Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

thành lập bản đồ địa chất biển đông và các vùng kế cận tỷ lệ 1-1.000.000 - địa tầng, cấu trúc kiến tạo, lịch sử phát triển địa chất và phân vùng triển vọng dầu khí thềm lục địa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.31 KB, 108 trang )

Bộ Khoa học và Công nghệ Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam
Chơng trình KC. 09 Liên đoàn Địa chất Biển


Đề tài
Thành lập bản đồ địa chất Biển Đông và các vùng
kế cận tỷ lệ 1/1.000.000


Chuyên đề
địa tầng, Cấu trúc kiến tạo, lịch sử phát
triển địa chất và phân vùng triển vọng
dầu khí thềm lục địa việt nam

tác giả:
TS. Nguyễn Trọng Tín
KS. Trần Hữu Thân
ThS. Đỗ Bạt




6439-1
30/7/2007

Hà Nội, 2006

mục lục

Trang
Phần 1


Địa tầng các bồn trầm tích Kainozoi

1
1. Cơ sở phân chia địa tầng Kainozoi 1
2. Địa tầng các bồn trầm tích Kainozoi 2
2.1. Địa tầng trầm tích Kainozoi bồn Sông Hồng 2
2.2. Địa tầng trầm tích Kainozoi bồn Phú Khánh 11
2.3. Địa tầng trầm tích Kainozoi nhóm bồn Trờng Sa và Hoàng Sa 12
2.4. Địa tầng trầm tích Kainozoi bồn T Chính - Vũng Mây 13
2.5. Địa tầng trầm tích Kainozoi bồn Cửu Long 13
2.6. Địa tầng trầm tích Kainozoi bồn Nam Côn Sơn 20
2.7. Địa tầng trầm tích Kainozoi bồn Malay - Thổ Chu 24
3. Đối sánh địa tầng trầm tích Kainozoi Biển Đông và Kế Cận 28

Phần 2
Cấu trúc kiến tạo và lịch sử phát triển địa chất các bồn trầm tích
Kainozoi Biển Đông và kế cận


32
1. Bồn Sông Hồng
2. Bồn Beibu (Lôi Châu - Bạch Long Vĩ) 38
3. Bồn Nam Hải Nam 41
4. Bồn Phú Khánh 42
5. Bồn Cửu Long 46
6. Bồn Nam Côn Sơn 52
7. Bồn Malay - Thổ Chu 59
8. Bồn T Chính - Vũng Mây 65
9. Bồn Trờng Sa 72
10. Các bồn trên thềm lục địa Việt Nam 73

11. Nhóm bồn Hoàng Sa 74
12. Nhóm bồn Đệ tam ở Nam và Đông Nam Biển Đông 75

Phần 3
Tài nguyên dầu khí thềm lục địa Việt Nam

78
1. Khái quát 78
2. Bể Sông Hồng 78
3. Bể Cửu Long 82

Tài liệu tham khảo
103

1
Phần I
Địa tầng các bồn trầm tích kainozoi

1. Cơ sở phân chia địa tầng Kainozoi

Trầm tích Đệ tam phân bố ở khu vực biển Đông, đặc biệt trên thềm lục địa Việt
Nam. Phần lớn chúng tập trung trong các bể trầm tích, có nơi dày trên 10.000m.
Nghiên cứu địa tầng trầm tích Đệ Tam trong thời gian qua gắn liền với quá trình tìm
kiếm - thăm dò dầu khí và đã có những kết quả đáng khích lệ.
Cho đến nay sau hơn nửa thế kỷ, công tác tìm kiếm - thăm dò dầu khí đã trải
khắp trên các bể trầm tích Đệ tam thềm lục địa Việt Nam. Một khối lợng khổng lồ các
tài liệu địa chất - địa vật lý đã đợc thu thập. Hàng chục vạn km tuyến địa chấn đã
đợc xử lý. Hàng trăm giếng khoan đã có kết quả phân tích. Nhiều báo cáo về trầm
tích, cổ sinh, carota và địa chấn địa tầng cùng với hàng loạt các báo cáo tổng hợp của
các cơ quan nghiên cứu, các công ty trong và ngoài nớc nh Liên đoàn địa chất 36,

Viện Dầu khí Việt Nam, Công ty TOTAL, BP, SHELL, FINA, MOBIL, UNOCALL,
VIETSOPETRO, JVPC, IDEMITSU, PETRONAS v.v Hầu hết các báo cáo đều đề cập đến
khía cạnh địa tầng, song mức độ nghiên cứu của từng báo cáo có nét khác nhau. Những
kết quả đó đã đợc các tác giả Golovenok v.k - Lê Văn Chân (1960 - 1970), Paluxtovich
- Nguyễn Ngọc Cự (1971), Vũ Văn Nhi (1975) Sevostianov (1977), Phạm Hồng Quế
(1981), Nguyễn Giao (1982), Lê Văn Cự (1982), J.Moris (1993), C.Sladen (1997) Ngô
Thờng San (1981, 1987), Lê Đình Thám (1992) Đỗ Bạt - Phan Huy Quynh (1985, 1993, 2002)
Nghiên cứu tổng hợp và trình bày trên các bảng 1, 2, 3, 4.
Đặc biệt kết quả nghiên cứu gần đây nhất đã đợc Đỗ Bạt, Phan Huy Quynh,
Ngô Xuân Vinh, Phan Giang Long và Nguyễn Quý Hùng tổng hợp vào năm 2002, đợc
xem là tài liệu địa tầng sử dụng phổ biến trong tìm kiếm thăm dò dầu khí các bể trầm
tích Đệ tam thềm lục địa Việt Nam cả về phơng pháp nghiên cứu và kết quả đạt đợc.
Nghiên cứu địa tầng thực chất là phân chia các đơn vị địa tầng và đối sánh
chúng với nhau. Cơ sở để giải quyết nhiệm vụ này chủ yếu đợc dựa theo "Quy phạm
về địa tầng Việt Nam - 1994" và "Hớng dẫn địa tầng quốc tế - 1993, 2000".
Nguyên tắc cơ bản ở đây là: Các đá phân lớp của vỏ trái đất có thể đợc phân
chia và tập hợp từng nhóm lớp thành những phân vị địa tầng theo đặc điểm khác nhau
của chúng nh thành phần đá, thành phần thạch học, tính chất vật lý (độ rỗng , độ
thấm , độ dẫn điện, trở sóng địa chấn v.v.). Phù hợp với nguyên tắc này, những phơng
pháp chính đã đợc sử dụng trong nghiên cứu là: Thạch địa tầng, Sinh địa tầng và Địa
chấn địa tầng
Do đặc điểm của vùng nghiên cứu là các trầm tích bị phủ , không trực tiếp quan
sát đợc, các giếng khoan xa nhau, tỷ lệ mẫu lõi rất hạn chế v.v. nên để xây dựng cột
địa tầng tổng hợp của từng giếng khoan, từng vùng, từng bồn trũng và liên hệ, liên kết
2
với khu vực phụ cận chúng tôi đã phối hợp, tổng hợp các phơng pháp nghiên cứu vừa
nêu trên, khắc phục yếu điểm và bổ xung các thế mạnh cho nhau giữa phơng pháp
này và phơng pháp khác. Việc tổng hợp này sẽ tuân theo các nguyên tắc chủ yếu sau:
- Các phân chia thạch địa tầng là đơn vị cơ bản. Đặc điểm của chúng đợc xác
định bằng các tài liệu trầm tích, cổ sinh, carota và địa chấn.

- Tuổi của các đơn vị địa tầng dựa theo tài liệu cổ sinh
- Ranh giới của các đơn vị địa tầng thờng đợc xác định theo tài liệu carota,
còn đặc trng của các mặt bất chỉnh hợp, các đơn vị địa tầng thờng dựa theo các tài
liệu địa chấn.
- Liên hệ liên kết địa tầng giữa các vùng dựa theo tuổi trầm tích đợc xác định
theo tài liệu cổ sinh và theo dõi các tập địa chấn địa tầng mang tính khu vực.
Kết quả của sự tổng hợp trên đây sẽ cho bức tranh toàn cảnh địa tầng trầm tích
Đệ tam thềm lục địa Việt Nam.
2. Địa tầng các bồn trầm tích kainozoi
2.1. địa tầng trầm tích Kainozoi bồn Sông Hồng
2.1.1. Trũng Hà Nội - Vịnh Bắc Bộ (Phần Bắc bể sông Hồng)
PALEOGEN - NEOGEN
Hệ tầng Phù Tiên (E
2
pt)
Mặt cắt chuẩn đợc mô tả tại GK.104 (hình 1) Phù Tiên-Hng Yên từ độ sâu
3544 m đến 3860 m bao gồm cát kết, sét bột kết màu nâu tím, màu xám xen các lớp
cuội kết có độ hạt rất khác nhau từ vài cm đến vài chục cm. Thành phần hạt cuội
thờng là ryolit, thạch anh, đá phiến kết tinh và quarzit. Cát kết có thành phần đa
khoáng, độ mài tròn và chọn lọc kém, nhiều hạt thạch anh, calcit bị gặm mòn, xi măng
calcit-sericit. Bột kết rắn chắc thờng màu tím chứa sericit và oxyt sắt. Trên cùng là
lớp cuội kết hỗn tạp màu tím, màu đỏ xen các đá phiến sét với nhiều vết trợt láng
bóng. Bề dày của hệ tầng tại giếng khoan này đạt 316 m.

ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, hệ tầng Phù Tiên đã đợc phát hiện ở GK. 107- TPA
(3050-3535 m) với cuội sạn kết có kích thớc nhỏ, thành phần chủ yếu là các mảnh đá
granit và đá biến chất xen với cát kết, sét kết màu xám, màu nâu có các mặt trợt hoặc
bị phân phiến mạnh. Các đá kể trên bị biến đổi thứ sinh mạnh. Bề dày hệ tầng ở đây
khoảng 485 m (hình 2).
Trên các mặt cắt địa chấn, hệ tầng Phù Tiên đợc thể hiện bằng tập địa chấn

nằm ngang phủ bất chỉnh hợp ngay trên mặt đá móng trớc Đệ Tam. Tuy nhiên, nó chỉ
đợc theo dõi tốt ở vùng vịnh Bắc Bộ. Tập địa chấn này có các phản xạ biên độ cao, tần
số thấp, độ liên tục từ trung bình đến kém ở vùng trũng Hà Nội và chuyển sang dạng
3
phản xạ song song, độ liên tục tốt, biên độ cao ở vịnh Bắc Bộ.
Tuổi Eocen của hệ tầng đợc xác định dựa theo các dạng bào tử phấn hoa, đặc
biệt là Trudopollis và Ephedripites. Nguyễn Địch Dỹ (1981) và Phạm Quang Trung
(1998) cho rằng chúng có tuổi Creta-Paleogen, có nhiều khả năng là Eocen. Tuy nhiên,
dựa vào quan hệ nằm dới các trầm tích Oligocen (hệ tầng Đình Cao), nên xếp hệ tầng
Phù Tiên vào Eocen. Hệ tầng đợc thành tạo trong môi trờng sờn tích - sông hồ. Đó
là các trầm tích lấp đầy các địa hào sụt lún nhanh.
Hệ tầng nằm không chỉnh hợp trên đá móng trớc Đệ Tam.
OLIGOCEN
Hệ tầng Đình Cao (E
3
đc)
Hệ tầng mang tên xã Đình Cao, nơi đặt GK. 104 xã Đình Cao huyện Phù Tiên-
Hng Yên. Tại đây, từ độ sâu 2396 đến 3544 m, mặt cắt chủ yếu gồm cát kết màu xám
sáng, xám sẫm đôi chỗ phớt tím, xen các lớp kẹp cuội kết dạng puđing, sạn kết chuyển
lên các lớp bột kết, sét kết màu xám, xám đen, rắn chắc xen ít lớp cuội sạn kết. Các
đờng cong đo địa vật lý lỗ khoan phân dị rõ với giá trị điện trở cao. Bề dày của hệ tầng
ở mặt cắt này là 1148 m.
Hệ tầng Đình Cao phát triển mạnh ở Đông Quan, Thái Thuỵ, Tiền Hải và vịnh
Bắc Bộ, bao gồm cát kết xám sáng, sáng xẫm, hạt nhỏ đến vừa, ít hạt thô, đôi khi gặp
cuội kết, sạn kết có độ lựa trọn trung bình đến tốt. Đá gắn kết chắc bằng xi măng
cacbonat, sét và oxýt sắt. Cát kết đôi khi chứa Glauconit (GK. 104-QN, 107-TPA). Sét
kết xám sáng, xám sẫm có các mặt trợt láng bóng, đôi chỗ có các thấu kính than hoặc
các lớp kẹp mỏng sét vôi, chứa hoá thạnh động vật. Chiều dầy hệ tầng thay đổi từ 300-
1148m.
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Đình Cao đặc trng bằng các phản xạ mạnh,

