Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ưu thế của thủy sản đơn tính trong nuôi trồng Việc đưa vào nuôi trồng các pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.77 KB, 6 trang )

Ưu thế của thủy sản đơn tính trong nuôi trồng
Việc đưa vào nuôi trồng các loài thủy sản đơn tính sẽ
mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với thả nuôi
đại trà cả đực và cái. Chính vì vậy, các phương pháp khoa
học lẫn thủ công đã được ứng dụng trong việc tạo ra đàn
giống đơn tính để đưa vào sản xuất ở TP HCM và các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long
Một số loài thủy sản nước ngọt khi
được đưa vào nuôi thương phẩm
thường kém hiệu quả do tỷ lệ đực
hoặc cái vượt trội, đa số thường
nghiêng về giới tính không có lợi cho
người nuôi. Có thể lấy một số loài
thủy sản sau làm ví dụ:
- Cá rô phi thuộc loài Oreochromis, có số lần sinh sản
trong năm tới 12-13 lần, vì vậy, nếu trong đàn cá nuôi có số
lượng con cái quá nhiều thì sản lượng thu hoạch sẽ thấp do
các con cái phải tích lũy chất dinh dưỡng để phát triển
buồng trứng nhằm đáp ứng nhiều lần sinh sản trong năm,
do đó tốc độ tăng trưởng giảm làm cho sản lượng thấp.
- Tương tự, ở loài tôm càng xanh Macrobranchium
rosenborgii do con cái thường phải ôm trứng nhiều lần
trong chu kỳ sống, ngay cả khi trọng lượng cơ thể còn nhỏ
con cái đã tham gia sinh sản, và phải sử dụng nhiều chất
dinh dưỡng nuôi buồng trứng; nhưng do điều kiện môi
trường không phù hợp (tôm Càng xanh đẻ trứng và trứng
phải nở trong môi trường nước mặn) nên trứng dần thoái
hóa và thải ra môi trường bên ngoài mang theo nhiều dinh
dưỡng.
- Ngược lại ở cá rô đồng thuộc loài Anabas, con cái
thường có tốc độ tăng trưởng vượt trội so với con đực vì


sinh sản ít lần trong năm, tích lũy nhiều mỡ và khối lượng
buồng trứng rất lớn, chứa nhiều dinh dưỡng làm trọng
lượng con cái lớn hơn con đực rất nhiều.
Như vậy, có thể thấy việc đưa vào nuôi trồng các loài
thủy sản đơn tính sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn
nhiều lần so với thả nuôi đại trà cả đực và cái.Chính vì vậy,
các phương pháp khoa học lẫn thủ công đã được ứng dụng
trong việc tạo ra đàn giống đơn tính để đưa vào sản xuất ở
TP HCM và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; điển hình
là:
1/ Tôm càng xanh:
Được chuyển giao kỹ thuật từ Israel, Viện nghiên cứu
nuôi trồng thủy sản II đã sản xuất được con tôm cái giả
bằng phương pháp vi phẫu: cắt tuyến sinh dục đực của 01
con tôm đực trưởng thành; sau đó cho giao phối với một
con tôm đực khác có ngoại hình tốt và tốc độ tăng trọng
nhanh để sản xuất ra 01 đàn giống tôm càng xanh toàn đực.
Hiện nay, hàng năm Viện NCNTTS II cung cấp khoảng
5.000-7.000 con tôm cái giả cho Trại sản xuất giống thủy
sản của huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp để sản xuất tôm
Càng xanh giống toàn đực.
2/ Cá rô phi đơn tính:
Sử dụng sự can thiệp của hormon kích thích phát triển
tuyến sinh dục đực của đàn cá bột khi mới sinh ra, bằng
cách pha trộn với thức ăn cho cá bột ăn trong quá trình
ương lên cá hương. Sau một thời gian nhất định, đàn cá sẽ
thoái hóa tuyến sinh dục cái, chỉ phát triển tuyến sinh dục
đực và cho ra đàn cá giống toàn đực.
Đây là quy trình sản xuất giống đại trà cá Rô phi đơn tính
của Trại sản xuất cá giống của Tổng Công ty Nông nghiệp

Sài Gòn ở phường Phú Hữu, quận 9; hàng năm có thể cung
ứng trên 20 triệu con giống.
Hoặc áp dụng phương pháp lai tạo giữa các loài cá Rô phi
khác nhau như: cho lai tạo giữa cá Rô phi Đài Loan với cá
Rô phi xanh (nhập khẩu từ Trung Quốc) sẽ cho ra đàn
giống có tỷ lệ con đực trên 95%. Đây là thành tựu của quy
trình sản xuất giống của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy
sản I và đã chuyển giao cho nhiều đơn vị trong nước như
Công ty TNHH TM và Sản xuất Hải Thanh ở ấp 3, xã Hiệp
Phước, huyện Nhà Bè.
3/ Cá rô đồng:
Hiện nay chưa có phương pháp khoa học nào thành công
để sản xuất ra cá Rô đồng toàn cái; tuy nhiên trong dân
gian đã áp dụng phương pháp thủ công bằng hình thức lọc
đàn cá thông qua mắt lưới (còn gọi là chặt đầu con) để
tuyển lại những con có kích thước lớn hơn để nuôi riêng.
Đa số những con lớn đều là những con cái, có tốc độ phát
triển nhanh hơn; và quá trình tuyển lựa này phải được thực
hiện từ 2-3 lần trong 1 chu kỳ nuôi, tỷ lệ con cái sẽ đạt 65-
70%.
Phương pháp này cũng được thực hiện trong quá trình sản
xuất giống tại Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Tương Lai tại
xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi. Hiện nông dân huyện Tháp
Mười, tỉnh Đồng Tháp rất thành công khi áp dụng phương
pháp này.
Hiệu quả kinh tế và những khó khăn:
Nuôi các loài thủy sản đơn tính luôn đạt hiệu quả kinh tế
cao hơn so với các mô hình nuôi không chọn lựa giới tính,
thí dụ:
- Mô hình nuôi tôm càng xanh: Sau 05 tháng nuôi, mô

hình nuôi tôm toàn đực sẽ cho tỷ lệ tôm loại 1 (≤ 20
con/kg) cao hơn 20-40% so với tôm không phân biệt giới
tính.
- Mô hình nuôi cá rô đồng: sau 06 tháng nuôi, tỷ lệ cá loại
1 (≤ 10 con/kg) cao hơn 20-25% so với mô hình nuôi cá
không chọn lọc.
- Mô hình nuôi cá rô phi đơn tính: Hiện nay chỉ có loại cá
này được chọn nuôi phổ biến, còn loại cá rô phi thường
không còn được ưa chuộng.
Tuy nhiên, đối với các loài thủy sản đã áp dụng được sự
can thiệp của khoa học lại không thể tiến hành sản xuất
được nhiều giống, không đủ cung ứng cho nhu cầu của
nông dân. Ngược lại, loài thủy sản chưa có sự can thiệp của
khoa học lại đòi hỏi tốn rất nhiều công sức và số lượng
giống cũng chỉ thu hẹp cho từng khu vực.
Vì vậy, muốn nâng cao sản xuất trong nuôi trồng thủy
sản, cần có những chính sách phát triển khâu sản xuất
giống có chất lượng; tăng cường cơ sở vật chất cho các
Trung tâm sản xuất và ương giống, cũng như đào tạo đủ lực
lượng cán bộ khoa học cho nghiên cứu và sản xuất giống
thủy sản đơn tính.
Trịnh Biên - Sở NN&PTNT TPHCM

×