Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Luận văn : Thực trạng và giải pháp phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu tại Tp.HCM part 5 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.87 KB, 11 trang )

Những khách hàng của các công ty giao nhận hàng hóa XNK thuộc
nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau. Trong đó, nhiều nhất là doanh nghiệp
nhà nước chiếm 33,3%, kế đến là công ty TNHH chiếm 25%, còn lại là công ty
cổ phần và công ty 100% vốn nước ngoài, mỗi loại chiếm 20.8%.
Bảng 16: Các khách hàng của công ty giao nhận hàng hóa XNK
Loại hình DN Tổng cộng
Ngành nghề
Nhà
nước
TNHH
100% vốn
NN
Cổ
phần
Tuyệt đối %
Thủy hải sản 1 0 0 1
2 8,3
Hàng tiêu dùng 0 1 0 0
1 4,2
Hàng dệt may 4 2 4 1
11 45,8
Hàng nông sản 2 2 1 2
7 29,2
Khác 1 1 0 1
3 12,5
Tuyệt đối 8 6 5 5 24 Tổng
cộng
% 33,3 25,0 20,8 20,8 100
Nguồn: Khảo sát tại doanh nghiệp giao nhận
Qua khảo sát tại 24 công ty XNK trên đòa bàn Tp.HCM, kết quả cho
thấy, các khách hàng của công ty giao nhận chủ yếu hoạt động ở lónh vực hàng


dệt may chiếm 45,8%, thứ hai là lónh vực hàng nông sản chiếm 29,2%, còn lại
là lónh vực thủy hải sản, hàng tiêu dùng và các lónh vực khác.
Đối với mỗi loại hình doanh nghiệp XNK, mỗi lónh vực hoạt động kinh
doanh khác nhau mà các nhân viên sales của các công ty giao nhận sẽ có cách
tiếp cận khách hàng là khác nhau. Mặc dù hiện nay tất cả các công ty giao
nhận đều có chính sách ưu đãi dành cho khách hàng sử dụng dòch vụ tại công ty
như hoa hồng, giảm giá cho những lô hàng lớn…
Như đã phân tích ở trên, hầu hết khối lượng hàng giao nhận của các
công ty giao nhận là do sự chỉ đònh của nước ngoài. Nhưng trong tỷ lệ % khách
hàng ít ỏi còn lại là do công ty tìm được thông qua cách thức liên hệ trực tiếp
với khách hàng (điện thoại, gởi email, gặp trực tiếp…) là chính, còn lại là do
thông qua các công ty giao nhận khác và khách hàng liên hệ đến công ty.
Trong tương lai, khi các công ty XNK thực hiện những hợp đồng ngoại thương
theo điều kiện thương mại thuộc nhóm C, nhóm D của Incoterms thì cơ hội tìm
kiếm thêm khách hàng của các nhân viên sales giao nhận sẽ rộng hơn. Khi đó
các cách thức tiếp cận khách hàng phải được chú ý nhiều hơn nữa. Nhất là khi
Việt Nam gia nhập WTO, mực độ cạnh tranh tong lónh vực giao nhận trở nên
mạnh mẽ hơn, gay gắt hơn.
2.2.5.5. Các loại hình dòch vụ giao nhận hàng được cung cấp
¾ Giao nhận vận tải nội đòa
Hầu hết các công ty giao nhận trên đòa bàn Tp.HCM đều cung ứng
dòch vụ giao nhận vận tải nội đòa. Tuy nhiên thế mạnh về dòch vụ này thuộc về
các đơn vò tư nhân. Hầu như các doanh nghiệp cổ phần cũng như doanh nghiệp
nhà nước đều rơi vào tình trạng cạnh tranh không có lãi hoặc cạnh tranh không
nỗi với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hệ số sử dụng xe thấp do giá cả
không cạnh tranh, nguyên nhân chủ yếu là do:
 Phương tiện vận chuyển đã cũ, chi phí bảo dưỡng quá lớn. Phần lớn
các xe tải chở hàng trọng tải từ 2,5 đến 10 tấn là do của doanh nghiệp
nhà nước cũ chuyển giao khi cổ phần hóa doanh nghiệp. Vì vậy, doanh
nghiệp trong tình trạng thừa xe tải nhưng thiếu xe chở hàng bằng