biên độ cao, độ liên tục trung bình, nằm xiên, gián đoạn xâm thực thể hiện các trầm
tích vụn thô chân núi hay aluvi. Phần dới của mặt cắt có các phản xạ không liên tục,
biên độ trung bình. Đặc biệt còn nhận thấy phần đáy của tập đợc thể hiện bằng các
mặt kề áp, một pha, độ liên tục kém, biên độ cao. Đây chính là mặt bất chỉnh hợp giữa
các hệ tầng Đình Cao và Phù Tiên. ở các giếng khoan 203, 81, 204, 200, 106 các trầm
tích bị vò nhàu và dốc đứng đến 80
0
với chiều giếng khoan.
Trong hệ tầng Đình Cao mới chỉ tìm thấy các vết in lá thực vật, bào tử phấn
hoa, Diatomeae, Pediatrum và động vật nớc ngọt.
Tuổi Oligocen của phức hệ nói trên dựa theo: Cicatricosisporites dorogensis
(LAD trong Oligocen muộn), Lycopodiumsporites neogenicus (chỉ trong Oligocen),
Gothanopollis bassensis (chỉ có trong Oligocen muộn), Florschuetzia trilobata (FAD
trong Eocen/Oligocen).
Hoá thạch động vật thân mềm nớc ngọt Viviparus kích thớc nhỏ. Tuy hóa
thạch này có khoảng phân bố địa tầng rất rộng (Creta-Neogen), nhng rất có ý nghĩa
trong việc đánh dấu đối với trầm tích Oligocen miền trũng Hà Nội, nên đợc dùng để
4
nhận biết hệ tầng Đình Cao là Các lớp chứa Viviparus nhỏ.
Hệ tầng Đình Cao thành tạo trong môi trờng đầm hồ - aluvi. Hệ tầng nằm
không chỉnh hợp trên hệ tầng Phù Tiên.
Điều đáng lu ý là các tập bột kết và sét kết màu xám đen phổ biến ở trũng
Đông Quan và vịnh Bắc Bộ chứa lợng vật chất hữu cơ ở mức độ trung bình (0,54%).
Chúng đợc xem là đá mẹ sinh dầu ở trũng Sông Hồng.
Neogen
Miocen dới
Hệ tầng Phong Châu (N
1
1
pch)

Tại mặt cắt chuẩn của hệ tầng (giếng khoan 100 xã Phong Châu-Thái Bình) từ
1820-3000m. Đặc trng bằng sự xen kẽ liên tục giữa những lớp cát kết hạt vừa, hạt
nhỏ màu xám trắng, xám lục nhạt gắn kết rắn chắc với những lớp cát bột kết phân lớp
rất mỏng từ cỡ mm đến cm tạo thành các cấu tạo dạng mắt, thấu kính, gợn sóng và
đợc gọi là các đá dạng sọc. Cát kết có xi măng chủ yếu là carbonat với hàm lợng cao
(25%). Khoáng vật phụ gồm nhiều glaucomit và pyrit. Bề dày của hệ tầng tại giếng
khoan này đạt tới 1180 m.
Hệ tầng Phong Châu phân bố chủ yếu trong dải Khoái Châu - Tiền Hải (GK.
100) và phát triển ra vịnh Bắc Bộ (GK. 103-TH) (hình 3) với sự xen kẽ giữa các lớp cát
kết, cát bột kết và sét kết chứa dấu vết than hoặc những lớp kẹp đá vôi mỏng (GK. 103-
TH, 103-HOL). Cát kết màu xám đến xám sẫm, hạt nhỏ đến vừa, ít hạt thô, chọn lọc
trung bình đến tốt, xi măng carbonat, ít sét. Sét kết màu xám sáng đến xám sẫm và
nâu đỏ nhạt, phân lớp song song, lợn sóng, với thành phần chủ yếu là kaolinit và ilit.
Bề dày của hệ tầng thay đổi từ 400 đến 1400m.
Trên các băng địa chấn (hình 4), hệ tầng Phong Châu đợc thể hiện bằng các
tập phản xạ song song, độ liên tục tốt, với thế nằm biển tiến trên các khối nâng ở ngoài
khơi vịnh Bắc Bộ. Trong đồng bằng Bắc Bộ, các phản xạ có biên độ cao, gồm 1-2 pha
phản xạ mạnh có thể liên quan đến các lớp sét than.
Phan Huy Quynh, Đỗ Bạt (1985, 1993, 1995) đã thu thập đợc nhiều dạng bào
tử phấn hoa đã xác lập phức hệ Betula-Alnipollenites và đới Florschuetzia levipoli tuổi
Miocen sớm.
Hệ tầng Phong Châu đợc thành tạo trong môi trờng đồng bằng châu thổ (GK.
104) có xen nhiều pha biển (GK. 100) với các trầm tích biển tăng lên rõ rệt từ miền
trũng Hà Nội ra vịnh Bắc Bộ. Hệ tầng nằm không chỉnh hợp trên hệ tầng Đình Cao và
các đá cổ hơn.
Miocen giữa
Hệ tầng Phủ Cừ ((N
1
2
pc)

Hệ tầng Phủ Cừ đợc mô tả lần đầu tại GK. 2 (960 -1180 m) trên cấu tạo Phủ
Cừ miền trũng Hà Nội. Tuy nhiên, khi đó cha gặp đợc phần chân của hệ tầng và
5
mặt cắt đợc mô tả bao gồm các trầm tích đặc trng bằng tính chu kỳ rõ rệt với các lớp
cát kết hạt vừa, cát bột kết phân lớp mỏng (dạng sóng, thấu kính, phân lớp xiên), bột
kết, sét kết cấu tạo khối chứa nhiều hóa thạch thực vật, dấu vết động vật ăn bùn,
trùng lỗ và các vỉa than nâu. Cát kết có thành phần ít khoáng, độ lựa chọn và mài tròn
tốt, khoáng vật phụ ngoài turmalin, zircon, đôi nơi gặp glauconit và granat là những
khoáng vật không thấy trong hệ tầng Phong Châu.
Sau này, Phan Huy Quynh, Đỗ Bạt (1983) và Lê Văn Cự (1985) khi xem xét lại
toàn bộ các mặt cắt của hệ tầng Phù Cừ tại các giếng khoan sâu xuyên qua toàn bộ hệ
tầng (GK. 100, 101, 102, 204) và quan hệ của chúng với hệ tầng Phong Châu nằm dới,
theo quan điểm về nhịp và chu kỳ trầm tích đã chia hệ tầng Phủ Cừ thành 3 phần, mỗi
phần là một nhịp trầm tích bao gồm cát kết, bột kết, sét kết có chứa than và hóa thạch
thực vật. Một vài nơi gặp trùng lỗ và thân mềm nớc lợ.
Các nghiên cứu tiếp theo cho thấy hệ tầng Phù Cừ phát triển rộng khắp trong
trũng Hà Nội, có bề dày mỏng ở vùng Đông Quan và phát triển mạnh ở vịnh Bắc Bộ với
thành phần trầm tích gồm cát kết, sét bột kết, than và đôi nơi gặp các lớp mỏng
carbonat. Cát kết có màu xám sáng đến xám lục nhạt, thờng hạt nhỏ đến vừa, đôi khi
hạt thô (GK.104-QN), chọn lọc trung bình đến tốt, phổ biến cấu tạo phân lớp mỏng,
thấu kính, lợn sóng, đôi khi dạng khối chứa nhiều kết hạch siderit, đôi nơi có
glauconit (các GK. 100, 102, 110, 104, 204, 107-TPA ). Cát kết có xi măng gắn kết
nhiều carbonat, ít sét. Sét bột kết xám sáng đến xám sẫm, chứa rất ít carbonat, ít vụn
thực vật và than nâu (GK. 103-TH) có ít lớp đá carbonat mỏng (GK. 103-TH, 107-PA).
Bề dày chung của hệ tầng thay đổi từ 1500 đến 2000 m
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Phủ Cừ đợc thể hiện bằng các pha sóng phản
xạ có dạng song song hay hỗn độn, biên độ lớn, tần số cao, thờng liên quan đến các
tập chứa than. Ranh giới của hệ tầng với hệ tầng Phong Châu nằm dới có đặc trng
sóng gồm 1 đến 2 pha phản xạ mạnh, biên độ cao, độ liên tục tốt.
Tuổi Miocen giữa của các phức hệ hoá thạch đợc xác định theo Florschuetzia

trilobata với Fl. semilobata và theo Globorotalia mayeri, theo Orbulina universa (N9)
Hệ tầng Phù Cừ đợc hình thành trong môi trờng đồng bằng châu thổ quan
sát thấy ở các giếng khoan trong các vùng Kiến Xơng, Xuân Thuỷ, Tiền Hải, nhng
xen các pha biển chuyển dần sang châu thổ, châu thổ ngập nớc - tiền châu thổ, theo
hớng tăng dần ra vịnh Bắc Bộ.
Hệ tầng Phủ Cừ nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Phong Châu.
Điều đáng lu ý là sét kết của hệ tầng thờng có tổng hàm lợng vật chất hữu
cơ bằng 0,86%, đạt tiêu chuẩn của đá mẹ sinh dầu. Đồng thời cũng chính trong hệ tầng
này đã gặp những lớp đá có độ rỗng 14-16% và độ thấm khoảng vài chục mD. Trên
thực tế trong hệ tầng đã có những vỉa dầu và condensat đã và đang đợc khai thác (mỏ
dầu Tiền Hải C, Thái Bình).
6
MIOCEN TRÊN
Hệ tầng Tiên Hng (N
1
3
th
)
Theo tài liệu khoan, mặt cắt chuẩn hệ tầng Tiên Hng (khoan 4 Tiên Hng-
Thái Bình) từ 250-1010m, bao gồm các trầm tích có tính phân nhịp rõ ràng với các nhịp
bắt đầu bằng sạn kết, cát kết chuyển lên bột kết, sét kết, sét than và nhiều vỉa than
nâu, với bề dày phần thô thờng lớn hơn phần mịn. Số lợng nhịp thấy đợc trong hệ
tầng lên tới 15-18 nhịp. Cát kết, sạn kết thờng gắn kết yếu hoặc cha gắn kết, chứa
nhiều granat, các hạt có độ lựa chọn và mài tròn kém. Trong phần dới của hệ tầng,
các lớp thờng bị nén chặt hơn và gặp cát kết xám trắng chứa kết hạch siderit, xi măng
carbonat. Bề dày của hệ tầng trong giếng khoan này là 760 m.
Thực tế việc xác định ranh giới giữa hệ tầng Tiên Hng và hệ tầng Phủ Cừ
nằm dới thờng gặp nhiều khó khăn do có sự thay đổi tớng đá nh đã nêu trên.
Phan Huy Quynh, Đỗ Bạt (1985) đã phát hiện ở phần dới của hệ tầng một tập cát kết
rất rắn chắc màu xám chứa các vết in lá thực vật phân bố tơng đối rộng trong các

