Lời mở đầu
Từ khi bắt đầu có nhận thức con ngời đã có xu hớng tìm hiểu
chính mình và thế giới xung quanh. Một trong những vấn đề đợc đặt
ra nhiều nhất đó là xã hội. Tại sao lại phải có xã hội, xã hội hình
thành từ đâu, có mang tính giai cấp hay không?... Để trả lời những
câu hỏi này trong các lĩnh vực có rất nhiều giả thuyết khác nhau,
đặc biệt là trong triết học - khoa học về những cái chung nhất. Các
nhà duy tâm cho rằng xã hội bắt nguồn từ ý thức rằng xã hội là do
những ngời trong nó kết hợp với nhau để duy trì những điều kiện
chung nhằm tồn tại và phát triển. Ngợc lại các nhà duy vật thì lại cho
rằng xã hội có nguồn gốc vật chất. Tiêu biểu trong số những quan
điểm này là học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của Mác. Đây là
học thuyết dựa trên tính khách quan và duy vật lịch sử xây dựng nên.
Việc nghiên cứu nó đóng vai trò rất quan trọng trong công cuộc xây
dựng đất nớc vì, muốn thực hiện tốt một điều gì phải hiểu đợc bản
chất của nó, hơn nữa con đờng mà chúng ta theo là con đờng đi lên
CNXH chính vì vậy mà việc nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội lại
quan trọng đến nh vậy.
Đó là lý do vì sao em chọn đề tài này.
Trong bài làm hẳn còn rất nhiều sai sót em mong đợc thầy góp ý.
1
nội dung
Trong mọi vấn đề nói chung và đối với triết học nói riêng, việc
tìm hiểu một cách đúng đắn bản chất của vấn đề là bớc khởi đầu
quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của thực tiễn. Một
trong những vấn đề đợc nghiên cứu nhiều nhất đó là làm thế nào để
giải thích một cách khoa học sự vận động theo quy luật khách quan
của lịch sử hay vấn đề phân kỳ lịch sử xã hội...
Trớc Mác nhiều nhà triết học và xã hội học đã tìm cách giải
quyết vấn đề này nhng không không đem lại một một cách nhìn khoa
học về một xã hội cụ thể, mang rất nhiều khiếm khuyết mà đến học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác mới khắc phục đợc.
Nh vậy dựa trên nền tảng là chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác đã
xây dựng học thuyết hình thái kinh tế xã hội với 3 luận điểm chính.
+ Sản xuất vật chất là nền tảng cơ bản của đời sống xã hội.
+ Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lợng sản xuất.
+ Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng.
Mác đã bác bỏ các quan điểm sai lầm trứơc và đa ra học thuyết
có tính bao quát và chính xác về lịch sử phát triển của xã hội cũng
nh các đặc trng của nó đó là học thuyết về hình thaí kinh tế - xã hội.
I/ Những vấn đề lý luận chung
Trên quan điểm duy vật lịch sử Mác cho rằng các quan hệ xã hội
mà trứơc hết là các quan hệ sản xuất là cơ sở hình thành xã hội và các
quy luật của xã hội. Mỗi xã hội đều có kiểu quan hệ sản xuất riêng
của nó nằm trong một phơng thức sản xuất nhất định, tiêu biểu cho
chế độ kinh tế của xã hội đó. Tổng hợp những quan hệ sản xuất cấu
thành cái mà ngời ta gọi là những quan hệ xã hội đều mang đặc trng
cho mỗi giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Quan hệ sản xuất
chính là quan hệ vật chất là hình thức xã hội của mọi quá trình sản
xuất, do đó nó quy định tất cả mọi cấu trúc xã hội.
Tuy quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan và quan trọng
nhất để phân biệt sự khác nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội,
song hình thái kinh tế xã hội không chỉ có quan hệ sản xuất mà còn
có các quan hệ khác với những thể chế tơng ứng đợc hình thành trên
cơ sở của quan hệ sản xuất ấy. Những quan hệ sản xuất này gộp
2
thành cơ sở hạ tầng của xã hội, trên cơ sở ấy xuất hiện một kiến trúc
thợng tầng ứng với nó. Quan hệ sản xuất lại gắn bó mật thiết với lực
lợng sản xuất hai mặt này tạo thành thể thống nhất hữu cơ của phơng
thức sản xuất. Phơng thức sản xuất là nền tảng vật chất của hình thái
kinh tế xã hội.
