trưng bằng các phản xạ mạnh, biên độ

Ngọc Cư đã mô tả mặt cắt trầm tích được


cao, độ liên tục trung bình, nằm xiên, gián

mở ra từ 1.820-3.000m ở giếng khoan 100

đoạn xâm thực thể hiện các trầm tích vụn

xã Phong Châu-Thái Bình và đặt tên là hệ

thô chân núi hay aluvi. Phần dưới của mặt

tầng Phong Châu, nơi giếng khoan đã được

cắt có các phản xạ không liên tục, biên độ

thi công. Mặt cắt trầm tích đặc trưng bằng

trung bình. Đặc biệt còn nhận thấy phần

sự xen kẽ liên tục giữa những lớp cát kết

đáy của tập được thể hiện bằng các mặt kề

hạt vừa, hạt nhỏ màu xám trắng, xám lục

áp, một pha, độ liên tục kém, biên độ cao.

nhạt gắn kết rắn chắc với những lớp cát bột

Đây chính là mặt bất chỉnh hợp giữa các hệ


kết phân lớp rất mỏng từ cỡ mm đến cm
142


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam

tạo thành các cấu tạo dạng mắt, thấu kính,

không chỉnh hợp trên hệ tầng Đình Cao và

gợn sóng và được gọi là các đá “dạng sọc”.

các đá cổ hơn.

Cát kết có xi măng chủ yếu là carbonat với

Miocen giữa

hàm lượng cao (25%). Khoáng vật phụ gồm

Hệ tầng Phù Cừ (N12 pc)

Hệ tầng Phù Cừ được Golovenok V.

nhiều glauconit và pyrit. Bề dày của hệ

K., Lê Văn Chân (1966) mô tả lần đầu tại

tầng tại giếng khoan này đạt tới 1.180 m.
Hệ tầng Phong Châu phân bố chủ yếu


GK. 2 (960 -1.180 m) trên cấu tạo Phù Cừ

trong dải Khoái Châu - Tiền Hải (GK. 100)

miền võng Hà Nội. Tuy nhiên, khi đó chưa

và phát triển ra vịnh Bắc Bộ (GK. 103-

gặp được phần đáy của hệ tầng và mặt cắt

TH) với sự xen kẽ giữa các lớp cát kết, cát

được mô tả bao gồm các trầm tích đặc trưng

bột kết và sét kết chứa dấu vết than hoặc

bằng tính chu kỳ rõ rệt với các lớp cát kết

những lớp kẹp đá vôi mỏng (GK. 103-TH,

hạt vừa, cát bột kết phân lớp mỏng (dạng

103-HOL). Cát kết màu xám đến xám sẫm,

sóng, thấu kính, phân lớp xiên), bột kết, sét

hạt nhỏ đến vừa, ít hạt thô, chọn lọc trung

kết cấu tạo khối chứa nhiều hóa thạch thực


bình đến tốt, xi măng carbonat, ít sét. Sét

vật, dấu vết động vật ăn bùn, trùng lỗ và

kết màu xám sáng đến xám sẫm và nâu

các vỉa than lignit. Cát kết có thành phần ít

đỏ nhạt, phân lớp song song, lượn sóng,

khoáng, độ lựa chọn và mài tròn tốt, khoáng

với thành phần chủ yếu là kaolinit và ilit.

vật phụ ngoài turmalin, zircon, đôi nơi gặp

Bề dày của hệ tầng thay đổi từ 400 đến

glauconit và granat là những khoáng vật

1400m.

không thấy trong hệ tầng Phong Châu.

Trên các mặt cắt địa chấn, hệ tầng

Sau này, Phan Huy Quynh, Đỗ Bạt

Phong Châu được thể hiện bằng các tập


(1983) và Lê Văn Cự (1985) khi xem xét

phản xạ song song, độ liên tục tốt, với thế

lại toàn bộ các mặt cắt của hệ tầng Phù Cừ

nằm biển tiến trên các khối nâng ở ngoài

tại các giếng khoan sâu xuyên qua toàn bộ

khơi vịnh Bắc Bộ. Ở miền võng Hà Nội,

hệ tầng (GK. 100, 101, 102, 204) và quan

các phản xạ có biên độ cao, gồm 1-2 pha

hệ của chúng với hệ tầng Phong Châu nằm

phản xạ mạnh có thể liên quan đến các lớp

dưới, theo quan điểm về nhịp và chu kỳ

sét than.

trầm tích đã chia hệ tầng Phù Cừ thành 3

Trên cơ sở phân tích các dạng hóa

phần, mỗi phần là một nhịp trầm tích bao


thạch bào tử phấn hoa thu thập được Phan

gồm cát kết, bột kết, sét kết có chứa than

Huy Quynh, Đỗ Bạt (1985, 1993, 1995) đã

và hóa thạch thực vật. Một vài nơi gặp

xác lập được phức hệ Betula-Alnipollenites

trùng lỗ và thân mềm nước lợ.
Hệ tầng Phù Cừ phát triển rộng khắp

và đới Florschuetzia levipoli tuổi Miocen

ở miền võng Hà Nội, có bề dày mỏng ở

sớm.
Hệ tầng Phong Châu được thành tạo

vùng Đông Quan và phát triển mạnh ở vịnh

trong môi trường đồng bằng châu thổ (GK.

Bắc Bộ với thành phần trầm tích gồm cát

104) có xen nhiều pha biển (GK. 100) với

kết, sét bột kết, than và đôi nơi gặp các


các trầm tích biển tăng lên rõ rệt từ miền

lớp mỏng carbonat. Cát kết có màu xám

võng Hà Nội ra vịnh Bắc Bộ. Hệ tầng nằm

sáng đến xám lục nhạt, thường hạt nhỏ đến
143


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

Hệ tầng Tiên Hưng (N13 th)

vừa, đôi khi hạt thô (GK.104-QN), chọn lọc
trung bình đến tốt, phổ biến cấu tạo phân

Hệ tầng Tiên Hưng được Golovenok

lớp mỏng, thấu kính, lượn sóng, đôi khi

V. K., Lê Văn Chân (1966) đặt theo tên

dạng khối chứa nhiều kết hạch siderit, đôi

địa phương, nơi mặt cắt chuẩn của hệ tầng

nơi có glauconit (các GK. 100, 102, 110,


được mở ra từ 250-1.010m ở giếng khoan

104, 204, 107-PA ). Cát kết có xi măng gắn

4 Tiên Hưng-Thái Bình, bao gồm các trầm

kết nhiều carbonat, ít sét. Sét bột kết xám

tích có tính phân nhịp rõ ràng với các nhịp

sáng đến xám sẫm, chứa rất ít carbonat, ít

bắt đầu bằng sạn kết, cát kết chuyển lên

vụn thực vật và than (GK. 103-TH) có ít lớp

bột kết, sét kết, sét than và nhiều vỉa than

đá carbonat mỏng (GK. 103-TH, 107-PA).

lignit, với bề dày phần thô thường lớn hơn

Bề dày chung của hệ tầng thay đổi từ 1.500

phần mịn. Số lượng nhịp thấy được trong

đến 2.000 m

hệ tầng lên tới 15-18 nhịp. Cát kết, sạn


Điều đáng lưu ý là sét kết của hệ tầng

kết thường gắn kết yếu hoặc chưa gắn kết,

thường có tổng hàm lượng vật chất hữu cơ

chứa nhiều granat, các hạt có độ lựa chọn

bằng 0,86%wt, đạt tiêu chuẩn của đá mẹ

và mài tròn kém. Trong phần dưới của hệ

sinh dầu và thực tế đã có phát hiện dầu và

tầng, các lớp thường bị nén chặt hơn và gặp

condensat trong hệ tầng Phù Cừ ở miền

cát kết xám trắng chứa kết hạch siderit, xi

võng Hà Nội

măng carbonat. Bề dày của hệ tầng trong

Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Phù Cừ

giếng khoan này là 760 m.

được thể hiện bằng các pha sóng phản xạ


Thực tế việc xác định ranh giới giữa hệ

có dạng song song hay hỗn độn, biên độ

tầng Tiên Hưng và hệ tầng Phù Cừ nằm

lớn, tần số cao, thường liên quan đến các

dưới thường gặp nhiều khó khăn do có sự

tập chứa than. Ranh giới của hệ tầng với

thay đổi tướng đá như đã nêu trên. Phan

hệ tầng Phong Châu nằm dưới có đặc trưng

Huy Quynh, Đỗ Bạt (1985) đã phát hiện ở

sóng gồm 1 đến 2 pha phản xạ mạnh, biên

phần dưới của hệ tầng một tập cát kết rất

độ cao, độ liên tục tốt.

rắn chắc màu xám chứa các vết in lá thực

Tuổi Miocen giữa của các phức hệ hoá

vật phân bố tương đối rộng trong các giếng


thạch được xác định theo Florschuetzia

khoan ở miền võng Hà Nội, đã coi đây là

trilobata với Fl. semilobata và theo

dấu hiệu chuyển sang giai đoạn trầm tích

Globorotalia mayeri, theo Orbulina universa

lục địa sau hệ tầng Phù Cừ và đáy của tập

(N9)

cát kết này có thể coi là ranh giới dưới của

Hệ tầng Phù Cừ được hình thành trong

hệ tầng Tiên Hưng.

môi trường đồng bằng châu thổ có xen các

Hệ tầng Tiên Hưng có mặt trong hầu

pha biển chuyển dần sang châu thổ, châu

hết các giếng khoan ở miền võng Hà Nội

thổ ngập nước - tiền châu thổ, theo hướng


và ngoài khơi vịnh Bắc Bộ với thành phần

tăng dần ra vịnh Bắc Bộ.

chủ yếu là cát kết, ở phần trên thường là

Hệ tầng Phù Cừ nằm chỉnh hợp trên hệ

cát kết hạt thô và sạn sỏi kết, sét kết, bột

tầng Phong Châu.