giếng khoan ở trũng Hà Nội, đã coi đây là dấu hiệu chuyển sang giai đoạn trầm tích
lục địa sau hệ tầng Phủ Cừ và đáy của tập cát kết này có thể coi là ranh giới dới của
hệ tầng Tiên Hng.
Hệ tầng Tiên Hng có mặt trong hầu hết các giếng khoan ở trũng Hà Nội và
ngoài khơi vịnh Bắc Bộ với thành phần chủ yếu là cát kết, ở phần trên thờng là cát
kết hạt thô và sạn sỏi kết, sét kết, bột kết, xen các vỉa than nâu. Tuy nhiên, than chủ
yếu gặp phổ biến trong hệ tầng Phủ Cừ nằm dới, còn ở hệ tầng Tiên Hng ít hơn. Mức
độ chứa than giảm đi rõ rệt do trầm tích tam giác châu ngập nớc, với tính biển tăng
theo hớng tiến ra vịnh Bắc Bộ. Các lớp cát kết phân lớp dày đến dạng khối, màu xám
nhạt, mờ đục hoặc xám xanh, hạt nhỏ đến thô, độ chọn lọc trung bình đến kém, chứa
hoá thạch động vật và vụn than nâu, gắn kết trung bình đến kém bằng xi măng
carbonat và sét. Sét bột kết màu xám lục nhạt, xám sáng có chỗ xám nâu, xám đen
(GK.104, 102-HD) chứa vụn than và các hóa thạch, đôi khi có glauconit, pyrit (GK.100,
103-TH). Bề dày của hệ tầng thay đổi trong khoảng 760-3000 m.
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Tiên Hng đợc biểu hiện bằng tập địa chấn có
độ phân lớp kém và phản xạ yếu, trục đồng pha ngắn, biên độ cao, uốn nếp và có nhiều
lớp có biểu hiện của than. Hệ tầng Tiên Hng tiếp xúc với hệ tầng Phủ Cừ nằm dới
bằng mặt bất chỉnh hợp có dấu hiệu biển lùi ở đới nâng cao, với 2 pha phản xạ mạnh
không liên tục.
Hoá thạch tìm thấy trong hệ tầng Tiên Hng gồm các vết in lá cổ thực vật, bào
tử phấn hoa, trùng lỗ và Nannoplankton, đặc biệt có một phức hệ đặc trng gồm
Quercus lobbii, Ziziphus
thấy trong một lớp cát kết hạt vừa dày khoảng 10 m, gặp
trong phần lớn các giếng khoan lấy mẫu ở miền trũng Hà Nội. Lớp cát kết này còn thấy
ở nhiều nơi trên miền Bắc Việt Nam nh Tầm Chả (Na Dơng, Lạng Sơn), Bạch Long
Vĩ, Trịnh Quận (Phú Thọ).
7
Tuổi Miocen muộn của hệ tầng đợc xác định theo phức hệ bào tử phấn
Dacrydium Ilex Quercus Florschuetzia trilobata Acrostichum và Stenochlaena,
cũng nh phức hệ trùng lỗ Pseudorotalia-Ammonia.

Môi trờng trầm tích của hệ tầng Tiên Hng chủ yếu là đồng bằng châu thổ,
xen những pha biển ven bờ (trũng Đông Quan) và tam giác châu ngập nớc phát triển
theo hớng đi ra vịnh Bắc Bộ. Hoàn cảnh trầm tích này tạo nên những lớp cát kết có
độ rỗng 14-16% và độ thấm hàng trăm mD là những lớp có khả năng chứa dầu khí tốt.
Hệ tầng nằm không chỉnh hợp trên hệ tầng Phủ Cừ.
PLIOCEN
Hệ tầng Vĩnh Bảo (N
2

vb)
Nằm bất chỉnh hợp trên trầm tích Miocen, hệ tầng Vĩnh Bảo đánh dấu giai
đoạn phát triển cuối cùng của trầm tích Đệ tam trong vùng trũng Hà Nội - vịnh Bắc Bộ
cũng nh trên toàn thềm lục địa Biển Đông. Tại mặt cắt trong GK. 3 ở Vĩnh Bảo, Hải
Phòng từ 240-510m, có thể chia hệ tầng Vĩnh Bảo làm 2 phần: phần dới chủ yếu là
cát, hạt mịn màu xám, vàng chanh, phân lớp dày, có độ lựa chọn tốt, đôi nơi có những
thấu kính hay lớp kẹp cuội, sạn hạt nhỏ xen kẽ; phần trên có thành phần bột tăng dần.
Bề dày chung của hệ tầng tại giếng khoan này đạt khoảng 270 m. Trong đá gặp nhiều
hóa thạch động vật biển nh thân mềm, san hô, trùng lỗ.
Hệ tầng Vĩnh Bảo đã đợc phát hiện trong tất cả các giếng khoan; từ GK.3 (ven
biển) tiến vào đất liền tính lục địa của trầm tích tăng lên, và hệ tầng mang đặc điểm
châu thổ chứa than (GK. 2, Phủ Cừ). Ngợc lại, tiến ra phía biển trầm tích mang tính
thềm lục địa rõ: cát bở rời xám sáng đến xám sẫm, hạt nhỏ đến vừa, đôi khi thô đến rất
thô, chọn lọc trung bình đến tốt xen với sét màu xám, xám xanh, mềm, chứa mica,
nhiều pyrit, glauconit và phong phú các mảnh vỏ động vật biển, thấy ở tất cả các giếng
khoan (GK. 104-QN, 103-TH, 107-PA). Hệ tầng Vĩnh Bảo có chiều dày từ 200 đến 500
m và tăng dần ra biển.
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng đợc thể hiện bằng các phản xạ song song hoặc
gần song song, nằm ngang, tần số cao, biên độ trung bình, độ liên tục tốt. Ngoài vịnh
Bắc Bộ các phản xạ song song thể hiện rõ, biên độ lớn, độ liên tục tốt. ở phần đáy của
hệ tầng, nơi tiếp xúc với hệ tầng Tiên Hng, thấy mặt bất chỉnh hợp rõ từ các mặt gián

đoạn bào mòn ở trũng Hà Nội đến các dạng biển tiến ở phần trung tâm vịnh Bắc Bộ.
Tuổi của hệ tầng đợc xác định là Pliocen trong khoảng N18-N20 dựa theo
trùng lỗ Globigerina bulloides (N5-N20), Globigerina nepenthes (N14-N19),
Globigerinoides ruber (N18-N23), Globigerinoides conglobatus (N18-N23), và phức hệ
bào tử phấn hoa Liquidambar-Dacrydium với sự có mặt của Florschuetzia levipoli, Fl.
Meridionalis.
Hệ tầng Vĩnh Bảo chủ yếu hình thành trong môi trờng thềm biển, riêng khu
vực rìa TB và TN của trũng Hà Nội trầm tích tích tụ trong điều kiện đồng bằng châu
thổ có ảnh hởng của biển. Hệ tầng nằm không chỉnh hợp trên hệ tầng Tiên Hng.
8

2.1.2. Trũng Huế - Quảng Ngãi (Nam bể Sông Hồng)
PALEOGEN
Oligocen
Hệ tầng Bạch Trĩ (E
3

bt)
Mặt cắt chuẩn của hệ tầng nằm trong giếng khoan Bạch Trĩ (K.112-BT) (hình
5,6) thuộc địa hào Huế. Tại đây, từ độ sâu 3667m đến 3936 m hệ tầng phủ không chỉnh
hợp trên dolomit tuổi Đevon. Mặt cắt gồm chủ yếu là sét bột kết xen các tập cát kết hạt
nhỏ đến vừa màu xám, xám nâu và ít lớp kẹp mỏng than nâu. Đá sét rất rắn chắc,
phân lớp mỏng đến trung bình màu xám, xám sẫm, chứa các mảnh vụn than hoặc vật
chất hữu cơ. Cát kết hạt nhỏ đến trung bình, bán góc cạnh đến bán tròn cạnh, chọn lọc
trung bình đến tốt, màu xám sáng, xám nâu nhạt gắn kết rắn chắc bằng xi măng sét,
carbonat. Bề dày chung của hệ tầng là 269 m. Đây là trầm tích đợc thành tạo trong
môi trờng aluvi, đầm hồ và đồng bằng châu thổ.
Phát triển xuống phía nam, ở lô 114 (GK. 114-KT) (hình 7) hệ tầng có thành
phần cát kết nhiều hơn và xen các lớp sét kết. Chuyển sang địa hào Quảng Ngãi, tại
các lô 118 và 119 gặp những lớp đá lục nguyên tơng đối dày (>200 m) chủ yếu gồm cát

kết hạt vừa, thô, đến rất thô hoặc đôi khi gặp sạn và cuội kết, xen ít lớp sét bột kết và
những vỉa than nâu (K. 118-CVX). Trong cát kết, hạt vụn thờng bán góc cạnh đến
bán tròn cạnh, độ lựa chọn và mài tròn kém đến trung bình, gắn kết chắc bằng xi
măng sét-carbonat. Bề dày của hệ tầng thay đổi trong khoảng 100-300 m. Các trầm
tích này hình thành trong điều kiện nón bồi tích, đồng bằng tam giác châu ven biển
ảnh hởng của các dòng chảy.
Theo các tài liệu địa chấn, hệ tầng Bạch Trĩ tơng ứng với tập địa chấn gồm các
phản xạ không liên tục, biên độ cao, tần số thấp đến trung bình ở phần dới chuyển lên
trên phản xạ khá liên tục, biên độ cao, tần số trung bình còn ở địa luỹ Tri Tôn, trầm
tích này rất mỏng, chủ yếu tồn tại ở một vài lõm địa phơng nhỏ, đặc trng bởi các
phản xạ hỗn độn, tần số thấp liên quan chủ yếu đến tính lục địa của trầm tích. Đáng
lu ý tại khu vực khoan 114-KT mặc dù đã phát hiện thấy các hoá thạch định tuổi
trầm tích là Oligoxen, nhng trên mặy cắt địa chấn không thể hiện đặc điểm và rất
khó liên hệ vào các trầm tích tuổi này. Đây là vấn đề cần phải nghiên cứu chi tiết hơn.
Tuổi Oligocen của phức hệ này đợc xác định theo sự xuất hiện cuối cùng (LAD)
của
Cicatricosisporites dorogensis
,
Lycopodiumsporites neogenicus
,
Verrutricolporites
pachydermus, Gothanipolis
và theo sự xuất hiện đầu tiên (FAD) của
Florschuetzia
trilobata
Hệ tầng Bạch Trĩ đợc thành tạo trong môi trờng đầm hồ - vũng vịnh, giàu vật
chất hữu cơ có khả năng sinh dầu khí. Nó nằm không chỉnh hợp trên đá móng nh
dolomit Devon, quan sát thấy ở giếng khoan Bạch Trĩ.
9
NEOGEN