container.
 Chi phí xăng dầu ngày một tăng cao, các loại thuế cầu đường, bảo
hiểm vận tải ngày một gia tăng. Mà các khoản này chiếm hơn 20% giá
thành vận chuyển, làm cho giá thành vận chuyển cao, khó có thể cạnh
tranh.
 Quy đònh của nhà nước trong việc hạn chế xe tải, xe container lưu
thông trong nội thành vào giờ cao điểm làm cho hệ số quay vòng xe
thấp, tỷ lệ thời gian xe chờ và nằm đường cao.
¾ Dòch vụ phân loại, đóng gói, bao bì hàng hóa
Dòch vụ này hiện chưa được các công ty giao nhận vận tải chú ý do các
công ty XNK tự đóng gói, ghi nhãn hiệu cho hàng hóa của mình. Với những lô
hàng vận chuyển theo kiểu hàng rời như phân bón, gạo…, các chủ hàng mới
nhờ các công ty giao nhận thực hiện việc đóng gói tại tàu hoặc tại kho bãi của
cảng nhằm giảm được hao hụt và tiết kiệm được chi phí vận chuyển về kho
đóng gói.
Ngoài ra, các công ty giao nhận vận tải còn thực hiện các dòch vụ trên
theo chỉ đònh của khách hàng đối với các lô hàng phi mậu dòch, hàng triễn lãm,
hàng có khối lượng nhỏ, nguồn hàng không thường xuyên… Các nguyên vật
liệu đóng gói, bao bì thường sử dụng là những nguyên vật liệu có sẵn trong
nước như carton, gỗ, bao nilon, bao nhựa tái chế để giảm chi phí, không cần
những máy móc hiện đại. Với những hàng hóa có giá trò cao như sản phẩm
công nghiệp, điện tử…, những nguyên liệu cao cấp sử dụng được sản xuất tại
chỗ như bao xốp khí, mouse để đóng gói. Việc đóng gói được thực hiện một
cách thủ công, bằng công nhân lao động tay chân, chưa có máy móc hiện đại
nào được đầu tư trang thiết bò cho công việc này ngoài những máy may bao,
máy khèn bao… Nguyên nhân do:
 Các công ty giao nhận chưa trang bò hệ thống kho bãi cũng như hệ
thống máy móc đủ để đáp ứng nhu cầu của các công ty XNK. Chỉ có
một vài doanh nghiệp nhà nước vẫn còn hệ thống kho ngày xưa để lại
hay những công ty liên doanh có vốn lớn như công ty Vietrans,

Germatrans,…
 Hàng XK chủ yếu là hàng dệt may, giày da và hàng thủy sản. Hàng
NK là nguyên phụ liệu dành cho ngành dệt may Vì vậy hàng sản
xuất xong được đóng gói ngay tại xưởng, chỉ chờ đóng container và
xuất đi.
 Quy mô, mạng lưới phân phối của các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh chưa đủ lớn để sử dụng hệ thống đóng gói, phân loại của các
công ty giao nhận. Họ thường tận dụng nhân công sẵn có để tiết kiệm
chi phí.
¾ Dòch vụ vận chuyển quốc tế
Dòch vụ này gồm có vận chuyển hàng lẻ, vận chuyển container và vận
chuyển hàng rời. Các công ty giao nhận gom nhiều lô hàng lẻ vào một
container rồi vận chuyển đi theo yêu cầu khách hàng. Có hai cách gom hàng:
 Gom hàng qua từng chặng: hình thức này chiếm tỷ lệ tương đối cao
khoảng 80%. Các công ty giao nhận sẽ đóng nhiều lô hàng có cảng
đến khác nhau rồi xuất hàng đi hay gửi đến các đại lý của hãng tàu.
Tại đây các lô hàng sẽ được tiến hành phân lại theo từng đòa điểm đến
(nếu có) sau đó sẽ vận chuyển đến Singapore hay Hồng Kông. Tại
đây, hàng sẽ được kết hợp với những lô hàng lẻ được chuuyển từ
những nước khác đến có chung cảng đích trong một container và tiếp
tục vận chuyển đi.
 Gom hàng suốt: những lô hàng có cùng nơi đến được đóng chung trong
một container và vận chuyển đến các cảng đích.
¾ Dòch vụ kho bãi
Hầu hết hệ thống kho bãi của cảng đã được xây dựng khá lâu nên chất
lượng kho đã xuống cấp, không có nơi để dụng cụ, hệ thống thông gió đã cũ kỷ
nên chỉ phù hợp với hàng nông sản, phân bón và hóa chất. Trang thiết bò dùng
cho kho là xe nâng, sử dụng lao động thủ công trong xếp dỡ nên năng suất
thấp, hàng hóa được xếp chồng lên nhau nên dễ gây đổ vỡ, hư hỏng. Các kho
còn thiếu các kệ chứa hàng nhiều tầng nên không tăng được sức chứa hàng