kết, xen các vỉa than lignit. Mức độ chứa

Miocen trên

than giảm đi rõ rệt do trầm tích tam giác
144


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam

châu ngập nước, với tính biển tăng theo

Hưng chủ yếu là đồng bằng châu thổ, xen

hướng tiến ra vịnh Bắc Bộ. Các lớp cát

những pha biển ven bờ (trũng Đông Quan)


kết phân lớp dày đến dạng khối, màu xám

và tam giác châu ngập nước phát triển theo

nhạt, mờ đục hoặc xám xanh, hạt nhỏ đến

hướng đi ra vịnh Bắc Bộ.

thô, độ chọn lọc trung bình đến kém, chứa

Pliocen

hoá thạch động vật và vụn than, gắn kết

Hệ tầng Vónh Bảo (N2 vb)

trung bình đến kém bằng xi măng carbonat

Nằm bất chỉnh hợp trên trầm tích

và sét. Sét bột kết màu xám lục nhạt, xám

Miocen, hệ tầng Vónh Bảo đánh dấu giai

sáng có chỗ xám nâu, xám đen (GK.104,

đoạn phát triển cuối cùng của trầm tích Đệ

102-HD) chứa vụn than và các hóa thạch,


Tam trong miền võng Hà Nội - vịnh Bắc

đôi khi có glauconit, pyrit (GK.100, 103-

Bộ thuộc bể Sông Hồng. Tại mặt cắt trong

TH). Bề dày của hệ tầng thay đổi trong

GK.3 ở Vónh Bảo, Hải Phòng từ 240-510m,

khoảng 760-3.000 m.

có thể chia hệ tầng Vónh Bảo làm 2 phần:

Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Tiên

phần dưới chủ yếu là cát, hạt mịn màu

Hưng được biểu hiện bằng tập địa chấn có

xám, vàng chanh, phân lớp dày, có độ lựa

độ phân lớp kém và phản xạ yếu, trục đồng

chọn tốt, đôi nơi có những thấu kính hay

pha ngắn, biên độ cao, uốn nếp và có nhiều

lớp kẹp cuội, sạn hạt nhỏ xen kẽ; phần trên


lớp có biểu hiện của than. Hệ tầng Tiên

có thành phần bột tăng dần. Bề dày chung

Hưng tiếp xúc với hệ tầng Phù Cừ nằm

của hệ tầng tại giếng khoan này đạt khoảng

dưới bằng mặt bất chỉnh hợp có dấu hiệu

270 m. Trong đá gặp nhiều hóa thạch động

biển lùi ở đới nâng cao, với 2 pha phản xạ

vật biển như thân mềm, san hô, trùng lỗ.
Hệ tầng Vónh Bảo đã được phát hiện

mạnh không liên tục.
Hoá thạch tìm thấy trong hệ tầng Tiên

trong tất cả các giếng khoan; từ GK.3 (ven

Hưng gồm các vết in lá cổ thực vật, bào tử

biển) tiến vào đất liền tính lục địa của trầm

phấn hoa, trùng lỗ và Nannoplankton, đặc

tích tăng lên, và hệ tầng mang đặc điểm


biệt có một phức hệ đặc trưng gồm Quercus

châu thổ chứa than (GK.2, Phù Cừ). Ngược

lobbii, Ziziphus thấy trong một lớp cát kết

lại, tiến ra phía biển trầm tích mang tính

hạt vừa dày khoảng 10 m, gặp trong phần

thềm lục địa rõ: cát bở rời xám sáng đến

lớn các giếng khoan lấy mẫu ở miền võng

xám sẫm, hạt nhỏ đến vừa, đôi khi thô đến

Hà Nội. Lớp cát kết này còn thấy ở nhiều

rất thô, chọn lọc trung bình đến tốt xen với

nơi trên miền Bắc Việt Nam như Tầm Chả

sét màu xám, xám xanh, mềm, chứa mica,

(Na Dương, Lạng Sơn), Bạch Long Vó,

nhiều pyrit, glauconit và phong phú các

Trịnh Quận (Phú Thọ).


mảnh vỏ động vật biển, thấy ở tất cả các

Tuổi Miocen muộn của hệ tầng được xác

giếng khoan (GK.104-QN, 103-TH, 107-

định theo phức hệ bào tử phấn Dacrydium

PA). Hệ tầng Vónh Bảo có chiều dày từ 200

– Ilex – Quercus – Florschuetzia trilobata

đến 500 m và tăng dần ra biển.
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng được

– Acrostichum và Stenochlaena, cũng như

thể hiện bằng các phản xạ song song hoặc

phức hệ trùng lỗ Pseudorotalia-Ammonia.

gần song song, nằm ngang, tần số cao, biên

Môi trường trầm tích của hệ tầng Tiên
145


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

Hệ tầng Bạch Tró (E3 bt)


độ trung bình, độ liên tục tốt. Ở phần đáy
của hệ tầng, nơi tiếp xúc với hệ tầng Tiên

Các trầm tích lục nguyên phủ trên

Hưng, thấy mặt bất chỉnh hợp rõ từ các mặt

móng trước Đệ Tam và nằm lót đáy trũng

gián đoạn bào mòn ở miền võng Hà Nội

Huế và địa hào Quảng Ngãi đã được một

đến các dạng biển tiến ở phần trung tâm

số tác giả gọi là loạt Huế (J. Moris, 1993;

vịnh Bắc Bộ.

E. Lamers, 1993) hay Loạt Đà Nẵng (Đỗ

Tuổi của hệ tầng được xác định là
Pliocen

dựa

được Nguyễn Ngọc sử dụng để đặt tên cho

bulloides


trầm tích Đệ Tứ (1983). Do vậy mặt cắt đặc

(N5-N20), Globigerina nepenthes (N14-

trưng của hệ tầng mở ra tại giếng khoan

N19), Globigerinoides ruber (N18-N23),

Bạch Tró (GK.112-BT) nơi Lê Đình Thám

Globigerinoides conglobatus (N18-N23),

đã mô tả, được Đỗ Bạt đặt tên là Hệ tầng

theo

trong

trùng

khoảng

lỗ

N18-N20

Bạt, 1993). Tuy nhiên trước đó tên Huế đã

Globigerina


và phức hệ bào tử phấn hoa Liquidambar-

Bạch Tró (2001). Tại đây, từ độ sâu 3.667m

Dacrydium với sự có mặt của Florschuetzia

đến 3.936 m hệ tầng phủ không chỉnh hợp

levipoli, Fl. Meridionalis.

trên đá dolomit tuổi Đevon. Mặt cắt gồm

Hệ tầng Vónh Bảo chủ yếu hình thành

chủ yếu là sét bột kết xen các tập cát kết

trong môi trường thềm biển, riêng khu vực

hạt nhỏ đến vừa màu xám, xám nâu và ít

rìa TB và TN của miền võng Hà Nội trầm

lớp kẹp mỏng than. Đá sét rất rắn chắc,

tích tích tụ trong điều kiện đồng bằng châu

phân lớp mỏng đến trung bình màu xám,

thổ có ảnh hưởng của biển.


xám sẫm, chứa các mảnh vụn than hoặc

b. Trũng Huế - Địa hào Quảng Ngãi

vật chất hữu cơ. Cát kết hạt nhỏ đến trung

(NAM BỂ SÔNG HỒNG)

bình, bán góc cạnh đến bán tròn cạnh, chọn

(Hình 6.2)

lọc trung bình đến tốt, màu xám sáng, xám

PALEOGEN

nâu nhạt gắn kết rắn chắc bằng xi măng

Oligocen

sét, carbonat. Bề dày chung của hệ tầng là

Hình 6.2. Địa tầng tổng hợp Nam bể Sông Hồng

146


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam
Bảng 6.2. Khái quát phân chia địa tầng Nam bể Sông Hồng


269 m. Đây là trầm tích được thành tạo

trung bình còn ở địa luỹ Tri Tôn, trầm tích

trong môi trường aluvi, đầm hồ và đồng

này rất mỏng, chủ yếu tồn tại ở một vài

bằng châu thổ.

lõm địa phương nhỏ, đặc trưng bởi các phản

Phát triển xuống phía Nam, ở lô 114

xạ hỗn độn, tần số thấp liên quan chủ yếu

(GK.114-KT) hệ tầng có thành phần cát kết

đến tính lục địa của trầm tích. Đáng lưu ý

nhiều hơn và xen các lớp sét kết. Chuyển

tại khu vực khoan 114-KT mặc dù đã phát

sang địa hào Quảng Ngãi, tại các lô 118 và

hiện thấy các hoá thạch định tuổi trầm tích

119 gặp những lớp đá lục nguyên tương đối


là Oligocen, nhưng trên mặt cắt địa chấn

dày (>200 m) chủ yếu gồm cát kết hạt vừa,

không thể hiện đặc điểm và rất khó liên hệ

thô, đến rất thô hoặc đôi khi gặp sạn và

vào các trầm tích tuổi này. Đây là vấn đề

cuội kết, xen ít lớp sét bột kết và những vỉa

cần phải nghiên cứu chi tiết hơn.

than (GK.118-CVX). Trong cát kết, hạt vụn

Tuổi Oligocen của hệ tầng này được

thường bán góc cạnh đến bán tròn cạnh, độ

xác định theo sự xuất hiện cuối cùng

lựa chọn và mài tròn kém đến trung bình,

(LAD) của Cicatricosisporites dorogensis,

gắn kết chắc bằng xi măng sét-carbonat.

Lycopodiumsporites


Bề dày của hệ tầng thay đổi trong khoảng

Verrutricolporites

100-300 m. Các trầm tích này hình thành

Gothanipolis và theo sự xuất hiện đầu tiên

trong điều kiện nón bồi tích, đồng bằng tam

(FAD) của Florschuetzia trilobata

neogenicus,
pachydermus,

NEOGEN

giác châu ven biển ảnh hưởng của các dòng

Miocen dưới

chảy.