Miocen dới
Hệ tầng Sông Hơng (N
1
1
sh)
Hệ tầng phân bố khá rộng rãi trong các địa hào Huế và Quảng Ngãi. Theo tài
liệu khoan ở mặt cắt chuẩn (GK.112-BT) tại địa hào Huế, hệ tầng chủ yếu gồm sét bột
kết màu xám, xám sáng, xám nâu cứng chắc chứa vôi, vụn than nâu và đôi khi vỏ
trùng lỗ, xen các lớp cát kết rất mỏng, màu xám sáng; đặc biệt thỉnh thoảng có xen kẽ
các lớp kẹp đá vôi, nhất là ở phần trên của mặt cắt (trong khoảng 2437-2925 m) với bề
dày đạt tới 25 m. Bề dày chung của hệ tầng ở giếng khoan này đạt 1230 m.
Về phía Nam các trầm tích lục nguyên xen đá vôi tơng tự cũng thấy phát triển
trong địa hào Quảng Ngãi. Còn trên địa luỹ Tri Tôn, hệ tầng lại chủ yếu là đá vôi và
dolomit (K.118-CVX, 119-CH) (hình 8); đá có màu xám nhạt, xám xanh và rắn chắc;
chúng thờng liên quan đến các trầm tích thềm biển, nhng rất ít di tích sinh vật, tỷ lệ
dolomit tăng dần theo chiều sâu.
Bề dày của hệ tầng Sông Hơng theo tài liệu khoan thay đổi từ 100 đến 1230 m,
còn theo tài liệu địa chấn có thể dày hơn. Tập địa chấn tơng ứng với hệ tầng Sông
Hơng gồm các lớp phản xạ khá đều, song độ liên tục giảm, đôi chỗ có phản xạ mang
đặc trng của trầm tích đồng bằng ven biển xen các vỉa than, còn các phản xạ liên
quan đến đá vôi và dolomit thờng không liên tục và trắng. Hệ tầng nằm không chỉnh
hợp trên hệ tầng Bạch Trĩ.
Tuổi Miocen sớm của hệ tầng đợc xác định theo sự phong phú của
Echiperiporites estelae, Magnastriatites howardii, Crassoretitriletes nanhaiensis, các
đới trùng lỗ N5-N8 với Praeorbulina, Catapxydrax và các đới Nannoplankton NN2-
NN4 với Discoaster druggii, Helicosphaera ampliaperta, cùng với các dạng
Dinoflagellata: Cribroperidinium, và Apteodinium.
Môi trờng trầm tích của hệ tầng Sông Hơng chủ yếu thuộc vùng đồng bằng
ven biển và thềm biển. Hệ tầng nằm không chỉnh hợp trên hệ tầng Bạch Trĩ.
Miocen giữa

Hệ tầng Tri Tôn (N
1
2
tt)
Mặt cắt chuẩn đợc chọn ở giếng khoan 119-CH từ độ sâu 1454-2165 m, bao
gồm thuần đá vôi màu xám sáng, vàng, xám nâu, xám sẫm chứa rong tảo, trùng lỗ
kích thớc lớn và san hô. Đá có kiến trúc từ hạt vi tinh, hạt nhỏ đến ẩn tinh, ít nơi tái
kết tinh; cấu trúc thờng dạng khối, ít phân lớp, với đặc tính độ rỗng và độ thấm rất
tốt. Chúng có độ cứng trung bình, đôi chỗ rắn chắc. Bề dày của hệ tầng ở giếng khoan
này là 711 m.
Phát triển xuống các trũng Huế và Quảng Ngãi, hệ tầng Tri Tôn chuyển sang
trầm tích lục nguyên, trong đó sét bột kết chiếm u thế, xen ít cát kết. Chúng có màu
xám, xám sáng, chứa vôi, gắn kết trung bình đến cứng. Bề dày của hệ tầng thay đổi
10
trong khoảng 300-1000 m. Các trầm tích trên thuộc tớng biển nông, ven bờ.
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng đợc đặc trng bằng sóng địa chấn phản xạ song
song, biên độ cao đối với các tập đá vôi ở địa luỹ Tri Tôn, còn ở các trũng Huế và Quảng
Ngãi thờng thấy sóng có biên độ lớn, tần số cao thể hiện các đá lục nguyên. Tín hiệu
địa chấn thay đổi từ tây sang đông, liên quan đến trầm tích môi trờng thềm và sờn
thềm khá rõ (hình 9,10).
Hệ tầng Tri Tôn nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Sông Hơng. Các trầm tích của hệ
tầng đợc thành tạo trong môi trờng biển nông, thềm biển và đồng bằng ven biển. Hệ
tầng đợc xếp vào Miocen giữa dựa vào hoá thạch cổ sinh. Đáng lu ý là các phức hệ
cổ sinh trong khu vực có sự khác biệt: phức hệ Miogypsina-Lepidocyclina, Orbulina
universa với các tảo không xác định chỉ tìm thấy trong đá vôi ở các giếng khoan trên lô
118-121, trong khi bào tử phấn hoa và Nannoplankton tìm thấy trong trầm tích lục
nguyên ở các trũng Huế và Quảng Ngãi.
Trong đá vôi thuộc các lô 118, 119 đã phát hiện đợc các vỉa khí có hàm lợng
khí CO
2

cao.
Miocen trên
Hệ tầng Quảng Ngãi (N
1
3
qn)
Mặt cắt chuẩn của hệ tầng Quảng Ngãi đợc mô tả trên cơ sở tài liệu GK. 119-
CH nằm ngay ven rìa địa hào Quảng Ngãi, từ độ sâu 790 m đến 1454 m. Tại đây, hệ
tầng bao gồm chủ yếu là sét kết xen kẽ các lớp mỏng bột kết, cát kết và ít đá vôi, chứa
vật chất than, pyrit, glauconit. Sét kết màu từ xám sáng đến xám sẫm, độ cứng trung
bình, đôi chỗ rắn chắc, dạng khối. Bột kết màu xám, xám sẫm, nâu, phân lớp dày đến
dạng khối, xi măng là sét và carbonat. Cát kết màu xám trắng, xám nâu, hạt thờng
mịn, bán tròn cạnh, độ lựa chọn từ vừa đến tốt. Thành phần hạt chủ yếu là thạch anh,
xi măng là sét, carbonat. Đá vôi ở các lớp kẹp mỏng màu xám sáng, xám vàng, cứng
vừa đến chắc, dạng khối, có chỗ dày 0,5-2 m (GK. 120-CS) chứa sét bột và phong phú
động vật biển. Bề dày của hệ tầng ở giếng khoan này là 664m.
Hệ tầng Quảng Ngãi phát triển tơng đối đều khắp toàn vùng trũng, có chiều
dày thay đổi trong khoảng 500-800 m.
Trên mặt cắt địa chấn, đây là tập địa chấn có các phản xạ song song, độ liên tục
tốt, biên độ trung bình đến lớn, tần số cao. Môi trờng thành tạo của hệ tầng thay đổi
từ đồng bằng châu thổ đến biển ven bờ, biển sâu. Quan hệ với hệ tầng Tri Tôn đợc thể
hiện là mặt bất chỉnh hợp biển tiến với hai pha phản xạ mạnh không liên tục và có
gián đoạn bào mòn ở gần các đứt gãy chính.
Sự phong phú của Dacrydium và FAD của Stenochlaena laurifolia cùng với
LAD của Fl. trilobata giúp xác định tuổi Miocen muộn. Thêm vào đó, các Foram và các
Nannoplankton thuộc các đới tuổi Miocen muộn cũng đã đợc xác định theo Discoaster
quinqueramus (NN10-NN11.)
Hệ tầng Quảng Ngãi thành tạo trong môi trờng đồng bằng ven biển, biển
11
nông, thềm lục địa và biển sâu. Các trầm tích này nằm không chỉnh hợp trên hệ tầng

Tri Tôn.
PLIOCEN
Hệ tầng Biển Đông (N
2
bđ)
Khu vực Nam bể Sông Hồng mặt cắt đặc trng cho hệ tầng đợc chọn tại GK.
114-KT từ độ sâu 759 đến 1084 m. Hệ tầng có thành phần chủ yếu là sét, bột kết xám,
ít sét vôi màu xám sáng đến xám đỏ, mềm bở và cát bở rời, màu xám đến xám sẫm, hạt
mịn đến trung bình, độ lựa chọn trung bình, bán sắc cạnh đến tròn cạnh, thành phần
hạt chủ yếu là thạch anh, chứa các ổ vôi. Trong sét kết và cát có nhiều vỏ hoá thạch
trùng lỗ, thân mềm, rêu động vật, vv Bề dày của hệ tầng ở giếng khoan này đạt 325
m.
Hệ tầng Biển Đông phủ kín toàn khu vực Nam bể Sông Hồng. Nhìn chung, mặt
cắt ở các nơi có nét tơng tự với mặt cắt đặc trng của hệ tầng mô tả bên trên, thể hiện
một giai đoạn phát triển trầm tích giống nhau trong khu vực này.
Mặt cắt địa chấn của hệ tầng dễ dàng liên hệ với khu vực phía bắc (vịnh Bắc
Bộ) và phía nam (các bể Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn). Đó là các tập phản xạ
song song hoặc gần song song, nằm ngang, biên độ lớn, độ liên tục tốt, liên quan đến
các trầm tích sét, bột của vùng biển khơi nông đến biển sâu. ở đáy của tập này thấy rõ
mặt gián đoạn bào mòn và thế nằm dạng biển tiến liên quan đến mặt bất chỉnh hợp
giữa các hệ tầng Biển Đông và Quảng Ngãi.
Tuổi của trầm tích đợc xác định theo hoá thạch Bào tử phấn hoa thuộc phức
hệ Dacrydium- Florschuetzia meridionalis và hoá thạch trùng lỗ khá phong phú và
gồm các loài của Pseudorotalia, Asterorotalia, Gobigerinoides. ruber (N18-N23), Gl.
obliquus (N17-N21), Globorotalia margaritae (N18-N20) cũng nh hoá thạnh
Nannoplankton Ceratholithus rugosus, Cyclococcolithus formosus, Discoaster argutus,
Discoaster broweri, Calcidiscus macintyrei, Reticulofenestra pseudoumbilica thuộc các
đới NN12-NN15 tuổi Pliocen.
Môi trờng trầm tích của hệ tầng Biển Đông ở khu vực này thuộc tớng biển
nông đến sâu, liên quan đến sự phát triển của thềm lục địa Biển Đông. Hệ tầng nằm

