Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

PHÒNG BỆNH TRONG NUÔI THỦY SẢN pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.55 KB, 5 trang )

PHÒNG BỆNH TRONG NUÔI THỦY SẢN

Nuôi trồng thủy sản nói chung gặp không ít những trở
ngại liên quan đến các yếu tố thời tiết, khí hậu, môi trường,
chất lượng giống…Một trong những hạn chế, ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu qủa kinh tế của mô hình nuôi, canh tác đó
là dịch bệnh. Có thể nói dịch bệnh kềm hãm, làm chùn
bước những kế hoạch phát triển thủy sản mang tính chiến
lược, làm thay đổi cục diện mô hình, tác động trực tiếp đến
hiệu quả kinh tế. Bệnh cá là gì, yếu tố nào cấu thành, tác
động để bệnh sảy ra ? Bệnh vật nuôi thủy sản nói chung,
bệnh cá nuôi nói riêng, đều được hình thành trên cơ sở kết
hợp giữa 3 yếu tố cấu thành, liên quan mật thiết gồm môi
trường, mầm bệnh, và tình trạng sức khỏe cá. Để phân tích
sự tương tác, cộng hưởng, gắn bó giữa 3 yếu tố này có rất
nhiều vấn đề được liên hệ. Trong khuôn khổ bài viết này
chúng tôi chỉ đề cập đến yếu tố cộng hưởng, liên kết. Nếu
một trong ba yếu tố trên phát sinh đơn độc, bệnh vẫn chưa
thể gây nguy hiểm gì cho tôm-cá nuôi trong hồ, ao,
ruộng Nói cách khác, chỉ khi nào có từ 2 yếu tố trở lên
cùng bùng phát, kết hợp với nhau trong ao, khi đó bệnh
mới có khả năng gây hại đến cá –tôm nuôi. Người nuôi
thủy sản có thói quen, khi phát hiện ra bệnh, mới cầu nhờ,
bấu víu vào các loại thuốc. Theo quan điểm tích cực, bà
con nên chủ động ngăn ngừa bệnh theo hướng phòng từ xa,
hơn là thụ động để bệnh sảy ra, mới dùng thuốc chữa bệnh.
Việc dùng thuốc thường xuyên chắc chắn sẽ dẫn đến tình
trạng lờn thuốc, chai thuốc. Đến khi dùng lần sau, thường
phải tăng liều sử dụng mới cho hiệu quả. Trở lại vấn đề,
phân tích các yếu tố cấu thành dịch bệnh trong nuôi thủy
sản. Yếu tố mầm bệnh luôn hiện hữu trong ao nuôi, cá-tôm


và các loài vi khuẩn, vi rút, nấm, ký sinh trùng, giun sán,
cùng tồn tại…Việc phòng, ngăn là không khả thi, giải pháp
sống chung hòa thuận là hợp lý nhất. Yếu tố môi trường
liên quan đến nhiều vấn đề như thời tiết, khí hậu, thông số
môi trường, mùa vụ nuôi, triển khai các bước kỹ thuật,
thường không phù hợp với sinh học các loài thủy sản được
nuôi. Riêng tình trạng sức khỏe cá, liên quan đến chất
lượng giống, mật độ thả nuôi, điều kiện chăm sóc, quản lý.
Như vậy, việc phòng bệnh chủ động thực hiện như thế nào
là hợp lý, nên bắt đầu từ khâu nào, yếu tố nào thực hiện đầu
tiên ? Thực ra, không có sự ưu tiên, hoặc thứ tự cao thấp
trong việc phân loại các yếu tố cấu thành bệnh, cũng như
quan niệm yếu tố quan trọng và không quan trọng. Hiệu
quả hàng đầu của việc phòng bệnh chủ động, đó là sự kết
hợp tích cực giữa 3 yếu tố trên. Ngay từ khi hình thành kế
hoạch nuôi thủy sản, người nuôi nên xem xét các vấn đề
liên quan đến bệnh thủy sản, một cách toàn diện, chi tiết,
logic, có tính liên kết, phối hợp. Một mô hình nuôi thủy sản
muốn an toàn, bền vững, ổn định, ít gặp những sự cố về
dịch bệnh, trước tiên mô hình đó phải ở trong vùng được
qui hoạch nuôi thủy sản. Đầu tư hệ thống kênh mương thủy
lợi, hệ thống cống cấp, thoát nước riêng biệt, nhằm đối phó
chủ động trước những diễn biến thất thường của môi
trường, thời tiết, khí hậu. Vấn đề áp dụng đúng mùa vụ
nuôi, hạn chế rất nhiều những tác động xấu, do thời tiết, khí
hậu gây ra. Kỹ thuật nuôi phải được tuân thủ nghiêm ngặt,
từ khâu chọn lựa địa điểm nuôi, thiết kế ao hồ, đặc biệt là
khâu xử lý nước. Người dân thường làm theo ý nghĩ chủ
quan, bảo thủ của chính mình. Cần thiết phải trang bị hệ
thống ao, hồ nuôi tương ứng, đồng nhất với loại hình mình