Hệ tầng Sông Hương (N11 sh)

Theo tài liệu địa chấn, hệ tầng Bạch Tró
tương ứng với tập địa chấn gồm các phản

Hệ tầng Sông Hương được Lê Đình


xạ không liên tục, biên độ cao, tần số thấp

Thám mô tả và đặt tên cho các trầm tích

đến trung bình ở phần dưới chuyển lên trên

lục nguyên tuổi Miocen phát triển trong

phản xạ khá liên tục, biên độ cao, tần số

trũng Huế - địa hào Quảng Ngãi. Tuy nhieân
147


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

những nghiên cứu tổng hợp về sau đã dựa

howardii, Crassoretitriletes nanhaiensis,

vào đặc điểm trầm tích để giới hạn khối

các đới trùng lỗ N5-N8 với Praeorbulina,

lượng của hệ tầng chỉ gồm các trầm tích lục

Catapxydrax và các đới Nannoplankton

nguyên, đá vôi và dolomit hình thành trong


NN2-NN4

Miocen sớm.

Helicosphaera ampliaperta, cùng với các

Hệ tầng phân bố khá rộng rãi trong

với

Discoaster

druggii,

dạng Dinoflagellata: Cribroperidinium, và

trũng Huế và địa hào Quảng Ngãi. Theo

Apteodinium.

tài liệu khoan ở mặt cắt chuẩn (GK.112-

Môi trường trầm tích của hệ tầng Sông

BT) tại trũng Huế, hệ tầng chủ yếu gồm

Hương chủ yếu thuộc vùng đồng bằng ven

sét bột kết màu xám, xám sáng, xám nâu


biển và thềm biển.

rắn chắc chứa vôi, vụn than và đôi khi vỏ

Miocen giữa

trùng lỗ, xen các lớp cát kết rất mỏng, màu

Hệ tầng Tri Tôn (N12 tt)

xám sáng; đặc biệt thỉnh thoảng có xen kẽ

Tầng đá vôi phân bố trên địa luỹ Tri

các lớp kẹp đá vôi, nhất là ở phần trên của

Tôn đã được một số tác giả mô tả là loạt

mặt cắt (trong khoảng 2.437-2.925 m) với

Tri Tôn (part.): J.Moris (1993), loạt Đà

bề dày đạt tới 25 m. Về phía Nam các trầm

Nẵng (part.): BP (1991) hay hệ tầng Đà

tích lục nguyên xen đá vôi tương tự cũng

Nẵng (part.): C.Sladen, Hoàng Ngọc Đang


thấy phát triển trong địa hào Quảng Ngãi.

(1997) và Phan Trung Điền, (2000), nhưng

Còn trên địa luỹ Tri Tôn, hệ tầng lại chủ

địa danh này đã được Saurin (1952) sử dụng

yếu là đá vôi và dolomit (GK.118-CVX,

để mô tả hệ tầng cát vàng tuổi Pleistocen

119-CH); đá có màu xám nhạt, xám xanh

phổ biến ở miền duyên hải Trung Trung Bộ,

và rắn chắc; chúng thường liên quan đến

do đó chúng tôi chọn tên đới nâng Tri Tôn

các trầm tích thềm biển, nhưng rất ít di tích

để đặt tên lại hệ tầng này. Mặt cắt chuẩn

sinh vật, tỷ lệ dolomit tăng dần theo chiều

được chọn ở giếng khoan 119-CH từ độ sâu

sâu.


1.454-2.165 m, bao gồm thuần đá vôi màu

Bề dày của hệ tầng Sông Hương theo

xám sáng, vàng, xám nâu, xám sẫm chứa

tài liệu khoan thay đổi từ 100 đến 1.230 m,

rong tảo, trùng lỗ kích thước lớn và san hô.

còn theo tài liệu địa chấn có thể dày hơn.

Đá có kiến trúc từ hạt vi tinh, hạt nhỏ đến

Tập địa chấn tương ứng với hệ tầng Sông

ẩn tinh, ít nơi tái kết tinh; cấu trúc thường

Hương gồm các lớp phản xạ khá đều, song

dạng khối, ít phân lớp, với đặc tính độ rỗng

độ liên tục giảm, đôi chỗ có phản xạ mang

và độ thấm rất tốt. Chúng có độ cứng trung

đặc trưng của trầm tích đồng bằng ven biển

bình, đôi chỗ rắn chắc. Bề dày của hệ tầng


xen các vỉa than?, còn các phản xạ liên

ở giếng khoan này là 711 m.

quan đến đá vôi và dolomit thường không

Phát triển xuống trũng Huế và địa hào

liên tục và trắng. Hệ tầng nằm không chỉnh

Quảng Ngãi, hệ tầng Tri Tôn chuyển sang

hợp trên hệ tầng Bạch Tró.

trầm tích lục nguyên, trong đó sét bột kết
tầng

chiếm ưu thế, xen ít cát kết. Chúng có màu

được xác định theo sự phong phú của

xám, xám sáng, chứa vôi, gắn kết trung

Echiperiporites

bình đến cứng. Bề dày của hệ tầng thay đổi

Tuổi


Miocen

sớm

estelae,

của

hệ

Magnastriatites
148


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam

trong khoảng 300-1.000 m. Các trầm tích

khối. Bột kết màu xám, xám sẫm, nâu,

trên thuộc tướng biển nông, ven bờ.

phân lớp dày đến dạng khối, xi măng là sét

Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng được

và carbonat. Cát kết màu xám trắng, xám

đặc trưng bằng sóng địa chấn phản xạ song


nâu, hạt thường mịn, bán tròn cạnh, độ lựa

song, biên độ cao đối với các tập đá vôi ở

chọn từ vừa đến tốt. Thành phần hạt chủ

địa luỹ Tri Tôn, còn ở trũng Huế và địa hào

yếu là thạch anh, xi măng là sét, carbonat.

Quảng Ngãi thường thấy sóng có biên độ

Đá vôi ở các lớp kẹp mỏng màu xám sáng,

lớn, tần số cao thể hiện các đá lục nguyên.

xám vàng, cứng vừa đến chắc, dạng khối,

Tín hiệu địa chấn thay đổi từ Tây sang

có chỗ dày 0,5-2 m (GK.120-CS) chứa sét

Đông, liên quan đến trầm tích môi trường

bột và phong phú động vật biển. Bề dày

thềm và sườn thềm khá rõ.

của hệ tầng ở giếng khoan này là 664m.


Hệ tầng Tri Tôn nằm chỉnh hợp trên

Hệ tầng Quảng Ngãi phát triển tương

hệ tầng Sông Hương. Các trầm tích của hệ

đối đều khắp toàn vùng trũng, có chiều dày

tầng được thành tạo trong môi trường biển

thay đổi trong khoảng 500-800 m.

nông, thềm biển và đồng bằng ven biển.

Trên mặt cắt địa chấn, đây là tập địa

Hệ tầng được xếp vào Miocen giữa dựa

chấn có các phản xạ song song, độ liên tục

vào hoá thạch cổ sinh. Đáng lưu ý là các

tốt, biên độ trung bình đến lớn, tần số cao.

phức hệ cổ sinh trong khu vực có sự khác

Môi trường thành tạo của hệ tầng thay đổi

biệt: phức hệ Miogypsina-Lepidocyclina,


từ đồng bằng châu thổ đến biển ven bờ,

Orbulina universa với các tảo không xác

biển sâu. Quan hệ với hệ tầng Tri Tôn được

định chỉ tìm thấy trong đá vôi ở các giếng

thể hiện là mặt bất chỉnh hợp biển tiến với

khoan trên lô 118-121, trong khi bào tử

hai pha phản xạ mạnh không liên tục và có

phấn hoa và Nannoplankton tìm thấy trong

gián đoạn bào mòn ở gần các đứt gãy lớn.

trầm tích lục nguyên ở trũng Huế và địa

Sự phong phú của Dacrydium và FAD

hào Quảng Ngãi.

của Stenochlaena laurifolia cùng với

Trong đá vôi thuộc các lô 118, 119 đã

LAD của Fl. trilobata giúp xác định tuổi


phát hiện được các vỉa khí có hàm lượng

Miocen muộn. Thêm vào đó, các Foram

khí CO2 cao.

và các Nannoplankton thuộc các đới tuổi
Miocen trên

Miocen muộn cũng đã được xác định theo

Hệ tầng Quảng Ngãi (N1 qn)

Discoaster quinqueramus (NN10-NN11)

3

Mặt cắt chuẩn của hệ tầng Quảng Ngãi

Hệ tầng Quảng Ngãi thành tạo trong

được Lê Đình Thám mô tả trên cơ sở tài

môi trường đồng bằng ven biển, biển nông,

liệu GK. 119-CH nằm ngay ven rìa địa hào

thềm lục địa và biển sâu.

Quảng Ngãi, từ độ sâu 790 m đến 1.454 m.