không chỉnh hợp trên hệ tầng Quảng Ngãi.
2.2. Địa tầng trầm tích Kainozoi bồn Phú khánh
Hiện cha có khoan ở khu vực này nhng theo kết quả minh giải tài liệu địa
chấn khu vực cùng một số tuyến trong vùng (hình 11), liên kết với tài liệu địa chất
giếng khoan lân cận ở bể Cửu Long, Nam Côn Sơn và Nam Sông Hồng cho phép dự
đoán trầm tích Kainozoi phủ chồng gối trên móng là đá biến chất, đá granit,
granodiorit tuổi trớc Đệ Tam (PZ, MZ). Trầm tích Đệ tam có chiều dày thay đổi 500m
dọc theo rìa phía Tây đến 7000 - 8000m ở các trũng sâu phía Đông của bồn, chúng bao
12
gồm:
- Các trầm tích Eoxen? Chủ yếu là trầm tích hạt thô, sạn cuội kết ở đáy các địa
hào và bán địa hào đợc phản ánh trong tập địa chấn Eoxen, với các sóng địa chấn có
độ liên tục kém, biên độ trung bình đến cao, có thể có các vật liệu núi lửa xen trong các
trầm tích lục địa aluvi.
- Các trầm tích Oligoxen phủ bất chỉnh hợp trên các trầm tích Eoxen và bao
gồm các trầm tích mịn hơn gồm cát, sét, ít lớp than và tập cuội sạn. Trên mặt cắt địa
chấn trầm tích này đợc xếp vào tập Oligoxen. Sóng phản xạ có độ liên tục kém, biên
độ trung bình, tần số thấp, có nơi phản xạ dạng gò đồi. Môi trờng trầm tích chủ yếu là
đầm hồ, châu thổ và ít chỗ ven biển.
- Các trầm tích Mioxen chủ yếu là các trầm tích lục nguyên, châu thổ, xen các
pha biển và biển nông. Phần trũng phía Đông phát triển đá vôi dạng thềm, đá vôi ám
tiêu. Có thể phân ra trầm tích Mioxen dới, giữa và muộn theo các tập địa chấn sau:
Trầm tích Mioxen sớm phản xạ á song song đến song song , biên độ thấp đến
cao độ liên tục trung bình, dạng dốc thoải. Phía Bắc có dạng nêm lấn dự báo quạt châu
thổ hoặc quạt aluvi. Phản xạ biên độ cao dự báo carbonat thềm.
Trầm tích Mioxen giữa phản xạ song song, biên độ cao, dự báo carbonat thềm ở
phía đông. Phía tây mỗi tập gồm các thành phần liên quan đến mực nớc biển thấp,
mực nớc biển cao và biển tiến.
Trầm tích Mioxen trên đặc trng phản xạ phát triển dạng chữ S nêm lấn rìa
thềm phát triển mạnh từ phía bắc xuống phía đông. Phía tây là các phản xạ song song,

biên độ thấp đến trung bình , độ liên tục kém. Trầm tích tớng ven bờ và thềm trong.
Trầm Plioxen Đệ tứ là các trầm tích cát, bột, sét thềm và biển sâu liên quan
đến quá trình hình thành toàn bộ thềm lục địa Biển Đông. Mặt cắt địa chấn đợc dễ
dàng liên hệ với các tập Plioxen - Đệ tứ trong khu vực. ở phía Đông tập nêm lấn dày,
đặc trng trầm tích sờn thềm, phía tây phản xạ song song, độ liên tục tốt, biên độ
trung bình, tần số thấp vận tốc lớp V
L
= 1800 - 2100m/s liên quan đến tớng trầm tích
thềm trong đến ngoài trong toàn khu vực.
2.3. Địa tầng trầm tích Kainozoi nhóm bồn hoàng sa và
trờng sa
ở khu vực này cha có giếng khoan, tuy vậy theo tài liệu địa chấn về tổng thể
có thể hình dung địa tầng của các khu vực này nh sau:
Các trầm tích Đệ tam bao gồm lục nguyên lục nguyên carbonat có chiều dày 1
đến 7- 8km, phủ trên đá móng trớc Đệ tam có thể là các đá xâm nhập granit,
granodiorit, đá phun trào và các đá trầm tích biến chất Paleozoi, Mezozoi
Trầm tích Eoxen? Oligoxen: Đặc trng bằng các tập sét xen lẫn than hình
thành trong điều kiện đầm hồ đôi chỗ gặp các thành tạo sạn cuội kết và trầm tích có
13
nguồn gốc núi lửa.
Trầm tích Mioxen sớm: Đặc trng bằng các tập cát - sét xen kẽ hình thành
trong điều kiện biển ven bờ hoặc đồng bằng châu thổ.
Trầm tích Mioxen giữa đặc trng bằng các tập cát sét xen kẽ hình thành trong
điều kiện biển ven bờ, ở các đới cao đặc trng bằng đá vôi dạng thềm hoặc ám tiêu san
hô. Phần dới lát cắt chủ yếu là các thành tạo lục nguyên.
Trầm tích Mioxen trên bao gồm các trầm tích sét bột xen ít các tập cát tớng
biển. Tại các đới cao đá vôi dạng thềm, san hô phát triển mạnh. Bề dày trầm tích này
đạt khoản 650m. Trầm tích Plioxen- Đệ tứ : sét, bột xen cát tớng biển thềm, biển sâu.
Tại các đới cao đá vôi dạng thềm và ám tiêu phát triển lên đến bề mặt đáy biển.
2.4. Địa tầng trầm tích Kainozoi bồn t chính vũng mây

T Chính Vũng Mây là bể trầm tích mới đợc nghiên cứu phát hiện trên cơ sở
tài liệu địa chấn - Hiện vị trí của bể trong cấu trúc chung còn nhiều tranh luận. Trong
khu vực có duy nhất một giếng khoan. Ttrên cơ sở đó Đỗ Bạt và Ngô Xuân Vinh (2000)
đã nghiên cứu và xây dựng cột địa tầng tổng hợp của bể nh sau: (hình 12).
Móng trớc Đệ tam là các đá riolit, andezit và đá bị biến đổi và nứt nẻ mạnh.
Phủ bất chỉnh hợp trên chúng là trầm tích hệ tầng Vũng Mây (E
3
?) gồm các đá lục
nguyên cát kết, sét kết rắn chắc có các mảnh vụn than. Hệ tầng T Chính (N
1
2
) các
trầm tích lục nguyên cuội, cát, bột, sét kết và các lớp than chuyển lên phần trên là đá
vôi ám tiêu và dạng nêm màu trắng trắng xám chứa
Florschuetzia trilobata, F.
meridionalis
và các Foram lớn
Lepidocyclina, Miogypsina
. Hệ tầng Phúc Tân (N
1
3
) gồm
đá vôi ám tiêu, và dạng nền màu trắng có nhiều hang hốc phát triển chứa các bào tử
phấn
Florschuetzia meridionalis Antocerisporites
, và các Foram lớn
Lepidocyclina,
Miogypsina.
Hệ tầng Trờng Sa (N
2

) bao gồm đá vôi ám tiêu san hô, đá vôi sinh vật
dạng khối màu trắng chứa phong phú các vụn sinh vật, san hô tảo trùng lỗ tơng
đơng hệ tầng Biển Đông của khu vực.
Nh vậy mặt cắt của giếng khoan này cha phát hiện đợc các trầm tích
Mioxen sớm mà chắc chắn tồn tại nhng không phổ biến trong toàn bể.
2.5. Địa tầng trầm tích Kainozoi bồn cửu long
PALEOGEN
Eocen
Hệ tầng Cà Cối (E
2
cc)
Mặt cắt chuẩn của hệ tầng Cà Cối đợc xác lập tại giếng khoan Cửu Long 1,
làng Cà Cối, Huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh ở đồng bằng Nam Bộ trong khoảng độ sâu
1220-2100 m.
14
Hệ tầng chủ yếu gồm các đá vụn thô màu xám trắng, nâu đỏ, đỏ tím, nh cuội
kết, sạn kết, cát kết hạt vừa và thô đến rất thô chứa cuội sạn và ít lớp sét kết. Các
trầm tích này nằm bất chỉnh hợp trên móng là đá phun trào (andesit và tuf andesit) có
tuổi trớc Kainozoi (hình 13).
Cuội kết, sạn kết và cát kết thờng có cấu tạo dạng khối hoặc phân lớp rất dày,
độ lựa chọn kém, gắn kết yếu. Thành phần chính của cuội và sạn là các đá phun trào
(andesit, tuf andesit, dacit, ryolit), đá biến chất (quarzit, đá phiến mica), đá vôi và ít
mảnh granitoid. Đây là các trầm tích thành tạo trong môi trờng lục địa (deluvi,
proluvi, aluvi ) trong điều kiện năng lợng cao của thời kỳ đầu sụt lún, tách giãn hình
thành các địa hào, do vậy diện phân bố của chúng chắc chắn chỉ giới hạn ở sờn của
một số hố sụt sâu của bể Cửu Long. Bề dày của hệ tầng tại giếng khoan Cửu Long là
880 m.
Nhìn chung mặt cắt địa chấn từ đất liền ra phía đông của bể gồm 2 phần: phần
trên có phản xạ hỗn độn hoặc dạng vòm, biên độ cao, tần số thấp, độ liên tục kém đến
tốt; phần dới phản xạ không phân dị, lộn xộn, biên độ cao, tần số thấp, độ liên tục

kém, trầm tích aluvi - đầm hồ.
Tại một số nơi, nh ở cấu tạo Sói cũng phát hiện một tập cuội kết, sạn kết và
cát kết hạt thô dạng khối dày tới 339 m phủ bất chỉnh hợp trực tiếp trên đá móng
granitoid tuổi Jura. Cuội sạn kết có độ lựa chọn và mài tròn kém, tuy nhiên chúng có
độ gắn kết tốt hơn do nằm ở độ sâu lớn hơn và thành phần cuội sạn chủ yếu gồm
granitoid có thành phần gần tơng tự các đá móng nằm dới nó. Các tập trầm tích hạt
thô nh đã mô tả theo thành phần và tớng, có lẽ những thành tạo này đợc lắng đọng
từ sản phẩm của vỏ phong hoá granitoid nằm cách không xa nguồn vật liệu trong điều
kiện năng lợng rất cao ở thời kỳ đầu của quá trình tách giãn và sụt lún.
Theo tài liệu địa chấn, hệ tầng Cà Cối phủ bất chỉnh hợp trên các thành tạo
trớc Đệ tam. Bề dày hệ tầng ở vùng cửa sông Hậu khoảng 1000 m, ở trung tâm của bể
có thể dày hơn. Hệ tầng chỉ phân bố hạn chế trong các lõm sụt sâu nên ở các giếng
khoan ít khi bắt gặp. Các di tích cổ sinh nghèo nàn, chỉ có bào tử phấn, tạo thành phức
hệ Trudopollis - Plicapollis. Hiện phức hệ này mới tìm thấy ở lỗ khoan Cửu Long 1
(trong khoảng 1255-2100 m), gồm Cicatricosisporites, đặc biệt có Trudopollis và
Plicapollis là những dạng định tuổi Eocen cho trầm tích chứa chúng.
Hệ tầng Cà Cối nằm không chỉnh hợp trên đá móng.
Oligocen dới
Hệ tầng Trà Cú (E
3
1
tc)