hóa, công tác quản lý kho còn thực hiện bằng giấy tờ theo kinh nghiệm, chưa
khoa học.
Ngoài kho của cảng, một số doanh nghiệp cũng có kho phục vụ hoạt
động kinh doanh của mình. Nhưng nhìn chung hoạt động kinh doanh kho bãi
chưa thực sự hiệu quả, tỷ lệ sử dụng chỉ 70%. Các kho chỉ dùng cho các doanh
nghiệp thuê để tập kết đóng hàng xuất hay hàng nhập về đang làm thủ tục
thông quan. Việc quản lý kho bãi chưa thực sự khoa học, chưa áp dụng các kỹ
thuật khoa học hiện đại, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý
và điều phối kho bãi. Kho CFS chưa có khả năng nối mạng thông tin với khách
hàng để phục vụ công tác kiểm tra, lưu trữ và theo dõi từng lô hàng từ kho đến
bất kỳ nơi nào trong nước trước khi đến tận kho người tiêu dùng. Chưa ứng
dụng kỹ thuật quản trò kho hàng bằng các phần mềm chuyên dùng, kỹ thuật mã
vạch (bar code) như các nước tiên tiến đang sử dụng.
Về kho ngoại quan, các công ty chưa khai thác ưu thế của nó phục vụ
cho việc sản xuất kinh doanh của các công ty. Kho ngoại quan chủ yếu để
trung chuyển hàng hóa, chưa được sử dụng làm kho lưu trữ hàng hóa chờ làm
thủ tục thông quan để có thể đưa ngay vào sản xuất và tiêu dùng khi cần thiết,
giảm thời gian chờ hàng vận chuyển khi có đơn đặt hàng; giảm những rủi ro về
giá cả hàng hóa khi có biến động thò trường theo chiều hướng xấu do dự trữ
hàng hóa đem lại.
¾ Dòch vụ khai thuê hải quan
Dòch vụ khai thuê hải quan đã có từ rất lâu, nhưng nó thực sự được
xem là loại hình kinh doanh chính thức kể từ khi có quyết đònh số 15/1999/QĐ-
TCHQ ngày 08/01/1999 của Tổng cục hải quan về “Quy chế tạm thời quản lý
dòch vụ khai thuê Hải quan”. các công ty được kinh doanh dòch vụ này phải có
“Giấy chứng nhận đăng ký là dòch vụ khai thuê Hải quan” và nhân viên phải
tham gia các lớp đào tạo nghiệp vụ do Cục Hải quan tổ chức.
Hiện nay Cục Hải Quan Tp.HCM vừa thử nghiệm khai báo thủ tục hải
quan tàu biển xuất nhập cảnh qua các cảng biển Tp.HCM sẽ được cung cấp
mọi thông tin về tàu thông qua email và sẽ được cấp giấy chứng nhận thông