Pliocen

Tại đây, hệ tầng bao gồm chủ yếu là sét kết

Hệ tầng Biển Đông (N2 bđ)

xen kẽ các lớp mỏng bột kết, cát kết và ít

Tên Biển Đông đặt cho hệ tầng này dựa

đá vôi, chứa vật chất than, pyrit, glauconit.

vào sự liên kết các trầm tích phát triển trên

Sét kết màu từ xám sáng đến xám sẫm, độ

toàn bộ thềm lục địa Việt Nam ở Biển Đông

cứng trung bình, đôi chỗ rắn chắc, dạng

trong Pliocen được Lê Văn Cự phát hiện và
149


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

mô tả đầu tiên (1982) ở các bể Cửu Long
và Nam Côn Sơn là “điệp” Biển Đông.
Khu vực Nam bể Sông Hồng mặt cắt đặc

trưng cho hệ tầng được chọn tại GK. 114KT từ độ sâu 759 đến 1.084 m. Hệ tầng có
thành phần chủ yếu là sét, bột kết xám, ít
sét vôi màu xám sáng đến xám đỏ, mềm bở
và cát bở rời, màu xám đến xám sẫm, hạt
mịn đến trung bình, độ lựa chọn trung bình,
bán sắc cạnh đến tròn cạnh, thành phần hạt
chủ yếu là thạch anh, chứa các ổ vôi. Trong
sét kết và cát có nhiều vỏ hoá thạch trùng
lỗ, thân mềm, rêu động vật, vv… Bề dày
của hệ tầng ở giếng khoan này đạt 325 m.
Hệ tầng Biển Đông phủ kín toàn khu
vực Nam bể Sông Hồng. Nhìn chung, mặt
cắt ở các nơi có nét tương tự với mặt cắt đặc
trưng của hệ tầng mô tả bên trên, thể hiện
một giai đoạn phát triển trầm tích giống
nhau trong khu vực này.
Mặt cắt địa chấn của hệ tầng dễ dàng
liên hệ với khu vực phía Bắc (vịnh Bắc Bộ)
và phía Nam (các bể Phú Khánh, Cửu Long,
Nam Côn Sơn). Đó là các tập phản xạ song

song hoặc gần song song, nằm ngang, biên
độ lớn, độ liên tục tốt, liên quan đến các
trầm tích sét, bột của vùng biển nông đến
biển sâu. Ở đáy của tập này thấy rõ mặt
gián đoạn bào mòn và thế nằm dạng biển
tiến liên quan đến mặt bất chỉnh hợp giữa
các hệ tầng Biển Đông và Quảng Ngãi.
Tuổi của trầm tích được xác định theo
hoá thạch bào tử phấn hoa thuộc phức hệ

Dacrydium- Florschuetzia meridionalis và
hoá thạch trùng lỗ khá phong phú và gồm
các loài của Pseudorotalia, Asterorotalia,
Gobigerinoides.
ruber
(N18-N23),
Gl. obliquus (N17-N21), Globorotalia
margaritae (N18-N20) cũng như hoá thạnh
Nannoplankton Ceratholithus rugosus,
Cyclococcolithus formosus, Discoaster
argutus, Discoaster broweri, Calcidiscus
macintyrei, Reticulofenestra pseudoumbilica
thuộc các đới NN12-NN15 tuổi Pliocen.
Môi trường trầm tích của hệ tầng Biển
Đông ở khu vực này thuộc tướng biển nông
đến sâu, liên quan đến sự phát triển của
thềm lục địa Biển Đông.

Hình 6.3. Địa tầng tổng hợp bể Tư chính - Vũng Mây

150


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam

Hệ tầng Phúc Tần (N13 pht)

2.3. Bể Tư Chính Vũng Mây

Bao gồm đá vôi ám tiêu, và dạng nền


Tư Chính - Vũng Mây là bể trầm tích

màu trắng có nhiều hang hốc phát triển,

nước sâu mới được nghiên cứu sơ bộ trên

v..v.. cát bột sét chứa các bào tử phấn

cơ sở tài liệu địa chấn khu vực- Hiện vị trí

Florschuetzia meridionalis Antocerisporites,

của bể trong cấu trúc chung còn nhiều vấn



đề chưa rõ. Trong khu vực có duy nhất một

các

Foram

lớn

Lepidocyclina,

Miogypsina.

giếng khoan ( PV-94) ở đới cao Tư Chính.


Pliocen

Trên cơ sở tài liệu giếng khoan này Đỗ Bạt

Hệ tầng Biển Đông (N2 bđ)

và Ngô Xuân Vinh (2000) đã nghiên cứu

Hệ tầng Biển Đông bao gồm cát bột sét

và xây dựng cột địa tầng tổng hợp của bể

bở rời, đá vôi ám tiêu san hô, đá vôi sinh

như sau (Hình 6.3):

vật dạng khối màu trắng chứa phong phú

Móng trước Đệ Tam là các đá ryolit,

các vụn sinh vật, san hô tảo trùng lỗ...

andesit và đá bị biến đổi và nứt nẻ mạnh.
PALEOGEN

2.3. Bể Cửu Long

Hệ tầng Vũng Mây (E3?)


(Hình 6.4)

Trầm tích hệ tầng Vũng Mây (E3?) gồm

PALEOGEN

các đá lục nguyên cát kết, sét kết rắn chắc

Eocen

có các mảnh vụn than phủ bất chỉnh hợp

Hệ tầng Cà Cối (E2 cc)

trên móng trước Đệ Tam.

Mặt cắt chuẩn của hệ tầng Cà Cối được

NEOGEN

xác lập tại giếng khoan Cửu Long 1, xã Cà

Miocen dưới

Cối, Huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh ở đồng

Trầm tích Miocen dưới: Do mặt cắt của

bằng Nam Bộ trong khoảng độ sâu 1.220-


giếng khoan nằm ở đới cao Tư Chính nên

2.100m (Nguyễn Giao 1982).

chưa gặp được các trầm tích cụ thể. Chúng

Hệ tầng chủ yếu gồm các đá vụn thô

chỉ được dự báo theo tài liệu địa chấn có

màu xám trắng, nâu đỏ, đỏ tím, như cuội

tồn tại ở các trũng sâu, địa hào hẹp và được

kết, sạn kết, cát kết hạt vừa và thô đến

đặc trưng bằng các tập cát - sét xen kẽ hình

rất thô chứa cuội sạn và ít lớp sét kết. Các

thành trong điều kiện đồng bằng châu thổ

trầm tích này nằm bất chỉnh hợp trên móng

hoặc biển ven bờ.

là đá phun trào (andesit và tuf andesit) có

Miocen giữa


tuổi trước Kainozoi.

Hệ tầng Tư Chính (N12 tc)

Phần dưới của hệ tầng Tư Chính chủ

Cuội kết, sạn kết và cát kết thường có

yếu là các trầm tích lục nguyên cuội, cát,

cấu tạo dạng khối hoặc phân lớp rất dày,

bột, sét kết và các lớp than chuyển lên

độ lựa chọn kém. Thành phần chính của

phần trên là đá vôi ám tiêu và dạng nền

cuội và sạn là các đá phun trào (andesit, tuf

màu trắng trắng xám chứa Florschuetzia

andesit, dacit, ryolit), đá biến chất (quarzit,

trilobata, F. meridionalis và các Foram lớn

đá phiến mica), đá vôi và ít mảnh granitoid.

Lepidocyclina, Miogypsina.


Đây là các trầm tích thành tạo trong môi

Miocen trên

trường lục ñòa (deluvi, proluvi, aluvi..) trong
151


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

Hình 6.4. Địa tầng tổng hợp bể Cửu Long

điều kiện năng lượng cao của thời kỳ đầu

nằm dưới nó. Theo tài liệu địa chấn, hệ

sụt lún, tách giãn hình thành các địa hào,

tầng Cà Cối phủ bất chỉnh hợp trên các

do vậy diện phân bố của chúng chắc chắn

thành tạo trước Đệ Tam. Bề dày hệ tầng

chỉ giới hạn ở sườn của một số hố sụt sâu

ở vùng cửa Sông Hậu khoảng 1.000 m, ở

của bể Cửu Long. Bề dày của hệ tầng tại


trung tâm của bể có thể dày hơn. Hệ tầng

giếng khoan Cửu Long là 880 m.

chỉ phân bố hạn chế trong các lõm sụt sâu

Nhìn chung mặt cắt địa chấn từ đất liền

nên ở các giếng khoan ít khi bắt gặp. Các di

ra phía Đông của bể gồm 2 phần: phần trên

tích cổ sinh nghèo nàn, chỉ có bào tử phấn,

có phản xạ hỗn độn hoặc dạng vòm, biên

tạo thành phức hệ Trudopollis - Plicapollis.

độ cao, tần số thấp, độ liên tục kém đến

Hiện phức hệ này mới tìm thấy ở khoan

tốt; phần dưới phản xạ không phân dị, lộn

Cửu Long 1 (trong khoảng 1.255-2.100

xộn, biên độ cao, tần số thấp, độ liên tục

m), gồm Cicatricosisporites, đặc biệt có


kém, trầm tích aluvi - đầm hồ.

Trudopollis và Plicapollis là những dạng

Tại một số nơi, như ở cấu tạo Sói cũng

định tuổi Eocen cho trầm tích chứa chúng.

phát hiện một tập cuội kết, sạn kết và cát

Oligocen dưới

kết hạt thô dạng khối dày tới 339 m phủ bất

Hệ tầng Trà Cú (E31 tc)

chỉnh hợp trực tiếp trên đá móng granitoid

Hệ tầng Trà Cú được xác lập tại giếng

tuổi Jura. Cuội sạn kết có độ lựa chọn và

khoan CL-1 thuộc xã Cà Cối, huyện Trà

mài tròn kém, tuy nhiên chúng có độ gắn

Cú, tỉnh Trà Vinh (Nguyễn Giao 1982; Lê

kết tốt hơn do nằm ở độ sâu lớn hơn và


Văn Cự 1982). Tại đây, trong khoảng độ

thành phần cuội sạn chủ yếu gồm granitoid

sâu 1.082-1.220 m. Hệ tầng Trà Cú đặc

có thành phần gần tương tự các đá móng

trưng bằng sự xen kẽ giữa cát, sỏi kết với
152


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam
Bảng 6.3. Khái quát phân chia địa tầng bể Cửu Long

những lớp bột sét chứa cuội, sạn, sỏi. Hạt

Hệ tầng Trà Cú hình thành trong các

cuội sạn có thành phần thạch học khác

điều kiện môi trường trầm tích khác nhau

nhau, chủ yếu là andesit và granit. Bề

từ sườn tích, lũ tích, bồi tích, sông, kênh

dày của hệ tầng ở giếng khoan CL-1 đạt

lạch đến đầm hồ, vũng vịnh.


138 m.