Hệ tầng Trà Cú đợc xác lập tại giếng khoan CL-1 thuộc vùng Cà Cối, huyện
Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Tại đây, trong khoảng độ sâu 1082-1220 m. Hệ tầng Trà Cú đặc
trng bằng sự xen kẽ giữa cát, sỏi kết với những lớp bột sét chứa cuội, sạn, sỏi. Hạt
cuội sạn có thành phần thạch học khác nhau, chủ yếu là andesit và granit. Bề dày của
hệ tầng ở giếng khoan CL-1 đạt 138 m.
15
Vào vùng trung tâm bể Cửu Long, thành phần trầm tích của hệ tầng Trà Cú

mịn dần và lúc đầu chúng đợc xếp vào phần dới của hệ tầng Trà Tân. Chúng phần
lớn là các lớp sét kết giàu vật chất hữu cơ, sét kết chứa nhiều vụn thực vật và sét kết
chứa than (chiếm khoảng 60-90% mặt cắt) đôi khi có các lớp than màu đen, tơng đối
rắn chắc. Phần lớn đá sét bị biến đổi thứ sinh và nén ép mạnh thành đá phiến sét màu
xám sẫm, xám lục hoặc xám nâu, xen với các lớp mỏng bột kết và cát kết, đôi khi có các
lớp sét vôi. Thành phần của tập sét kết này gồm kaolinit, ilit và chlorit, nhiều nơi phủ
trực tiếp lên móng (vòm trung tâm mỏ Bạch Hổ, Rạng Đông) và đóng vai trò là một
tầng chắn tốt mang tính địa phơng cho các vỉa chứa dầu trong đá móng ở mỏ Bạch
Hổ, TN Rồng, Rạng Đông, S Tử Đen v.v. (hình 14).
Hệ tầng Trà Cú hình thành trong các điều kiện môi trờng trầm tích khác nhau
từ sờn tích, lũ tích, bồi tích, sông, kênh lạch đến đầm hồ, vũng vịnh.
Hệ tầng Trà Cú có bề dày đo đợc trong giếng khoan thay đổi từ 100 đến 500 m
ở các vòm nâng, còn ở các trũng địa hào đạt tới trên 1000 m. Theo tài liệu địa chấn, hệ
tầng đợc thể hiện bằng tập địa chấn mà Công ty liên doanh Vietsopetro thờng gọi là
tập E. Nó ứng với phần dới tập địa chấn rất ít phân dị, độ liên tục kém, biên độ khá
lớn, tần số thấp, không có quy luật phân lớp, thờng phủ bất chỉnh hợp trực tiếp trên
các đá móng.
Tài liệu cổ sinh trong hệ tầng rất nghèo nàn; mới chỉ phát hiện thấy ít bào tử
phấn hoa l Magnastriatites howardi, Verrucatosporites, Triletes, Pinuspollenites,
Oculopollis tuổi Eocen - Oligocen, xác định theo Oculopollis (LAD trong Eocen muộn)
và Magnastriatites howardi (FAD trong Eocen muộn). Tuy nhiên, dựa trên quan hệ địa
tầng nằm trên hệ tầng Cà Cối (Eocen), hệ tầng Trà Cú đợc coi là có tuổi Oligocen sớm.
Hệ tầng nằm không chỉnh hợp có nơi trên hệ tầng Cà Cối, có nơi trên đá móng.
Oligocen giữa - trên
Hệ tầng Trà Tân (E
3
2-3
tt
)
Hệ tầng Trà Tân lần đầu tiên đợc mô tả tại giếng khoan 15A-IX đặt trong cấu

tạo Trà Tân ở khoảng độ sâu 2535 - 3038 m. Tại đây, trầm tích chủ yếu bao gồm cát
kết hạt nhỏ đến vừa màu xám trắng, xi măng carbonat, chuyển dần lên trên có nhiều
lớp bột kết, sét kết màu nâu và đen, xen các lớp mỏng than, có chỗ chứa glauconit. Đá
biến đổi ở giai đoạn catagen muộn. Đờng cong địa vật lý lỗ khoan có điện trở rất cao ở
phần dới và thấp ở phần trên; còn đờng gamma thì ngợc lại. Bề dày của hệ tầng ở
giếng khoan này đạt 503 m.
Hệ tầng Trà Tân phân bố rộng rãi hơn so với hệ tầng Trà Cú và có bề dày thay
đổi khá mạnh ở các vùng khác nhau của bể. Nhìn chung, có lẽ vào thời kỳ thành tạo hệ
tầng này địa hình cổ của móng trớc Đệ tam ít nhiều đã đợc san bằng hơn so với thời
kỳ trớc. Trong điều kiện cổ địa lý nh vậy, mặt cắt hệ tầng Trà Tân có sự xen kẽ giữa
sét kết (chiếm 40-70% mặt cắt, đặc biệt là các lô ở phần ĐB của bể), bột kết, cát kết và
ở nhiều nơi thấy xuất hiện các lớp đá phun trào có thành phần khác nhau.
16
Hệ tầng Trà Tân đợc tạo thành trong điều kiện môi trờng không giống nhau
giữa các khu vực; từ điều kiện sông bồi tích, đồng bằng châu thổ, đầm lầy - vũng vịnh
đến xen kẽ các pha biển nông. Thành phần trầm tích chủ yếu là sét giàu vật chất hữu
cơ và các tàn tích thực vật thuộc tớng đầm hồ, đầm lầy vũng vịnh chịu ảnh hởng của
biển ở các mức độ khác nhau, phát triển tơng đối rộng rãi trong hầu hết khu vực, đặc
biệt là từ phần trung tâm của bể kéo dài về phía ĐB, nơi ảnh hởng của môi trờng
biển ngày một tăng lên. Trong khi đó, tỷ lệ cát chiếm u thế, xen kẽ sét, bột thuộc môi
trờng bồi tích, sông, đồng bằng châu thổ gặp tơng đối phố biến tại đới nâng trung
tâm (cấu tạo Bạch Hổ và ĐN Rồng) và phần lớn lô 16, 17 ở rìa bắc và phần TB của bể.
Nhìn chung, hệ tầng Trà Tân có bề dày quan sát theo giếng khoan thay đổi từ
400 đến 800 m, còn ở các nơi trũng có thể đạt đến 1500 m. Trên mặt cắt địa chấn, hệ
tầng đặc trng bằng tập địa chấn mà phần dới là những vùng phản xạ gần nh trắng,
biên độ thấp với tần số trung bình đến cao, còn ở phía trên phản xạ có biên độ liên tục
tốt, tần số trung bình, biên độ khá, phân lớp tốt. Phần phía tây, ở các lô 16, 17 tập địa
chấn có phản xạ song song, biên độ vừa đến mạnh, độ liên tục trung bình đến tốt, tần
số thấp. Phần trung tâm có phản xạ song song, phân kỳ, vắng mặt ở các đới nâng (nh
ở mỏ Rồng), vận tốc lớp đạt 3100-3600 m/s, tỷ lệ cát/sét thấp, đờng điện trở cao. Các

đặc trng trên phản ánh các trầm tích đầm hồ (hình 15, 16, 17).
Tuổi Oligocen giữa-muộn của hệ tầng Trà Tân đã đợc xác định theo
Cicatricosisporites, Verrutricolporites pachydermus và Florschuetzia trilobata.
Đặc biệt hệ tầng chứa nhiều vật liệu hữu cơ dạng sapropel vô định hình, dạng
vật liệu hữu cơ nảy sinh trong điều kiện hồ không có oxy. Tính chất này Morley gọi là
"tớng sapropel" trong khi phân tích các giếng khoan trên lô 15. Ngoài ra còn gặp
nhiều Tảo nớc ngọt nh Pediastrum, Bosidinia.
Hệ tầng Trà Tân nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Trà Cú.
NEOGEN
Miocen dới
Hệ tầng Bạch Hổ (N
1
1
bh)
Mặt cắt chuẩn của hệ tầng Bạch Hổ đợc mô tả tại giếng khoan BH1, từ độ sâu
2037 đến 2960 m. Mặt cắt gồm 2 phần: phần dới chủ yếu là sét kết, cát kết phân lớp
mỏng màu xám đen, xám xanh, chuyển lên trên hàm lợng cát kết tăng dần và xen các
lớp bột kết màu xám đến nâu. Phần trên chủ yếu là sét kết màu xám nâu chuyển dần
lên sét kết màu xám xanh, đồng nhất, chứa hoá thạch động vật biển thuộc nhóm
Rotalia nên gọi là sét Rotalia (chủ yếu là Ammonia kích thớc 1/10 mm). Bề dày của hệ
tầng ở giếng khoan BH1 đạt khoảng 923 m.
Quan sát trong toàn khu vực cho thấy hệ tầng Bạch Hổ phát triển khá rộng
khắp. Phần dới gồm cát kết kích thớc hạt khác nhau xen kẽ bột kết và sét kết, đôi
nơi có chứa vụn than hình thành trong môi trờng aluvi đến đồng bằng châu thổ ngập
nớc trong điều kiện năng lợng thay đổi khá mạnh từ vùng này đến vùng khác. Phần
17
trên ở hầu hết mọi nơi phát triển sét kết tơng đối sạch, chứa nhiều hoá thạch biển
nông Rotalia xen kẽ các lớp bột kết, ít lớp cát kết hạt nhỏ, màu xám lục chứa nhiều
glauconit. Nhìn chung hệ tầng đợc thành tạo trong môi trờng biển, biển nông có xu
hớng tăng dần khi đi từ rìa TN của bể (lô 16, 17, rìa TN cấu tạo Rồng) qua phần

trung tâm đến khu vực phía ĐB bể (các lô 01 và 15).
Toàn bộ trầm tích Miocen dới hệ tầng Bạch Hổ phản ánh một quá trình biển
tiến.
Hệ tầng Bạch Hổ có bề dày thay đổi từ 400 đến 800 m. Trên mặt cắt địa chấn, ở
phía trung tâm hệ tầng Bạch Hổ tơng ứng với tập địa chấn với các phản xạ có dạng
song song, biên độ trung bình, độ liên tục kém, thể hiện môi trờng đồng bằng ven bờ,
biển nông. Vận tốc lớp đạt 3000-3100 m/s, năng lợng trung bình đến cao, tỷ lệ cát sét
thấp, phân lớp mỏng. Đờng gamma thay đổi từ thấp đến cao, điện trở ở mức độ trung
bình. ở phần phía tây tập địa chấn có phản xạ lộn xộn đến song song, biên độ trung
bình đến khá, độ liên tục kém đến trung bình, tần số trung bình đến cao, biểu hiện sự
thay đổi tớng thô dần về phía tây.
Hoá thạch tơng đối phong phú bao gồm bào tử phấn hoa, nanoplankton và
trùng lỗ thuộc các phức hệ và đới sau: - Magnastriatites howardi, Florschuetzia levipoli,
đới Rotalia, Pediastrum - Botryococcus, và các Dinoflagellata: Cribroperidinum,
Apteodinium, đã định tuổi Mioxen sớm cho hệ tầng.
Hệ tầng Bạch Hổ nằm không chỉnh hợp trên hệ tầng Trà Tân.
Miocen giữa
Hệ tầng Côn Sơn (N
1
2
cs)
Hệ tầng Côn Sơn đợc mô tả lần đầu tiên tại giếng khoan 15B-1X trên cấu tạo
Côn Sơn từ độ sâu 1583 đến 2248 m gồm cát kết thạch anh, hạt nhỏ là chủ yếu có xen
1-2 lớp hạt thô độ lựa chọn từ trung bình đến kém, xi măng là sét và ít carbonat, ở
phần trên có xen ít lớp sét và bột kết màu nâu, màu xám và thấu kính than. Bề dày
chung đạt 665 m.
Hệ tầng Côn Sơn phân bố tơng đối khắp trong toàn bể Cửu Long, hình thành
trong điều kiện môi trờng thay đổi từ sông, đồng bằng châu thổ ( các lô 16, 17 và TN
Rồng) đến đồng bằng châu thổ, đầm lầy ven biển và biển nông (lô 9, 1-2, 15-1, 15-2). Tính chất
biển tăng dần khi đi từ phía dới lên.