Qua phân tích ta có thể thấy:
Hình thái kinh tế - xã hội, là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trng của xã hội đó, phù hợp với một trình độ
nhất định của lực lợng sản xuất và một kiến trúc thợng tầng đợc xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Theo định nghĩa trên cấu trúc hình thái kinh tế xã hội bao gồm:
+ Lực lợng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất
+ Kiến trúc thợng tầng.
Ba mặt đó không tách rời nhau mà nó phải phù hợp với nhau
trong đó quan hệ sản xuất nó là quan hệ cơ bản, là tiêu chuẩn khách
quan để phân chia xã hội này với xã hội khác, nó quyết định các quan
hệ sản xuất khác và các quan hệ sản xuất khác phải phù hợp với
quan hệ sản xuất nhng quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lợng
sản xuất, lực lợng sản xuất đó là một cơ sở vật chất của một chế độ
xã hội nhất định.
Nói sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên điều đó có nghĩa là sự phát triển của hình thái kinh tế
xã hội diễn ra th eo một quy luật khách quan chứ không phải do ý
muốn chủ quan của con ngời. Tuy các quy luật khách quan chi phối
sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế xã hội thì quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực l-
ợng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Lực lợng sản xuất một mặt
của phơng thức sản xuất là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự
nghiệp phát triển tiến lên của xã hội, quy định khuynh hớng phát
triển từ thấp đến cao. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phơng thức
sản xuất biểu hiện đợc tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử,
những quan hệ sản xuất lỗi thời đợc xoá bỏ và đợc thay thế bằng
những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế xã hội
mới cao hơn ra đời. Nh vậy sự xuất hiện, sự phát triển của hình thái
kinh tế xã hội, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế đó lên hình thái
kinh tế cao hơn đợc giải thích trớc hết bằng sự tác động của quy luật
3
bằng sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lợng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hớng tự tìm đờng cho mình
trong sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế xã hội. Chính do
tác động của các quy luật này mà hình thái kinh tế xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên
II/ Vận dụng lý luận vào thực tiễn.
1) Học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội còn đúng
hay không?
Từ khi chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào t hì học thuyết về
hình thái kinh tế - xã hội của Mác là một trong những trọng điểm lý
luận bị công kích từ nhiều phía. Cùng với sự sụp đổ của Liên bang
Xô viết ngời ta cho rằng không còn tồn tại chủ nghĩa xã hội, sau
năm 2000 rằng sự sụp đổ đó là sự khẳng định cho sai lầm của học
thuyết Mác. Tất nhiên mọi học thuyết đều có những chỗ dựa hoàn
hảo, cần có những ý kiến đóng góp để bổ sung và hoàn thiện tuy
nhiên ta cũng phải xác định giữa những lời góp ý có thiện ý và
những âm mu nhằm xuyên tạc.
Trớc hết ta phải khẳng định đi theo chủ nghĩa Mác không phải là
đi theo một thứ giáo lý mà là đi theo một khoa học để phát triển xã
hội, đổi mới nâng cao cuộc sống của con ngời. Sự đúng đắn đợc
quyết định trên hiệu quả thực tế chính vì vậy thờng có những kẻ dựa
trên những sai sót, cơ chế chỉ đạo trong quá trình thực hiện để phủ
nhận cả một hệ thống lý luận về hình thái kinh tế - xã hội.