Hệ tầng Trà Cú có bề dày thay đổi từ

Vào vùng trung tâm bể Cửu Long, thành

100 đến 500 m ở các vòm nâng, còn ở các

phần trầm tích của hệ tầng Trà Cú mịn dần

trũng địa hào đạt tới trên 1.000 m. Theo tài

và lúc đầu chúng được xếp vào phần dưới

liệu địa chấn, hệ tầng được thể hiện bằng

của hệ tầng Trà Tân. Chúng phần lớn là

tập địa chấn E, tương ứng với phần dưới tập

các lớp sét kết giàu vật chất hữu cơ, sét kết

địa chấn này và có đặc điểm phân dị ít, độ

chứa nhiều vụn thực vật và sét kết chứa

liên tục kém, biên độ khá lớn, tần số thấp,

than (chiếm khoảng 60-90% mặt cắt) đôi


không có quy luật phân lớp, thường phủ bất

khi có các lớp than màu đen, tương đối rắn

chỉnh hợp trực tiếp trên các đá móng.

chắc. Phần lớn đá sét bị biến đổi thứ sinh

Tài liệu cổ sinh trong hệ tầng rất

và nén ép mạnh thành đá phiến sét màu

nghèo nàn; mới chỉ phát hiện thấy ít bào

xám sẫm, xám lục hoặc xám nâu, xen với

tử phấn hoa là Magnastriatites howardi,

các lớp mỏng bột kết và cát kết, đôi khi có

Verrucatosporites, Triletes, Pinuspollenites,

các lớp sét vôi. Thành phần của tập sét kết

Oculopollis tuổi Eocen - Oligocen, xác định

này gồm kaolinit, ilit và clorit, nhiều nơi

theo Oculopollis (LAD trong Eocen muộn)


phủ trực tiếp lên móng (vòm trung tâm mỏ

và Magnastriatites howardi (FAD trong

Bạch Hổ, Rạng Đông) và đóng vai trò là

Eocen muộn). Tuy nhiên, dựa trên quan hệ

một tầng chắn tốt mang tính địa phương cho

địa tầng nằm trên hệ tầng Cà Cối (Eocen),

các vỉa chứa dầu trong đá móng ở mỏ Bạch

hệ tầng Trà Cú được coi là có tuổi Oligocen

Hổ, ĐN Rồng, Rạng Đông, Sư Tử Đen v.v.

sớm. Hệ tầng nằm không chỉnh hợp có nơi
153


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

trên hệ tầng Cà Cối, có nơi trên đá móng.

khu vực, đặc biệt là từ phần trung tâm của

Oligocen giữa - trên


bể kéo dài về phía ĐB, nơi ảnh hưởng của

Hệ tầng Trà Tân (E32-3 tt)

môi trường biển ngày một tăng lên. Trong

Hệ tầng Trà Tân lần đầu tiên được mô

khi đó, tỷ lệ cát chiếm ưu thế, xen kẽ sét,

tả tại giếng khoan 15A-IX đặt trên cấu tạo

bột thuộc môi trường bồi tích, sông, đồng

Trà Tân ở khoảng độ sâu 2.535 - 3.038 m

bằng châu thổ gặp tương đối phố biến tại

(Ngô Thường San 1981). Tại đây, trầm tích

đới nâng trung tâm (cấu tạo Bạch Hổ và

chủ yếu bao gồm cát kết hạt nhỏ đến vừa

ĐN Rồng) và phần lớn lô 16, 17 ở rìa phía

màu xám trắng, xi măng carbonat, chuyển

Tây và phần TB của bể.


dần lên trên có nhiều lớp bột kết, sét kết

Nhìn chung, hệ tầng Trà Tân có bề dày

màu nâu và đen, xen các lớp mỏng than, có

quan sát theo giếng khoan thay đổi từ 400

chỗ chứa glauconit. Đá biến đổi ở giai đoạn

đến 800 m, còn ở các nơi trũng có thể đạt

catagen muộn. Đường cong địa vật lý điện

đến 1.500 m. Trên mặt cắt địa chấn, hệ

có điện trở suất rất cao ở phần dưới và thấp

tầng đặc trưng bằng tập địa chấn mà phần

ở phần trên; còn đường gamma thì ngược

dưới là những vùng phản xạ gần như trắng,

lại. Bề dày của hệ tầng ở giếng khoan này

biên độ thấp với tần số trung bình đến cao,

đạt 503 m.


còn ở phía trên phản xạ có biên độ liên tục

Hệ tầng Trà Tân phân bố rộng rãi hơn

tốt, tần số trung bình, biên độ khá, phân lớp

so với hệ tầng Trà Cú và có bề dày thay

tốt. Phần phía Tây, ở các lô 16, 17 tập địa

đổi khá mạnh ở các vùng khác nhau của

chấn có phản xạ song song, biên độ vừa đến

bể. Nhìn chung, có lẽ vào thời kỳ thành tạo

mạnh, độ liên tục trung bình đến tốt, tần số

hệ tầng này địa hình cổ của móng trước Đệ

thấp. Phần trung tâm có phản xạ song song,

Tam ít nhiều đã được san bằng hơn so với

phân kỳ, vắng mặt ở các đới nâng (như ở

thời kỳ trước. Trong điều kiện cổ địa lý như

mỏ Rồng), vận tốc lớp đạt 3.100-3.600 m/s,


vậy, mặt cắt hệ tầng Trà Tân có sự xen kẽ

tỷ lệ cát/sét thấp, đường điện trở suất cao.

giữa sét kết (chiếm 40-70% mặt cắt, đặc

Các đặc trưng trên phản ánh các trầm tích

biệt là các lô ở phần ĐB của bể), bột kết,

đầm hồ.

cát kết và ở nhiều nơi thấy xuất hiện các

Tuổi

Oligocen

giữa-muộn

của

hệ tầng Trà Tân được xác định theo

lớp đá phun trào có thành phần khác nhau.
Hệ tầng Trà Tân được tạo thành trong

Cicatricosisporites,


Verrutricolporites

pachydermus và Florschuetzia trilobata.

điều kiện môi trường không giống nhau
giữa các khu vực; từ điều kiện sông bồi

Đặc biệt hệ tầng chứa nhiều vật liệu

tích, đồng bằng châu thổ, đầm lầy - vũng

hữu cơ dạng sapropel vô định hình, dạng

vịnh đến xen kẽ các pha biển nông. Thành

vật liệu hữu cơ sinh thành trong điều kiện

phần trầm tích chủ yếu là sét giàu vật

hồ thiếu oxy. Tính chất này Morley gọi

chất hữu cơ và các tàn tích thực vật thuộc

là “tướng sapropel” trong khi phân tích

tướng đầm hồ, đầm lầy vũng vịnh chịu ảnh

các giếng khoan trên lô 15. Ngoài ra còn

hưởng của biển ở các mức độ khác nhau,


gặp nhiều Tảo nước ngọt như Pediastrum,

phát triển tương đối rộng rãi trong hầu hết

Bosidinia.
154


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam

Hệ tầng Bạch Hổ có bề dày thay đổi từ

Hệ tầng Trà Tân nằm chỉnh hợp trên hệ

400 đến hơn 800 m. Trên mặt cắt địa chấn,

tầng Trà Cú.
NEOGEN

ở phía trung tâm hệ tầng Bạch Hổ tương

Miocen dưới

ứng với tập địa chấn đặc trưng bởi các phản

Hệ tầng Bạch Hổ (N11 bh)

xạ có dạng song song, biên độ trung bình,


Mặt cắt chuẩn của hệ tầng Bạch Hổ

độ liên tục kém, thể hiện môi trường đồng

được mô tả tại giếng khoan BH1, từ độ

bằng ven bờ, biển nông, năng lượng trung

sâu 2.037 đến 2.960 m (Ngô Thường San

bình đến cao, tỷ lệ cát sét thấp, phân lớp

1981). Mặt cắt gồm 2 phần: phần dưới chủ

mỏng. Đường gamma thay đổi từ thấp đến

yếu là sét kết, cát kết phân lớp mỏng màu

cao, điện trở suất ở mức độ trung bình. Ở

xám đen, xám xanh, chuyển lên trên hàm

phần phía Tây tập địa chấn có phản xạ lộn

lượng cát kết tăng dần và xen các lớp bột

xộn đến song song, biên độ trung bình đến

kết màu xám đến nâu. Phần trên chủ yếu


khá, độ liên tục kém đến trung bình, tần số

là sét kết màu xám nâu chuyển dần lên sét

trung bình đến cao, biểu hiện sự thay đổi

kết màu xám xanh, đồng nhất, chứa hoá

tướng thô dần về phía Tây.

thạch động vật biển thuộc nhóm Rotalia

Hoá thạch tương đối phong phú bao

nên gọi là sét Rotalia (chủ yếu là Ammonia

gồm bào tử phấn hoa, nannoplankton và

kích thước 1/10 mm). Bề dày của hệ tầng ở

trùng lỗ thuộc các phức hệ và đới sau:

giếng khoan BH1 đạt 923 m.

- Magnastriatites howardi, Florschuetzia

Quan sát trong toàn khu vực cho thấy

levipoli,


đới

Rotalia,

Pediastrum





Dinoflagellata:

hệ tầng Bạch Hổ phát triển khá rộng khắp.