Phần dới của hệ tầng chủ yếu gồm cát kết hạt từ nhỏ đến thô đôi khi chứa cuội
và sạn (giếng khoan 17-ĐĐ, R-4, R-6, Sói-1, 15-G), màu xám, xám trắng, phân lớp dày
tới dạng khối, độ chọn lọc và mài tròn thay đổi từ trung bình đến kém. Cát kết thờng
chứa các mảnh vụn trùng lỗ và đôi khi có glauconit cùng nhiều các vụn than. Đá gắn
kết yếu tới bở rời bằng xi măng sét và carbonat. Phần lớn cát kết của hệ tầng có độ
rỗng và độ thấm thuộc loại rất tốt và có khả năng là những tầng chứa dầu khí có chất
lợng tốt.
Phần trên chuyển dần sang cát kết hạt mịn, hạt nhỏ xen kẽ các lớp sét kết, sét
18
chứa vôi hoặc đôi khi là các lớp đá vôi mỏng màu xám xanh đến xám lục, nâu đỏ, vàng
nâu loang lổ (giếng khoan Sói-1, 15-G, Rồng-6), các lớp sét chứa than, các thấu kính
hoặc các lớp than nâu mỏng màu đen.
Hệ tầng Côn Sơn có bề dày thay đổi từ 660 đến 1000 m. Trên mặt cắt địa chấn
quan sát thấy các phản xạ song song, biên độ lớn, độ liên tục tốt, tần số cao. ở phần
phía đông các phản xạ có độ liên tục kém hơn, biên độ lớn hơn, tần số trung bình đặc
trng cho trầm tích đầm lầy, đồng bằng ven biển, năng lợng cao, tỷ lệ cát/sét trung
bình đến cao. Cát kết có xu hớng hạt mịn hớng lên trên. Đờng gamma và điện trở
thờng có giá trị trung bình. Các đờng phản xạ thể hiện quan hệ chỉnh hợp với hệ
tầng Bạch Hổ nằm dới.
Trong hệ tầng Côn Sơn đã phát hiện đợc bào tử phấn hoa và các hoá thạch
biển nh trùng lỗ và Nannoplankton gồm
: Florschuetzia meridionalis
,
Lepidocyclina

(Tf2),
Orbulina universa
(N9),
Calcidiscus marcintyrei
(NN4-NN19) định tuổi trầm

tích Mioxen giữa.
Môi trờng trầm tích của hệ tầng chuyển tiếp từ tam giác châu đến biển nông.
Hệ tầng Côn Sơn nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Bạch Hổ.
Miocen trên
Hệ tầng Đồng Nai (N
1
3
đn)
Mặt cắt chuẩn của hệ tầng Đồng Nai đợc xác lập tại giếng khoan 15G-1X trên
cấu tạo Đồng Nai, nơi hệ tầng mang tên. Tại đây từ độ sâu 650 đến 1330 m mặt cắt
gồm những lớp cát kết hạt nhỏ đến vừa, cát sạn kết, chuyển dần lên là cát kết xen bột
kết, sét kết và than. Có nơi cát kết chứa pyrit và glauconit. Đờng cong địa vật lý lỗ
khoan phân dị rõ, thể hiện thành phần hạt thô là chủ yếu. Bề dày của hệ tầng ở giếng
khoan này là 680 m.
Hệ tầng Đồng Nai có mặt trong toàn bể Cửu Long, bao gồm các trầm tích đợc
hình thành trong môi trờng sông, đồng bằng châu thổ, đầm lầy ven biển. Trầm tích
đang ở giai đoạn thành đá sớm; đá mới chỉ đợc gắn kết yếu hoặc còn bở rời và dễ hoà
tan trong nớc. Hệ tầng có thể phân thành hai phần chính nh mô tả dới đây.
Phần dới gồm chủ yếu là các trầm tích hạt thô nh cát hạt vừa đến thô lẫn
sạn, sỏi đôi khi chứa cuội, phân lớp dày hoặc dạng khối, độ chọn lọc và mài tròn trung
bình đến kém, thờng chứa nhiều mảnh vụn hoá thạch động vật, pyrit và đôi khi có
glauconit. Chuyển lên trên là cát - cát kết chủ yếu là hạt nhỏ, màu xám, xám sáng,
xám phớt nâu, bột - bột kết, sét - sét kết xen kẽ những vỉa than nâu hoặc sét chứa
phong phú các di tích thực vật hoá than. Than gặp khá phổ biến tại các giếng khoan
thuộc các lô 15, 16 và một số nơi khác.
Phần trên là các đá hạt mịn, gồm cát hạt nhỏ, bột và sét có màu khác nhau
chứa nhiều hoá thạch động vật.
Bề dày hệ tầng Đồng Nai thay đổi từ 500 đến 700 m và đợc thể hiện trên một
19
tập địa chấn chủ yếu có độ phản xạ song song, biên độ cao, độ liên tục tốt, tần số cao

phản ánh trầm tích ven bờ ở phía tây, biển nông ở phía bắc, vận tốc trong các lớp đạt
khoảng 2200-3000 m/s. Năng lợng cao đến thấp, tỷ lệ cát/sét cao đến trung bình. Các
lớp có xu thế hạt mịn hớng lên trên, đờng gamma và điện trở giá trị thấp. Các đờng
phản xạ cho thấy hệ tầng Đồng Nai nằm bất chỉnh hợp lên hệ tầng Côn Sơn theo kiểu
phủ chờm biển tiến với 2 pha phản xạ không liên tục.
Khác với hệ tầng Côn Sơn, trong hệ tầng Đồng Nai đã phát hiện nhiều hoá
thạch trùng lỗ, Nannoplankton và bào tử phấn hoa. Dấu hiệu xác định tuổi Miocen
muộn của hệ tầng theo bào tử phấn hoa là FAD của bào tử Stenochlaena laurifolia,
cùng với sự phong phú các dạng khác, nh Florschuetzia levipoli, Fl. Meridionalis,
Rhizophora, Carya, Pinus, Dacrydium, Acrostichum và Trùng lỗ Neogloboquadrina
acostaensis ( N16), Nano Discoater quinqueramus (NN11).
Hệ tầng Đồng Nai nằm không chỉnh hợp trên hệ tầng Côn Sơn.
Pliocen
Hệ tầng Biển Đông (N
2
bđ)
Hệ tầng đợc mô tả lần đầu tại giếng khoan 15G-1X, trong khoảng 250-650 m
có thể chia làm 2 phần phần dới đặc trng bằng cát thạch anh thô, xám trắng chứa
nhiều hoá thạch trùng lỗ thuộc nhóm Operculina. Phần trên chủ yếu là sét, bột phong
phú trùng lỗ đa dạng và Nannoplankton. Bề dày của hệ tầng ở lỗ khoan này là 400 m.
Hệ tầng Biển Đông phát triển rộng khắp trong vùng, với đặc điểm chung là
hình thành chủ yếu trong môi trờng biển nông và trầm tích còn bở rời. Mặt cắt của hệ
tầng chủ yếu gồm cát thạch anh màu xám, xám sáng, xám lục hoặc xám phớt nâu, hạt
từ vừa đến thô, xen kẽ ít lớp sét, bột. Cát phân lớp dày hoặc dạng khối, hạt vụn có độ
chọn lọc và mài tròn trung bình đến tốt, thờng chứa nhiều mảnh vụn hoá thạch động
vật biển, pyrit, đôi khi có các mảnh vụn than. Bề dày của hệ tầng thay đổi từ 400 đến
700 m.
Trên băng địa chấn nó rất dễ nhận biết bằng đặc trng là phản xạ song song, độ
liên tục tốt, biên độ trung bình đến cao, tần số cao. Vận tốc lớp đạt khoảng 1500-2000
m/s. Các đặc trng trên phản ánh tớng thềm biển năng lợng cao, tỷ lệ cát/sét cao,

phân lớp tốt. Đờng gamma và điện trở có giá trị cao, xu thế hạt mịn hớng lên trên.
Mặt bất chỉnh hợp với hệ tầng Đồng Nai thể hiện rõ theo kiểu phủ chờm biển tiến với 2
pha phản xạ mạnh, biên độ lớn.
Trong các lớp của hệ tầng Biển Đông đã phát hiện phong phú hoá thạch gồm
các bào tử phấn Dacrydium, Stenochlaena laurifolia và các Foram Sphaeroidinella
subdehiscens (N19), Nano Discoaster intercalcaris (NN12) đã định tuổi Plioxen cho trầm tích của hệ
tầng.
Hệ tầng Biển Đông phân bố trên toàn bể Cửu Long và thuộc môi trờng trầm
tích biển nông, và phủ bất chỉnh hợp lên trên các trầm tích cổ hơn.

20
2.6. Địa tầng trầm tích Kainozoi bồn Nam Côn sơn
PALEOGEN
Oligocen
Hệ tầng Cau (E
3
c)
Hệ tầng Cau lần đầu tiên đợc mô tả chi tiết tại giếng khoan Dừa-IX (lô 12) từ
độ sâu 3680 đến 4038 m và đặt tên là Cau. Tại giếng khoan Dừa-IX mặt cắt đặc trng
của hệ tầng bao gồm chủ yếu là cát kết màu xám xen các lớp sét kết, bột kết màu nâu.
Cát kết thạch anh hạt thô đến mịn, độ lựa chọn kém, xi măng sét, carbonat. Bề dày
chung đạt 358 m.
Hệ tầng Cau có thể xem tơng đơng với các hệ tầng Bawah, Keras, Gabus và
Barat (Agip 1980) thuộc trũng Đông Natuna ở phía nam của bể Nam Côn Sơn. Hệ tầng
vắng mặt trong phần lớn các đới nâng (mỏ Đại Hùng, phần tây lô 04 cũ, phần lớn lô 10,
28, 29 và các lô khác ở phía T-TN của vùng trũng). Mặt cắt đầy đủ đợc tổng hợp
thành 3 phần chính nh dới đây.
Phần dới chứa nhiều cát kết từ hạt mịn đến thô, đôi khi rất thô hoặc sạn kết,
cát kết chứa cuội, sạn và cuội kết (giếng khoan 21S: 3920-3925 m; giếng khoan 06-
HDB: 3848-3851 m), màu xám sáng, xám phớt nâu hoặc nâu đỏ, tím đỏ, phân lớp dày

hoặc dạng khối, xen kẽ một khối lợng nhỏ các lớp bột kết hoặc sét kết màu xám tới
xám tro, nâu đỏ, hồng (giếng khoan 21S) chứa các mảnh vụn than hoặc các lớp kẹp
than. Giống nh ở bể Cửu Long, ở một số giếng khoan cũng đã phát hiện đợc sự có
mặt của các lớp đá phun trào xen kẽ (andesit, basalt ở các giếng khoan 12W Hồng Hạc
và Hải Âu, 11-1-CDP và 12C-IX), diabas (giếng khoan 20-PH-IX).
Phần giữa có thành phần hạt mịn chiếm u thế gồm các tập sét kết phân lớp
dày đến dạng khối màu xám sẫm tới xám tro, xám đen xen kẽ ít bột kết, cát kết hạt từ
mịn đến thô màu xám sáng, xám xẫm đôi khi phớt nâu đỏ hoặc tím đỏ (giếng khoan
21S), khá giàu vôi và vật chất hữu cơ cùng các lớp sét kết chứa than và than.
Phần trên gồm hệ xen kẽ cát kết hạt nhỏ đến vừa, màu xám tro, xám sáng đôi
chỗ có chứa glauconit, trùng lỗ (giếng khoan 12C, Dừa) và bột kết, sét kết màu xám tro
đến xám xanh hoặc nâu đỏ (giếng khoan 21S) (Hình 18, 19, 20,21,22).
Bề dày trầm tích, đặc điểm phân tập nói trên cũng nh các đặc tính của mỗi tập
thay đổi nhiều giữa các lô trong bể. Chẳng hạn ở giếng khoan 06-HDB vắng mặt các
trầm tích phần trên, hoặc mức độ chứa than tăng lên rất nhiêù trong các giếng khoan
thuộc cấu tạo Thanh Long.
Trên các mặt cắt địa chấn hệ tầng Cau ở phần phía tây thể hiện các phản xạ
dạng lộn xộn, vắng mặt trầm tích trên diện rộng. Phía đông có các đờng phản xạ song
song, biên độ thấp đến trung bình dần dần chuyển sang phản xạ không liên tục, biên
độ thay đổi, năng lợng cao, tỷ lệ cát/sét cao, phân lớp dày. Cát hạt mịn hớng lên
trên, có mặt các lớp than và sét than.
21
Các hoá thạch định tuổi Oligoxen trong hệ tầng thuộc phức hệ
Cicatricosisporites-Mayeripollis, Florschuetzia trilobata và Tảo nớc ngọt Pediastrum,
Bosedinia.
Hệ tầng Cau đợc thành tạo trong điều kiện môi trờng thay đổi nhanh giữa
các khu vực gồm lũ tích, trầm tích sông, quạt bồi tích, đồng bằng châu thổ xen kẽ trầm
tích đầm hồ.
Hệ tầng Cau phủ không chỉnh hợp các đá móng trớc Đệ Tam.
NEOGEN