Trớc hết ta phải thấy rằng công lao to lớn của Mác là đã nhìn
động lực của lịch sử không phải do một tinh thần thần bí nào, mà do
hoạt động thực tiễn của con ngời dới tác động của quy luật khách
quan. Ngời ta sinh ra phải ăn và sống chừng nào cái sự thật hiển
nhiên đó tồn tại thì quan niệm duy vật lịch sử không thể trở nên lạc
hậu đợc. Ngày nay thực tiễn lịch sử và kiến thức lịch sử của nhân loại
có nhiều bổ sung và phát triển mới nhng những cơ sở khoa học mà
quan niệm duy vật về lịch sử đã dẫn đến cho khoa học xã hội thì vẫn
giữ nguyên giá trị.
Gần đây, trớc những thành tựu kỳ diệu của khoa học công nghệ
nhiều ngời cho rằng cách tiếp cận hình thái kinh tế xã hội là không
còn phù hợp nữa mà đỉnh cao phải là "tiếp cận văn minh" vì nó xuất
phát từ nền văn minh hậu công nghiệp trong khi cách tiếp cận hình
thái chỉ dựa trên nền văn minh công nghiệp.
4
Nhận định này không đúng vì bản thân phơng pháp tiếp cận
hình thái của Mác không hề giới hạn mình chỉ trong phạm vi một nền
văn minh nhất định và nó luôn đánh giá cao vai trò cách mạng của
lực lợng sản xuất và công nghệ, tức là vai trò của nền văn minh vật
chất họ cho rằng cách tiếp cận hình thái chỉ nhấn mạnh yếu tố kinh tế
điều này là hoàn toàn sai lầm vì ngoài vai trò chủ đạo của kinh tế thì
các yếu tố khác của xã hội nh chính trị, văn hoá cũng tác động qua
lại lẫn nhau ảnh hởng đến xã hội. Nh vậy ta có thể khẳng định học
thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội vẫn là quan niệm duy nhất
khoa học và cách mạng để phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề
xã hội.
2) Những bài học thực tiễn rút ra từ hình
thái kinh tế - xã hội của Mác.
* Sản xuất vật chất là nền tảng cơ bản của đời sống xã hội.
Suốt trong những năm bao cấp gần nh nền kinh tế nớc ta là một
nền kinh tế chết. Chúng ta có sản xuất nhng cái sản xuất ấy chỉ là
"làm theo khả năng ". Do điều kiện thực tế không cho phép chúng ta
thực hiện đợc khẩu hiệu "làm theo khả năng hởng theo nhu cầu",
chúng ta đã đi ngợc lại với quy luật khách quan kết quả là chúng ta
sống gần nh hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống XHCN (viện trợ, xuất
nhập khẩu) đời sống nhân dân vô cùng thấp mà nền kinh tế đã yếu thì
trang bị khí tài cũng không thể hiện đại, uy tín trên trờng quốc tế
cũng suy giảm . Điều đó chứng tỏ rằng không phải là học thuyết của
Mác sai mà cách vận dụng của ta cha hợp lý.
*. Quan hệ sản xuất ch a phù hợp với lực l ợng sản xuất.
Trớc khi "đổi mới" Nhà nứơc chỉ công nhận 3 thành phần kinh
tế, kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, hợp tác xã. Theo Mác: 3 thành
phần kinh tế đó là 3 thành phần kinh tế chủ yếu của một nớc XHCN.
Nhng chúng ta lại thực hiện một cách cứng nhắc mà quên mất một
điều rằng nền kinh tế nớc ta không phải là một nền kinh tế theo tiêu
chuẩn mà Mác đã xây dựng trong học thuyết của mình. Đất nứơc ta
trong những năm 70 - 80 chỉ là một đất nớc tiểu nông, kiệt quệ vì
chiến tranh và còn đầy những tàn d phong kiến vì vậy xác định quan
hệ sản xuất nh vậy là cha phù hợp với lực lợng sản xuất. Bằng ý
muốn chủ quan của mình ta muốn áp đặt quan hệ sản xuất của chủ
nghĩa cộng sản lên nền kinh tế và tởng rằng nh vậy là ta đã tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Hoàn toàn không phải nh vậy, chủ nghĩa xã hội chỉ
là hiện thực khi lực lợng sản xuất hội đủ các điều kiện cần thiết.
5