Botryococcus,

Phần dưới gồm cát kết kích thước hạt khác

Cribroperidinum, Apteodinium, đã định tuổi

nhau xen kẽ bột kết và sét kết, đôi nơi có

Miocen sớm cho hệ tầng.

chứa vụn than hình thành trong môi trường

các

Hệ tầng Bạch Hổ nằm không chỉnh hợp


aluvi đến đồng bằng châu thổ ngập nước

trên hệ tầng Trà Tân.

trong điều kiện năng lượng thay đổi khá

Miocen giữa

mạnh từ vùng này đến vùng khác. Phần

Hệ tầng Côn Sơn (N12 cs)

trên ở hầu hết mọi nơi phát triển sét kết

Hệ tầng Côn Sơn được mô tả lần đầu

tương đối sạch, chứa nhiều hoá thạch biển

tiên tại giếng khoan 15B-1X trên cấu tạo

nông Rotalia xen kẽ các lớp bột kết, ít lớp

Sông Ba từ độ sâu 1583 đến 2248 m (Ngô

cát kết hạt nhỏ, màu xám lục chứa nhiều

Thường San 1981), gồm cát kết thạch anh,

glauconit. Nhìn chung hệ tầng được thành


hạt nhỏ là chủ yếu có xen 1-2 lớp hạt thô

tạo trong môi trường biển, biển nông có

độ lựa chọn từ trung bình đến kém, xi măng

xu hướng tăng dần khi đi từ rìa TN của bể

là sét và ít carbonat, ở phần trên có xen ít

(lô 16, 17, rìa TN cấu tạo Rồng) qua phần

lớp sét và bột kết màu nâu, màu xám và

trung tâm đến khu vực phía ĐB bể (các lô

thấu kính than. Bề dày chung đạt 665 m.

01 và 15).

Hệ tầng Côn Sơn phân bố tương đối

Toàn bộ trầm tích Miocen dưới hệ tầng

khắp trong toàn bể Cửu Long, hình thành

Bạch Hổ phản ánh một quá trình biển tiến.

trong điều kiện môi trường thay đổi từ
155



Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

Hệ tầng Côn Sơn nằm chỉnh hợp trên

sông, đồng bằng châu thổ (các lô 16, 17 và

hệ tầng Bạch Hổ.

TN Rồng) đến, đầm lầy ven biển và biển

Miocen trên

nông (lô 9, 1, 2, 15-1, 15-2). Tính chất biển

Hệ tầng Đồng Nai (N13 đn)

tăng dần khi đi từ phía dưới lên.
Phần dưới của hệ tầng chủ yếu gồm cát

Mặt cắt chuẩn của hệ tầng Đồng Nai

kết hạt từ nhỏ đến thô đôi khi chứa cuội và

được xác lập tại giếng khoan 15G-1X trên

sạn (giếng khoan 17-ĐĐ, R-4, R-6, Sói-1,

cấu tạo Đồng Nai, nơi hệ tầng mang tên


15-G), màu xám, xám trắng, phân lớp dày

(Ngô Thường San 1981). Tại đây từ độ sâu

tới dạng khối, độ chọn lọc và mài tròn thay

650 đến 1.330 m mặt cắt gồm những lớp cát

đổi từ trung bình đến kém. Cát kết thường

kết hạt nhỏ đến vừa, cát sạn kết, chuyển

chứa các mảnh vụn trùng lỗ và đôi khi

dần lên là cát kết xen bột kết, sét kết và

có glauconit cùng nhiều các vụn than. Đá

than. Có nơi cát kết chứa pyrit và glauconit.

gắn kết yếu tới bở rời bằng xi măng sét và

Đường cong địa vật lý giếng khoan phân dị

carbonat. Phần trên chuyển dần sang cát

rõ, thể hiện thành phần hạt thô là chủ yếu.

kết hạt mịn, hạt nhỏ xen kẽ các lớp sét kết,


Bề dày của hệ tầng ở giếng khoan này là

sét chứa vôi hoặc đôi khi là các lớp đá vôi

680 m.

mỏng màu xám xanh đến xám lục, nâu đỏ,

Hệ tầng Đồng Nai có mặt trong toàn bể

vàng nâu loang lổ (giếng khoan Sói-1, 15-

Cửu Long, bao gồm các trầm tích được hình

G, Rồng-6), các lớp sét chứa than, các thấu

thành trong môi trường sông, đồng bằng

kính hoặc các lớp than mỏng màu đen.

châu thổ, đầm lầy ven biển. Trầm tích đang

Hệ tầng Côn Sơn có bề dày thay đổi

ở giai đoạn thành đá sớm; đá mới chỉ được

từ 660 đến 1.000 m. Trên mặt cắt địa chấn

gắn kết yếu hoặc còn bở rời và dễ tan vụn.


quan sát thấy các phản xạ song song, biên

Hệ tầng có thể phân thành hai phần chính:

độ lớn, độ liên tục tốt, tần số cao. Ở phần

Phần dưới gồm chủ yếu là các trầm tích

phía Đông các phản xạ có độ liên tục kém

hạt thô như cát hạt vừa đến thô lẫn sạn,

hơn, biên độ lớn hơn, tần số trung bình đặc

sỏi đôi khi chứa cuội, phân lớp dày hoặc

trưng cho trầm tích đầm lầy, đồng bằng ven

dạng khối, độ chọn lọc và mài tròn trung

biển, năng lượng cao, tỷ lệ cát/sét trung

bình đến kém, thường chứa nhiều mảnh

bình đến cao. Cát kết có xu hướng hạt mịn

vụn hoá thạch động vật, pyrit và đôi khi có

hướng lên trên. Đường gamma và điện trở


glauconit. Chuyển lên trên là cát - cát kết

suất thường có giá trị trung bình. Trong hệ

chủ yếu là hạt nhỏ, màu xám, xám sáng,

tầng Côn Sơn đã phát hiện được bào tử

xám phớt nâu, bột - bột kết, sét - sét kết

phấn hoa và các hoá thạch biển như trùng

xen kẽ những vỉa than lignit hoặc sét chứa

lỗ và Nannoplankton gồm: Florschuetzia

phong phú các di tích thực vật hoá than.

meridionalis, Lepidocyclina (Tf2), Orbulina

Than gặp khá phổ biến tại các giếng khoan

universa (N9), Calcidiscus marcintyrei ( N4-

thuộc các lô 15, 16 và một số nơi khác.

NN19) định tuổi trầm tích Miocen giữa.

Phần trên là các đá hạt mịn, gồm cát


Môi trường trầm tích của hệ tầng chuyển

hạt nhỏ, bột và sét có màu khác nhau chứa

tiếp từ tam giác châu đến biển nông.

nhiều hoá thạch động vật.
156


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam

Bề dày hệ tầng Đồng Nai thay đổi từ

hình thành chủ yếu trong môi trường biển

500 đến 700 m và được thể hiện trên một

nông và trầm tích còn bở rời. Mặt cắt của

tập địa chấn chủ yếu có độ phản xạ song

hệ tầng chủ yếu gồm cát thạch anh màu

song, biên độ cao, độ liên tục tốt, tần số

xám, xám sáng, xám lục hoặc xám phớt

cao phản ánh trầm tích ven bờ ở phía Tây,


nâu, hạt từ vừa đến thô, xen kẽ ít lớp sét,

biển nông ở phía Bắc, năng lượng cao đến

bột. Cát phân lớp dày hoặc dạng khối, hạt

thấp, tỷ lệ cát/sét cao đến trung bình. Các

vụn có độ chọn lọc và mài tròn trung bình

lớp có xu thế hạt mịn hướng lên trên, đường

đến tốt, thường chứa nhiều mảnh vụn hoá

gamma và điện trở suất giá trị thấp. Trên

thạch động vật biển, pyrit, đôi khi có các

mặt cắt địa chấn các đường phản xạ cho

mảnh vụn than. Bề dày của hệ tầng thay

thấy hệ tầng Đồng Nai nằm bất chỉnh hợp

đổi từ 400 đến 700m.

lên hệ tầng Côn Sơn theo kiểu phủ chờm

Trên mặt cắt địa chấn nó rất dễ nhận


biển tiến với 2 pha phản xạ không liên

biết bằng đặc trưng là phản xạ song song,

tục.

độ liên tục tốt, biên độ trung bình đến

Khác với hệ tầng Côn Sơn, trong hệ

cao, tần số cao. Vận tốc lớp đạt khoảng

tầng Đồng Nai đã phát hiện nhiều hoá

1.500-2.000m/s. Các đặc trưng trên phản

thạch trùng lỗ, Nannoplankton và bào tử

ánh tướng thềm biển năng lượng cao, tỷ lệ

phấn hoa. Dấu hiệu xác định tuổi Miocen

cát/sét cao, phân lớp tốt. Đường gamma và

muộn của hệ tầng theo bào tử phấn hoa là

điện trở suất có giá trị cao, xu thế hạt mịn

FAD của bào tử Stenochlaena laurifolia,


hướng lên trên. Mặt bất chỉnh hợp giữa hệ

cùng với sự phong phú các dạng khác, như

tầng Biển Đông và hệ tầng Đồng Nai thể

Florschuetzia levipoli, Fl. Meridionalis,

hiện rõ theo kiểu phủ chờm biển tiến với 2

Rhizophora, Carya, Pinus, Dacrydium,

pha phản xạ mạnh, biên độ lớn.