quan trước khi tàu cập cảng, giảm thủ tục giấy tờ, rút ngắn thời gian thông
quan. Các doanh nghiệp khi đăng ký tờ khai thông quan hàng hóa cũng phải
tiến hành trên máy vi tính. Tuy nhiên, mọi việc vẫn không như các doanh
nghiệp mong chờ, song song với việc khai báo bằng điện tử, các doanh nghiệp
vẫn phải khai báo theo cách truyền thống. Do vậy, nếu các thủ tục trên được
tập trung thực hiện bởi công ty giao nhận đã được đào tạo chuyên môn thì chi
phí sẽ rẻ hơn nhiều. Lúc này, việc kiểm hóa sẽ tập trung hơn và thuận tiện cho
việc khai báo Hải quan bằng điện tử theo thông tư của Thành phố.
Khi kinh tế của thành phố phát triển hơn, các thủ tục hải quan cũng sẽ
phức tạp hơn trong khai báo và áp mã thuế. Vì vậy xu hướng trong tương lai là
các chủ hàng sẽ thuê công ty giao nhận vận tải lo toàn bộ thủ tục XNK cho
mình.
¾ Các dòch vụ khác
Ngoài các dòch vụ nêu trên, các công ty giao nhận sở tại còn kinh
doanh các dòch vụ hỗ trợ cho hoạt động XNK như kiểm dòch, kiểm đònh, mua
hộ bảo hiểm hàng hóa… Đối với các lô hàng XNK phải kiểm dòch và kiểm đònh
theo yêu cầu của hải quan, các doanh nghiệp đều giao cho các công ty giao
nhận thực hiện. Như vậy, các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, thời gian.
Các công ty giám đònh, kiểm dòch ở trong thành phố, vì vậy mỗi khi
các doanh nghiệp có nhu cầu kiểm tra thì phải chờ đợi các nhân viên kiểm tra
rất lâu, tốn thời gian vì các nhân viên kiểm tra đợi phải có ít nhất hai chủ hàng
trở lên. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải tốn chi phí để đưa các nhân viên
đó đến nơi hàng đang tập kết. Nếu các chủ hàng nhờ các công ty giao nhận
giúp mình làm những công việc đó thì thời gian sẽ nhanh hơn và đỡ tốn chi phí
hơn. Bởi vì các công ty giao nhận có nhiều chủ hàng nên có thể sắp xếp để các
dòch vụ đó diễn ra nhanh hơn và đỡ tốn chi phí hơn do kết hợp nhiều lô hàng.
Riêng với dòch vụ mua bảo hiểm hàng hóa thì các công ty giao nhận
cũng rất ít thực hiện. Thông thường các công ty này nhờ các hãng tàu nước
ngoài, nơi hàng đến và là những công ty mà mình làm đại lý mua giúp. Điều
này là do:

 Các công ty sản xuất kinh doanh thường ký hợp đồng ngoại thương
theo thói quen là mua CIF và bán FOB vì vậy quyền vận tải cũng như
mua bảo hiểm đã thuộc về các đối tác nước ngoài. Các doanh nghiệp
không có khách hàng thường xuyên nên không thể có được giá bảo
hiểm tốt từ các công ty bảo hiểm.
 Các công ty bảo hiểm trong nước còn yếu trong lónh vực bảo hiểm
hàng hóa. Hiện có hai công ty nhà nước hoạt động trong lónh vực này
là Công ty Bảo Minh và Bảo Việt. Các công ty này thường mua lại bảo
hiểm của nước ngoài khi có khách hàng. Vì vậy, giá phí bảo hiểm
thường cao, thủ tục nhận bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra lâu hơn và rườm
rà hơn.
 Các công ty bảo hiểm chưa có chính sách giá riêng dành cho các công
ty giao nhận vận tải nên chủ hàng thường tự mình đi mua khi có nhu
cầu.
 Cơ chế quản lý của nhà nước trong viêc cấp phép hoạt động trong lónh
vực bảo hiểm hàng hóa. Trước đây, nhà nước độc quyền trong lónh vực
này các công ty tư nhân hay công ty bảo hiểm nước ngoài không được
phép hoạt động. Chỉ trong hai năm gần đây, nhà nước ta mới mở cửa
cho các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động trong lónh vực này.
Điều này đã làm cho các công ty bảo hiểm trong nước vẫn còn hoạt
động theo cơ chế tập trung độc quyền khó có thể cạnh tranh
2.2.5.6. Nguyên nhân và các dòch vụ chủ hàng mua từ các công ty giao nhận
Như đã phân tích trên, hiện nay các công ty giao nhận hàng hóa XNK
kinh doanh nhiều loại hình dòch vụ khác nhau, từ vận chuyển nội đòa, vận
chuyển quốc tế, đóng gói bao bì, dòch vụ kho bãi, dòch vụ CFS, dòch vụ hải
quan… Tuy nhiên, các công ty XNK thường mua dòch vụ vận chuyển nội đòa,
quốc tế và dòch vụ hải quan từ các công ty giao nhận, còn các dòch vụ khác họ
tự lo.
Mỗi một công ty XNK có quy mô hoạt động, lónh vực hoạt động và lực
lượng nhân viên phục vụ khác nhau. Đa số các công ty này đều có phòng kinh