áp dụng. Nếu nuôi Bán thâm canh, đặc biệt là nuôi Thâm
canh thì bắt buộc phải có ao lắng lọc, ao xử lý thải. Công
tác cải tạo, sên vét bùn đáy, đầm nén đáy ao…cần được xử
lý triệt để. Nước nuôi cần được xử lý hóa chất, thuốc nằm
trong danh mục cho phép xử dụng của Bộ Thủy Sản. Sử
dụng đúng thuốc, đúng liều, đúng thời điểm là hợp lý nhất.
Thông số môi trường cần chủ động điều chỉnh bằng các
loại hóa chất như vôi nông nghiệp, pha nước,
Formol…Màu nước phải được gây nuôi hợp lý, trước khi
thả cá hoặc tôm xuống ao nuôi. Nguồn giống thả nuôi phải
được chọn lựa kỹ càng, xác định rõ nguồn gốc giống, qui
trình sinh sản và các biện pháp kỹ thuật áp dụng. Con giống
cần được kiễm tra qua phương pháp sốc môi trường, sốc
hóa chất, test (kiễm tra) theo phương pháp PCR…trước khi
thả nuôi. Chọn giống đồng cỡ, khỏe mạnh, linh hoạt. Tuyệt
đối nói không với những nguồn giống không rõ gốc gác,
xuất xứ, chất lượng, qui trình sản xuất. Bà con nên chủ
động thả giống đúng mật độ khuyến cáo, phù hợp cho từng
loại hình nuôi. Chọn thời điểm sáng sớm, hoặc chiều mát
để thả giống. Chọn loại thức ăn phù hợp với từng giai đoạn
tuổi, luôn đảm bảo đủ chất, lượng, các thành phần trong
thức ăn. Lượng ăn hàng ngày chiếm 3-5% so với trọng
lượng thân của cá hoặc tôm nuôi. Nên kiễm soát lượng thức
ăn thông qua sàng ăn (vó, máng ăn), chủ động điều chỉnh
thức ăn theo nhu cầu sử dụng hàng ngày của vật nuôi.
Những ngày thời tiết thay đổi, nên giảm lượng ăn xuống ½
hoặc nhiều hơn. Trong thức ăn, nên định kỳ dùng Vitamine
C, Premix, các loại men tiêu hóa, kháng sinh tổng
hợp…trộn vào thức ăn nhằm chủ động tăng sức đề kháng
cho vật nuôi thủy sản. Chế độ thay nước duy trì ở mức 30-

50% lượng nước được thay theo chu kỳ 5-7 ngày/lần, chủ
yếu là thay nguồn nước đáy. Chu kỳ thay nước có thể dài
hoặc ngắn hơn, phụ thuộc vào chất lượng môi trường ao
nuôi cụ thể. Các biện pháp trên cần được duy trì trong ao
nuôi, nhằm nâng cao tác dụng của biện pháp phòng bệnh
chủ động, hướng các mô hình nuôi thủy sản theo tiêu chí an
toàn, bền vững, có hiệu quả kinh tế cao.
Lý Vĩnh Phước

×