Acrostichum và Trùng lỗ Neogloboquadrina
acostaensis

(N16),

Nanno

Trong các lớp trầm tích của hệ tầng

Discoater

Biển Đông đã phát hiện phong phú hoá

quinqueramus (NN11).


thạch gồm các bào tử phấn Dacrydium,

Pliocen

Stenochlaena laurifolia và các Foram

Hệ tầng Biển Đông (N2 bđ)

Sphaeroidinella subdehiscens (N19), Nanno

Hệ tầng được mô tả lần đầu tại giếng

Discoaster intercalcaris (NN12) đã định

khoan 15G-1X, trong khoảng 250-650m có

tuổi Pliocen cho trầm tích của hệ tầng.

thể chia làm 2 phần – phần dưới đặc trưng

2.4. Bể Nam Côn Sơn

bằng cát thạch anh thô, xám trắng chứa
nhiều hoá thạch trùng lỗ thuộc nhóm

(Hình 6.5)

Operculina. Phần trên chủ yếu là sét,

PALEOGEN


bột phong phú trùng lỗ đa dạng và

Oligocen

Nannoplankton. Bề dày của hệ tầng ở giếng

Hệ tầng Cau (E3 c)

Hệ tầng Cau lần đầu tiên được mô tả

khoan này là 400 m.
Hệ tầng Biển Đông phát triển rộng

chi tiết tại giếng khoan Dừa-IX (lô 12) từ

khắp trong vùng, với đặc điểm chung là

độ sâu 3.680 đến 4.038 m và đặt tên là Cau
157


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

Hình 6.5. Địa tầng tổng hợp bể Nam Côn Sơn

(Lê Văn Cự 1982). Tại giếng khoan Dừa-

phần Tây lô 04 cũ, phần lớn lô 10, 28, 29 và


IX mặt cắt đặc trưng của hệ tầng bao gồm

các lô khác ở phía T-TN của bể). Mặt cắt

chủ yếu là cát kết màu xám xen các lớp sét

đầy đủ được tổng hợp có thể chia thành 3

kết, bột kết màu nâu. Cát kết thạch anh hạt

phần chính như dưới đây.
Phần dưới chứa nhiều cát kết từ hạt mịn

thô đến mịn, độ lựa chọn kém, xi măng sét,

đến thô, đôi khi rất thô hoặc sạn kết, cát

carbonat. Bề dày chung đạt 358 m.
Hệ tầng Cau có thể xem tương đương

kết chứa cuội, sạn và cuội kết (giếng khoan

với các hệ tầng Bawah, Keras, Gabus (Agip

21S: 3.920-3.925 m; giếng khoan 06-HDB:

1980) thuộc trũng Đông Natuna ở phía Nam

3.848-3.851 m), màu xám sáng, xám phớt


của bể Nam Côn Sơn. Hệ tầng vắng mặt

nâu hoặc nâu đỏ, tím đỏ, phân lớp dày hoặc

trong phần lớn các đới nâng (mỏ Đại Hùng,

dạng khối, xen kẽ một khối lượng nhỏ các

Bảng 6.4. Khái quát phân chia địa tầng bể Nam Coõn Sụn

Q

Lê văn Cự
1982

Ngô Thường San
1981

Agip 1980
N22

Q

Q

Q

biển
đông


biển
đông

N21
N2

Đỗ Bạt
1993-2002

cửu long

N2

N 19-N20

N2

N 13

tf 2

N 13

N 12

tf1

N1 2

Vịng tμu


N1 1

Dõa

N1 1

Dõa

N 11

Dõa

E3

Trμ t©n

E3

cau

E3

cau

N2

N 13

nam

côn
sơn

N1 3

thông

thông
N1 2

mÃng
cầu

nam
côn
sơn

N 12

mÃng
cầu

E 3N 1 1

158


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam

lớp bột kết hoặc sét kết màu xám tới xám


Các hoá thạch định tuổi Oligocen trong

tro, nâu đỏ, hồng (giếng khoan 21S) chứa

hệ tầng thuộc phức hệ Cicatricosisporites-

các mảnh vụn than hoặc các lớp kẹp than.

Mayeripollis, Florschuetzia trilobata và

Giống như ở bể Cửu Long, ở một số giếng

Tảo nước ngọt Pediastrum, Bosedinia.

khoan cũng đã phát hiện được sự có mặt

Hệ tầng Cau được thành tạo trong điều

của các lớp đá phun trào xen kẽ (andesit,

kiện môi trường thay đổi nhanh giữa các

basalt ở các giếng khoan 12W Hồng Hạc

khu vực gồm lũ tích, trầm tích sông, quạt

và Hải Âu, 11-1-CDP và 12C-IX), diabas

bồi tích, đồng bằng châu thổ xen kẽ trầm


(giếng khoan 20-PH-IX).

tích đầm hồ.
Hệ tầng Cau phủ không chỉnh hợp trên

Phần giữa có thành phần hạt mịn chiếm

các đá móng trước Đệ Tam.

ưu thế gồm các tập sét kết phân lớp dày
đến dạng khối màu xám sẫm tới xám tro,

NEOGEN

xám đen xen kẽ ít bột kết, cát kết hạt từ

Miocen dưới

mịn đến thô màu xám sáng, xám xẫm đôi

Hệ tầng Dừa (N11 d)

khi phớt nâu đỏ hoặc tím đỏ (giếng khoan

Mặt cắt chuẩn của hệ tầng Dừa được

21S), khá giàu vôi và vật chất hữu cơ cùng

xác lập ở giếng khoan Dừa-1X (Ngô


các lớp sét kết chứa than.

Thường San 1981). Tại đây, từ độ sâu 2.852

Phần trên gồm tập xen kẽ cát kết hạt

đến 3.680 m mặt cắt bao gồm sét kết màu

nhỏ đến vừa, màu xám tro, xám sáng đôi

đen, bột kết màu xám cùng với cát kết hạt

chỗ có chứa glauconit, trùng lỗ (giếng

nhỏ và thấu kính than lignit. Phần giữa của

khoan 12C, Dừa) và bột kết, sét kết màu

hệ tầng chứa nhiều cát kết hơn, với độ chọn

xám tro đến xám xanh hoặc nâu đỏ (giếng

lọc trung bình tới tốt, đôi nơi chứa glauconit,

khoan 21S).

pyrit, xi măng sét và carbonat. Bề dày của
hệ tầng ở giếng khoan này là 828 m.


Bề dày trầm tích, đặc điểm phân tập nói
trên cũng như các đặc tính của mỗi tập thay

Phân bố rộng rãi trong vùng, hệ tầng

đổi nhiều giữa các lô trong bể. Chẳng hạn

Dừa chủ yếu gồm cát kết, bột kết màu xám

ở giếng khoan 06-HDB vắng mặt các trầm

sáng, xám lục xen kẽ với sét kết màu xám,

tích phần trên, hoặc mức độ chứa than tăng

xám đen đến xám xanh, các lớp sét chứa

lên rất nhiều trong các giếng khoan thuộc

vôi, sét giàu vật chất hữu cơ hoặc có chứa

cấu tạo Thanh Long.

các lớp than mỏng. Đôi khi có những lớp đá

Trên các mặt cắt địa chấn hệ tầng Cau

vôi mỏng chứa nhiều hạt vụn hoặc đá vôi

ở phần phía Tây thể hiện các phản xạ dạng


màu trắng xen kẽ trong hệ tầng. Tỷ lệ cát/

lộn xộn, vắng mặt trầm tích trên diện rộng.

sét trong toàn bộ mặt cắt gần tương đương

Phía Đông có các đường phản xạ song

nhau, tuy nhiên đi về phía Đông của bể (lô

song, biên độ thấp đến trung bình dần dần

5, 6) tỷ lệ đá hạt mịn có xu hướng tăng dần

chuyển sang phản xạ không liên tục, biên

lên. Ngược lại, ở phần rìa phía Tây của bể

độ thay đổi, năng lượng cao, tỷ lệ cát/sét

(lô 10, 11-1, 11-2, 28 và 29) tỷ lệ cát kết

cao, phân lớp dày. Cát hạt mịn hướng lên

tăng hơn nhiều so với các đá hạt mịn, và tại

trên, có mặt các lớp than và sét than.

đó môi trường tam giác châu có ảnh hưởng

159


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

đáng kể. Trầm tích trong toàn khu vực có

Quá trình nghiên cứu trong những năm

xu hướng mịn dần ở phía trên của mặt cắt

gần đây (1995-2001) cho thấy có một thực

và tính chất biển cũng tăng lên rõ rệt từ

tế là rất khó vạch ranh giới giữa các lớp

phần rìa B-TB, N-TN vào trung tâm và về

trầm tích lục nguyên của hai hệ tầng Thông

phía Đông của bể.

và Mãng Cầu như Lê Văn Cự (1982) đã

Nhìn chung các lớp của hệ tầng Dừa

phân chia đầu tiên. Do vậy, gần đây hầu hết

có các đường cong điện trở suất và gamma


các nhà địa chất, các công ty trong và ngoài

phân dị tốt. Phân lớp trung bình tới dày, tỷ

nước khi nghiên cứu địa tầng nói riêng, và

lệ cát/sét thường cao (55-80%). Trầm tích

địa chất bể Nam Côn Sơn nói chung, đã

hạt mịn có xu thế chủ yếu hướng lên trên.

xem mặt cắt này như một phân vị địa tầng

Trầm tích được thành tạo chủ yếu trong

tương ứng với các hệ tầng Thông và Mãng

điều kiện năng lượng cao và giảm dần lên

Cầu không tách rời.

phần trên của hệ tầng.

Mặt cắt đặc trưng của hệ tầng Thông

Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Dừa được

- Mãng Cầu được mô tả ở giếng khoan


thể hiện bằng tập địa chấn có đặc trưng

Dừa IX trong khoảng độ sâu từ 2.170 đến

chủ yếu là các phản xạ song song, biên độ

2.852 m bao gồm phần dưới chủ yếu là cát

trung bình, độ liên tục kém. Ở phần phía

kết chứa glauconit và xi măng carbonat xen

Đông mặt cắt có thể chia thành hai phần,

những lớp mỏng sét kết, sét vôi, chuyển

phần dưới có phản xạ song song, độ liên

lên phần trên là sự xen kẽ giữa trầm tích

tục kém, phần trên cũng có phản xạ song

lục nguyên và đá vôi. Đá vôi là các tập dày

song, nhưng độ liên tục tốt, biên độ trung

màu xám trắng. Bề dày của hệ tầng ở giếng

bình đến cao.


khoan này đạt 682 m.

Hệ tầng Dừa có bề dày thay đổi từ 100m

Các trầm tích lục nguyên, lục nguyên

đến hơn 1.000 m.

chứa vôi phát triển mạnh khi đi dần về phía

Hóa thạch trong hệ tầng Dừa tương

rìa Bắc (các lô 10, 11-1, ) và phía Tây - Tây

đối phong phú gồm bào tử phấn hoa,

Nam (các lô 20, 21, 22, 28, 29) của bể, bao

trùng lỗ và Nannoplankton. Chúng được

gồm chủ yếu cát bột kết và sét kết, sét vôi

phân ra đới Florchuetzia levipoli; đới cực

xen kẽ các thấu kính hoặc những lớp đá vôi

thịnh Magnastriatites howardi và các đới

mỏng. Các lớp trầm tích lục nguyên này ở


Praeorbulina (N7-N8), Miogypsina (TF1),

mọi nơi thường chứa nhiều glauconit, các

Helicosphaera ampliapera (NN4) là các

hoá thạch động vật biển, đặc biệt là nhiều

dạng đặc trưng cho trầm tích Miocen sớm.

trùng lỗ.