doanh XNK và bộ phận giao nhận nằm trong phòng ban này chứ không thành
lập một phòng giao nhận hàng hóa XNK chuyên biệt. Chính vì vậy một số
công ty XNK đã lựa chọn giải pháp mua dòch vụ từ các công ty giao nhận vì:
 Doanh nghiệp không có đủ lực lượng nhân sự phục vụ cho hoạt động
giao nhận, mà chỉ chuyên cho việc tìm kiếm các hợp đồng ngoại
thương và theo dõi tình hình tổ chức thực hiện các hợp đồng đã ký.
Giải pháp tuyển dụng thêm nhân sự phục vụ cho khâu giao nhận cũng
được một số doanh nghiệp đề cập đến. Nhưng các doanh nghiệp XNK
đa số ở quy mô vừa và nhỏ, do vậy nguồn hàng chưa thật sự ổn đònh và
mang tính theo mùa. Do vậy tuyển dụng nhân sự sẽ không đem lại
hiệu quả cao mà chỉ có thể giải quyết tình trạng thiếu nhân sự tạm thời
vào những mua cao điểm
 Lực lượng nhân viên làm công tác giao nhận ở các công ty XNK chưa
qua đào tạo bài bản về chuyên môn, không nắm vững về thủ tục giao
nhận, do vậy làm kéo dài thời gian tổ chức giao nhận hàng hóa, không
giải phóng hàng kòp thời, gây ách tắt hoạt động kinh doanh doanh
nghiệp
 Một số doanh nghiệp XNK lựa chọn mua dòch vụ vận tải quốc tế qua
các công ty giao nhận vì có giá cước rẽ hơn. Bởi vì, một số công ty
giao nhận có mối quan hệ tốt với các hãng tàu, làm đại lý cho họ nên
có giá cước rất tốt ở một số tuyến vận tải. Bên cạnh đó, các công ty
giao nhận thường dành một khoảng hoa hồng tương đối hấp dẫn cho
các khách hàng mua dòch vụ vận tải của mình.
Tóm lại, đa số các chủ hàng sử dụng dòch vụ giao nhận là do họ thấy
hiệu quả hơn so với tự thực hiện, tiết kiệm chi phí và thời gian làm hàng, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh XNK của doanh nghiệp.
2.2.5.7. Vấn đề giá và chất lượng dòch vụ
¾ Giá dòch vụ
Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, Việt Nam thực hiện nền kinh
tế mở từ năm 1986. Từ đó đến nay việc mua bán ngoại thương ngày càng phát

triển, nhu cầu về dòch vụ giao nhận vận chuyển hàng hóa XNK ngày càng
tăng. Do vậy ngày càng nhiều hãng tàu, công ty giao nhận ra đời. Điều này
thúc đẩy các công ty phải ngày càng nâng cao chất lượng dòch vụ và hạ giá
cước thì mới có được khách hàng, mới tồn tại trong thò trường dòch vụ cạnh
tranh khá khốc liệt này.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các doanh nghiệp XNK – khách hàng
của các công ty giao nhận – thì giá cước giao nhận vận tải ở Việt Nam vẫn còn
khá cao. Theo số liệu khảo sát, có đến 68% công ty XNK cho rằng giá dòch vụ
giao nhận ở mức cao, 25% cho rằng trung bình và chỉ có hơn 8% cho rằng là
thấp.
Bảng 17: Đánh giá của công ty XNK về giá dòch vụ giao nhận hàng hóa
XNK
Cao Trung bình Thấp
Loại hình doanh nghiệp
Số DN % Số DN % Số DN %
Doanh nghiệp nhà nước
5 20.8 2 8.3 1 4.2
Công ty TNHH
3 12.5 2 8.3 1 4.2
Công ty 100% vốn nước ngoài
4 16.7 1 4.2 0 0
Công ty cổ phần
4 16.7 1 4.2 0 0
Tổng cộng
16 66.7 6 25 2 8.4
Nguồn: Khảo sát tại doanh nghiệp giao nhận