Miocen dới
Hệ tầng Dừa (N
1
1
d)
Mặt cắt chuẩn của hệ tầng Dừa đợc xác lập ở giếng khoan Dừa-1X. Tại đây, từ
độ sâu 2852 đến 3680 m mặt cắt bao gồm sét kết màu đen, bột kết màu xám cùng với
cát kết hạt nhỏ và thấu kính than nâu. Phần giữa của hệ tầng chứa nhiều cát kết hơn,
với độ chọn lọc trung bình tới tốt, đôi nơi chứa glauconit, pyrit, xi măng sét và
carbonat. Bề dày của hệ tầng ở giếng khoan này là 828 m.
Phân bố rộng rãi trong vùng, hệ tầng Dừa chủ yếu gồm cát kết, bột kết màu
xám sáng, xám lục xen kẽ với sét kết màu xám, xám đen đến xám xanh, các lớp sét
chứa vôi, các lớp sét giàu vật chất hữu cơ có chứa than hoặc các lớp than mỏng. Đôi khi
có những lớp đá vôi mỏng chứa nhiều hạt vụn hoặc đá vôi màu trắng xen kẽ trong hệ
tầng. Tỷ lệ cát/sét trong toàn bộ mặt cắt gần tơng đơng nhau, tuy nhiên đi về phía
đông của bể (lô 5, 6) tỷ lệ đá hạt mịn có xu hớng tăng dần lên. Ngợc lại, ở phần rìa
phía tây của bể (lô 10, 11-1) và ở phía tây các lô 11-2, 28 và 29 tỷ lệ cát kết tăng hơn
nhiều so với các đá hạt mịn, và tại đó môi trờng tam giác châu có ảnh hởng đáng kể.
Trầm tích trong toàn khu vực có xu hớng mịn dần ở phía trên của mặt cắt và tính
chất biển cũng tăng lên rõ rệt từ phần rìa B-TB, N-TN vào trung tâm và về phía đông
của bể.
Nhìn chung các lớp của hệ tầng Dừa có các đờng cong điện trở và gamma phân
dị tốt. Đờng gamma thay đổi trong phạm vi rộng từ 35 tới 130 API, chủ yếu trong
khoảng 65-90 API - đạt giá trị trung bình. Phân lớp trung bình tới dày, tỷ lệ cát/sét
thờng cao (55-80%). Trầm tích hạt mịn có xu thế chủ yếu hớng lên trên. Điện trở
thay đổi trong khoảng 0,5-15 ohm, trung bình khoảng 2,5-5 ohm - giá trị trung bình
thấp. Trầm tích đợc thành tạo chủ yếu trong điều kiện năng lợng cao và giảm dần
lên phần trên của hệ tầng.
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Dừa đợc thể hiện bằng tập địa chấn có đặc
trng chủ yếu là các phản xạ song song, biên độ trung bình, độ liên tục kém. ở phần

phía đông mặt cắt có thể chia thành hai phần, phần dới có phản xạ song song, độ liên
tục kém, phần trên cũng có phản xạ song song, nhng độ liên tục tốt, biên độ trung
bình đến cao.
Hệ tầng có bề dày thay đổi từ 100 đến hơn 1000 m.
22
Hóa thạch trong hệ tầng Dừa tơng đối phong phú gồm bào tử phấn hoa, trùng
lỗ và Nannoplankton. Chúng đợc phân ra đới Florchuetzia levipoli; đới cực thịnh
Magnastriatites howardi và các đới Praeorbulina (N7-N8), Miogypsina (TF1),
Helicosphaera ampliapera (NN4) là các dạng đặc trng cho trầm tích Mioxen sớm.
Các trầm tích của hệ tầng Dừa phát triển trong môi trờng châu thổ đến biển
nông.
Hệ tầng Dừa nằm không chỉnh hợp trên hệ tầng Cau.
Miocen giữa
Hệ tầng Thông - Mãng Cầu (N
1
2
t-mc)
Mặt cắt đặc trng của hệ tầng Thông - Mãng Cầu đợc mô tả ở giếng khoan
Dừa IX trong khoảng độ sâu từ 2170 đến 2852 m bao gồm phần dới chủ yếu là cát kết
chứa glauconit và xi măng carbonat xen những lớp mỏng sét kết, sét vôi, chuyển lên
phần trên là sự xen kẽ giữa trầm tích lục nguyên chứa vôi, với đá vôi thành các tập dày
màu xám trắng. Bề dày của hệ tầng ở giếng khoan này đạt 682 m.
Các trầm tích lục nguyên, lục nguyên chứa vôi phát triển mạnh khi đi dần về
phía rìa bắc (các lô 10, 11-1, 11-2) và phía tây - tây nam (các lô 20, 21, 22, 28, 29) của
bể, bao gồm chủ yếu cát bột kết và sét kết, sét vôi xen kẽ các thấu kính hoặc những lớp
đá vôi mỏng. Các lớp trầm tích lục nguyên này ở mọi nơi thờng chứa nhiều glauconit,
các hoá thạch động vật biển, đặc biệt là nhiều Trùng lỗ.
Đá carbonat phát triển khá rộng rãi tại các vùng nâng ở trung tâm bể, và đặc
biệt tại các lô thuộc phần phía đông của bể (các lô 04 và 05). Đá có màu trắng, trắng
sữa, dạng khối chứa phong phú san hô và các hoá thạch động vật khác đợc thành tạo

trong môi trờng biển mở của thềm lục địa, bao gồm đá vôi ám tiêu (tại các phần nhô
cao ở các lô 04-A, Mía, 05-TL-Bắc, 06-LT và LĐ) và các lớp đá vôi dạng thềm phát triển
tại những phần sờn thấp của các đới nâng (các lô 05-TL-B-1X, 06-DH, 12A v.v ).
Ngoài ra, trong tập đá carbonat cũng gặp xen kẽ các lớp đá vôi dolomit hoặc dolomit
dạng hạt nhỏ do kết quả của quá trình dolomit hoá một phần hoặc hoàn toàn của cả 2
loại đá vôi kể trên. Đá carbonat hệ tầng Thông - Mãng Cầu bị tái kết tinh mạnh hơn và
bị dolomit hoá mạnh hơn so với đá carbonat của hệ tầng Nam Côn Sơn nằm trên.
Ngoài đặc điểm khác biệt về các đới cổ sinh thì mức độ dolomit hoá và tái kết tinh là
điểm khác biệt duy nhất về mặt thạch học để có thể phân biệt đợc giữa các tập đá
carbonat.
Trên đờng cong địa vật lý lỗ khoan cũng dễ dàng quan sát thấy sự thay đổi và
phân bố của các trầm tích lục nguyên và carbonat. Tỷ lệ cát/sét dao động từ 40 đến
65%. Độ hạt chủ yếu có xu thế thô dần lên phía trên. Đờng điện trở có giá trị thay đổi
mạnh (2-20 ohm) và cao hơn ở phía đông. Điều này có thể giải thích bởi mối liên quan
giữa đờng điện trở và gamma với các tập đá vôi tơng đối dày ở phía đông. Đặc điểm
này cũng thấy rõ trên mặt cắt địa chấn của hệ tầng Thông - Mãng Cầu: ở phần phía
đông các đờng phản xạ song song, độ liên tục tốt, biên độ trung bình đến cao đặc
23
trng cho trầm tích carbonat biển nông, còn phần phía tây là các phản xạ song song,
biên độ trung bình, độ liên tục tốt liên quan đến các trầm tích lục nguyên thềm biển.
Hoá thạch phong phú đặc trng cho trầm tích Miocen giữa và thuộc đới
Florschuetzia meridionalis; phụ đới Florschuetzia trilobata; các đới Orbulina universa
(N9), Globorotalia foshi (N12), Lepidocyclina (Tf2-Tf3) và đới Discoater kugleri (NN7),
Discoater hamatus (NN9).
Môi trờng trầm tích ở phía tây chủ yếu là đồng bằng châu thổ đến rìa trớc
châu thổ, còn ở phía đông chủ yếu là biển nông.
Hệ tầng Thông - Mãng Cầu nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Dừa.
Miocen trên
Hệ tầng Nam Côn Sơn (N
1

3
ncs)
Hệ tầng Nam Côn Sơn mang tên của bể trầm tích và có mặt cắt đặc trng tại
giếng khoan Dừa-IX, từ 1868-2170m. gồm cát kết hạt mịn, xám trắng xen các lớp bột
kết, sét kết giàu carbonat và các lớp đá vôi. Các trầm tích này chứa nhiều hoá thạch
sinh vật biển (Trùng lỗ). Bề dày của hệ tầng ở mặt cắt này là 302 m.
Phân bố rộng rãi trong bể, hệ tầng Nam Côn Sơn có sự biến đổi tớng đá mạnh
mẽ giữa các khu vực khác nhau của bể. ở rìa phía bắc (các lô 10, 11-1) và phía T-TN
(các lô 20, 21, 22, 28 v.v ) trầm tích chủ yếu là lục nguyên gồm sét kết, sét vôi màu
xám lục đến xám xanh, gắn kết yếu cùng các lớp cát bột kết chứa vôi đôi khi gặp một
số thấu kính hoặc những lớp đá vôi mỏng chứa nhiều mảnh vụn lục nguyên. Cát kết ở
đây hạt từ nhỏ đến vừa gặp nhiều trong các giếng khoan 10-BM, 11-1-CC, 20-PH, độ
lựa chọn và mài tròn tốt, chứa hoá thạch động vật biển và glauconit, có độ gắn kết
trung bình bởi xi măng carbonat có tỷ lệ cao. ở các lô phía trung tâm nơi đặt các giếng
khoan Dừa-IX, 2X, 12A, 12-W-HA (mỏ Đại Hùng, lô 04-3 v.v ) mặt cắt gồm các trầm
tích carbonat và lục nguyên xen kẽ nhau khá rõ rệt. Tai một số vùng nâng ở phía Đ-
ĐN (theo các giếng khoan 05-TLB, 06-LT, 06-LĐ v.v ) đá carbonat lại chiếm hầu hết
trong mặt cắt của hệ tầng.
Trầm tích kể trên có giá trị điện trở thấp tới trung bình (0,8 - 2 ohm), còn đờng
điện thế có giá trị cao hơn trong khoảng 120-130 ms/f. Mặt cắt địa chấn thể hiện rõ với
các phản xạ song song, độ liên tục trung bình đến tốt, biên độ trung bình, tần số cao
đặc trng cho trầm tích thềm và có các tập đá vôi ở phần đông của bể .
Hệ tầng Nam Côn Sơn có bề dày 200-600 m và nằm bất chỉnh hợp trên hệ tầng
Thông - Mãng Cầu với các sóng địa chấn thể hiện dới dạng cắt lớp và phủ nóc các đá
carbonat Thông - Mãng Cầu với phản xạ biên độ cao.
Hoá thạch đã định tuổi Mioxen muộn cho hệ tầng thuộc các đới Florschuetzia
meridionalis, Stenochlaena laurifolia, Neogloboquadrrina acostaensis (N16-N18),
Lepidocyclina (Tf3), Discoater quiqueramus (NN11)
Các đặc điểm trầm tích và cổ sinh kể trên cho thấy hệ tầng Nam Côn Sơn đợc

×