Các trầm tích của hệ tầng Dừa phát

Đá carbonat phát triển khá rộng rãi tại

triển trong môi trường châu thổ đến biển

các vùng nâng ở trung tâm bể, và đặc biệt

nông.

tại các lô thuộc phần phía Đông của bể

Hệ tầng Dừa nằm không chỉnh hợp trên

(các lô 04 và 05). Đá có màu trắng, trắng

hệ tầng Cau.


sữa, dạng khối chứa phong phú san hô và
Miocen giữa

các hoá thạch động vật khác được thành

Hệ tầng Thông - Mãng Cầu (N1 t-mc)

tạo trong môi trường biển mở của thềm

2

160


Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam

lục địa, bao gồm đá vôi ám tiêu (tại các

yếu là đồng bằng châu thổ đến rìa trước

phần nhô cao ở các lô 04-A, Mía, 05-TL-

châu thổ, còn ở phía Đông chủ yếu là biển

Bắc, 06-LT và 06-LĐ) và các lớp đá vôi

nông.
Hệ tầng Thông - Mãng Cầu nằm chỉnh


dạng thềm phát triển tại những phần sườn

hợp trên hệ tầng Dừa.

thấp của các đới nâng (các lô 05-TL-B-1X,
12A v.v...). Ngoài ra, trong tập đá carbonat

Miocen trên

cũng gặp xen kẽ các lớp đá vôi dolomit

Hệ tầng Nam Côn Sơn (N13 ncs)

hoặc dolomit dạng hạt nhỏ do kết quả của

Hệ tầng Nam Côn Sơn mang tên của bể

quá trình dolomit hoá một phần hoặc hoàn

trầm tích (Lê Văn Cự 1982). Mặt cắt đặc

toàn của cả 2 loại đá vôi kể trên.. Ngoài

trưng tại giếng khoan Dừa-IX, từ 1.868-

đặc điểm khác biệt về các đới cổ sinh thì

2.170m, gồm cát kết hạt mịn, xám trắng

mức độ dolomit hoá và tái kết tinh là điểm


xen các lớp bột kết, sét kết giàu carbonat

khác biệt duy nhất về mặt thạch học để có

và các lớp đá vôi. Các trầm tích này chứa

thể phân biệt được giữa các tập đá carbonat

nhiều hoá thạch sinh vật biển (Trùng lỗ).

của hệ tầng Thông - Mãng Cầu với hệ tầng

Bề dày của hệ tầng ở mặt cắt này là 302

Nam Côn Sơn nằm trên.

m.

Trên đường cong địa vật lý giếng khoan

Phân bố rộng rãi trong bể, hệ tầng Nam

cũng dễ dàng quan sát thấy sự thay đổi và

Côn Sơn có sự biến đổi tướng đá mạnh mẽ

phân bố của các trầm tích lục nguyên và

giữa các khu vực khác nhau của bể. Ở rìa


carbonat. Tỷ lệ cát/sét dao động từ 40 đến

phía Bắc (các lô 10, 11-1) và phía T-TN

65%. Độ hạt chủ yếu có xu thế thô dần

(các lô 20, 21, 22, 28 v.v...) trầm tích chủ

lên phía trên. Đường điện trở suất có giá

yếu là lục nguyên gồm sét kết, sét vôi màu

trị thay đổi mạnh (2-20 ohm.m) và cao hơn

xám lục đến xám xanh, gắn kết yếu cùng

ở phía Đông. Đặc điểm này cũng thấy rõ

các lớp cát bột kết chứa vôi đôi khi gặp một

trên mặt cắt địa chấn của hệ tầng Thông

số thấu kính hoặc những lớp đá vôi mỏng

- Mãng Cầu: ở phần phía Đông các đường

chứa nhiều mảnh vụn lục nguyên. Cát kết

phản xạ song song, độ liên tục tốt, biên độ


ở đây hạt từ nhỏ đến vừa gặp nhiều trong

trung bình đến cao đặc trưng cho trầm tích

các giếng khoan 10-BM, 11-1-CC, 20-PH,

carbonat biển nông, còn phần phía Tây là

độ lựa chọn và mài tròn tốt, chứa hoá thạch

các phản xạ song song, biên độ trung bình,

động vật biển và glauconit, có độ gắn kết

độ liên tục tốt liên quan đến các trầm tích

trung bình bởi xi măng carbonat có tỷ lệ cao.

lục nguyên thềm biển.

Ở các lô phía trung tâm nơi đặt các giếng

Hoá thạch phong phú đặc trưng cho trầm

khoan Dừa-IX, 2X, 12A, lô 05-1, lô 04-3

tích Miocen giữa và thuộc đới Florschuetzia

v.v... mặt cắt gồm các trầm tích carbonat


meridionalis; các đới Orbulina universa (N9),

và lục nguyên xen kẽ nhau khá rõ rệt. Tai

Globorotalia foshi (N12), Lepidocyclina

một số vùng nâng ở phía Đ-ĐN (theo các

(Tf2-Tf3) và đới Discoater kugleri (NN7),

giếng khoan 05-TLB, 06-LT, 06-LĐ v.v...)

Discoater hamatus (NN9).

đá carbonat lại chiếm hầu hết trong mặt cắt
của hệ tầng.

Môi trường trầm tích ở phía Tây chủ
161


Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam

Hệ tầng Nam Côn Sơn có bề dày 200-

phú hóa thạch biển. Phần dưới mặt cắt có

600 m và nằm bất chỉnh hợp trên hệ tầng


xen các lớp mỏng cát - cát kết, bột hoặc

Thông - Mãng Cầu với các sóng địa chấn

cát chứa sét (ở các lô 10, 11-1 và 12). Tại

thể hiện dưới dạng cắt lớp và phủ nóc các

các vùng nâng nằm ở phía Đông lô 06 đá

đá carbonat Thông - Mãng Cầu với phản xạ

carbonat ám tiêu phát triển một cách liên

biên độ cao. Trên mặt cắt địa chấn thể hiện

tục cho đến đáy biển hiện nay.

rõ với các phản xạ song song, độ liên tục

Hệ tầng Biển Đông bao gồm các trầm

trung bình đến tốt, biên độ trung bình, tần

tích thềm và đặc trưng bằng tập địa chấn

số cao đặc trưng cho trầm tích thềm và có

có sóng phản xạ song song, độ liên tục kém


các tập đá vôi ở phần Đông của bể.

đến trung bình, biên độ cao. Ở phần phía

Hoá thạch đã định tuổi Miocen muộn

Đông quan sát thấy các tập nêm lấn thể

cho hệ tầng thuộc các đới Florschuetzia

hiện sự phát triển của trầm tích thềm, sườn

meridionalis,

laurifolia,

thềm. Các tập trầm tích lấn dần ra phía

Neogloboquadrrina acostaensis (N16-N18),

trung tâm Biển Đông, phản ánh sườn lục

Lepidocyclina (Tf3), Discoater quiqueramus

địa chuyển dần từ Tây sang Đông.

Stenochlaena

(NN11)


Trong hệ tầng Biển Đông đã phát hiện

Các đặc điểm trầm tích và cổ sinh kể

phong phú hoá thạch định tuổi trầm tích là

trên cho thấy hệ tầng Nam Côn Sơn được

Pliocen gồm Dacrydium, Pseudorotalia-

hình thành trong môi trường biển nông

Asterorotalia, Sphaeroidinellopsis dehisces

thuộc đới trong của thềm ở khu vực phía

(N19) và Discoarter asymmetricus (NN14),

Tây, còn thuộc đới giữa - ngoài thềm ở khu

Discoarter broweri (NN18)

vực phía Đông.

Đặc điểm trầm tích và cổ sinh của hệ

Pliocen

tầng Biển Đông cho thấy môi trường trầm


Hệ tầng Biển Đông (N2 bđ)

tích là biển nông thềm trong ở phần phía

Trong bể Nam Côn Sơn, mặt cắt đặc

Tây, đến thềm ngoài chủ yếu ở phần phía

trưng của hệ tầng quan sát được tại giếng

Đông của bể. liên quan đến đợt biển tiến

khoan 12A-IX từ độ sâu 600 đến 1.900 m,

Pliocen trong toàn khu vực Biển Đông. Hệ

bao gồm chủ yếu là cát, bột, sét màu xám,

tầng nằm bất chỉnh hợp trên hệ tầng Nam

xám trắng, vàng nhạt, chứa nhiều glauconit

Côn Sơn.

và hoá thạch động vật biển như trùng lỗ,

2.5. Bể Malay - Thổ Chu

thân mềm, rêu động vật v.v, với bề dày


(THỀM LỤC ĐỊA TÂY NAM VIỆT NAM)

khoảng 1.300 m.

(Hình 6.6)

Hệ tầng Biển Đông phát triển rộng
khắp trên toàn khu vực và có bề dày rất

PALEOGEN

lớn, đặc biệt tại các lô thuộc phía Đông của

Oligocen

bể (>1.500 m). Đá của hệ tầng chủ yếu là

Hệ tầng Kim Long (E3 kl)

sét - sét kết, sét vôi màu xám trắng, xám

Tên của hệ tầng được được đặt theo tên

xanh đến xám lục, bở rời hoặc gắn kết

giếng khoan Kim Long -1X (Đỗ Bạt 2002).

yếu, chứa nhiều glauconit, pyrit và phong

Tại giếng khoan này mặt cắt chuẩn từ độ

162


×