Bảng 18: Bảng giá dòch vụ giao nhận vận tải và thời gian vận chuyển
Tuyến đường USD/cont. 20’ USD/CBM Thời gian vận chuyển
VN – Nhật 600 60 6 ngày

VN – Bỉ 1250 75 20 ngày
VN – Pháp 1600 82 22 ngày
Nguồn: Tổng hợp Transimex, Vietfrach, Sotrans
Như đã phân tích ở trên, hiện nay các doanh nghiệp XNK chủ yếu XK
theo điều kiện thương mại CIF, NK theo FOB, chính vì vậy họ không chủ động
trong việc thuê phương tiện vận tải mà phụ thuộc vào phía nước ngoài. Nói như
thế không có nghóa là trong quá khứ, hiện nay và tương lai các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung và Tp.HCM vẫn giữ mãi điều kiện kinh doanh này mà dần
phải thay thế bằng các điều kiện thương mại khác và giành quyền thuê phương
tiện vận tải về phía chúng ta. Điều này cho thấy nếu giá cước dòch vụ vận tải
cao sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp XNK trong việc tính toán giá bán
cạnh tranh. Do vậy, các doanh nghiệp giao nhận cần có những giải pháp để
nâng cao chất lượng dòch vụ, hạ giá dòch vụ, góp phần tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp XNK có lợi thế trong việc giành quyền thuê phương tiện
vận tải, và khi đó các công ty giao nhận mới có cơ hội khai thác nhiều khách
hàng hơn.
¾ Về chất lượng dòch vụ
Đa số các công ty sử dụng dòch vụ giao nhận hàng hóa XNK đều có
đánh giá chung là chất lượng dòch vụ của các công ty giao nhận trên đòa bàn ở
mức tốt: hơn 62% cho rằng chất lượng dòch vụ giao nhận ở mức tốt, 4% cho
rằng không tốt, còn lại 33% đánh giá ở mức trung bình. Như vậy vẫn còn một
số khách hàng chưa đánh giá cao chất lượng dòch vụ của các công ty giao nhận
(chiếm hơn 1/3). Do vậy các công ty giao nhận cần phải nâng cao chất lượng
dòch vụ hơn nữa để có thể giữ được khách hàng và thu hút thêm khách hàng
tiềm năng.



Bảng 19: Đánh giá của công ty XNK về chất lượng dòch vụ giao nhận
Tốt Trung bình Không tốt

Loại hình doanh nghiệp
Số DN % Số DN % Số DN %
Doanh nghiệp nhà nước
5 20.8 2 8.3 1 4.2
Công ty TNHH
5 20.8 1 4.2 0 0
Công ty 100% vốn nước ngoài
2 8.3 3 12.5 0 0
Công ty cổ phần
3 12.5 2 8.3 0 0
Tổng cộng
15 62.4 8 33.3 1 4.2
Nguồn: Khảo sát tại doanh nghiệp giao nhận
Để nâng cao chất lượng dòch vụ của ngành còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Từ việc phải tìm được đầu mối cung cấp giá cước vận tải thấp, chất
lượng vận tải phải tốt, đến các yếu tố liên quan khách quan khác như các chính
sách nhà nước, các thủ tục hành chính và đặc biệt là khâu thủ tục hải quan. Bởi
vì, theo khảo sát, hầu hết các doanh nghiệp giao nhận lẫn doanh nghiệp XNK
đánh giá thủ tục hải quan ở Việt Nam còn phức tạp (45%), còn lại là cho rằng
luật và các văn bản hướng dẫn thực thi thủ tục hải quan đơn giản nhưng thực tế
là hết sức phức tạp (55%). Không có một đơn vò nào cho rằng thủ tục hải quan
của Việt Nam là đơn giản, nhanh chóng, gọn nhẹ. Mà trong tổ chức thực hiện
hợp đồng ngoại thương, khâu làm thủ tục hải quan là khâu mà các doanh
nghiệp XNK rất ngại và thường sử dụng dòch vụ thuê ngoài (các công ty giao
nhận). Do vậy, đơn giản hóa khâu thủ tục hải quan sẽ góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp giao nhận nâng cao chất lượng dòch vụ của
mình.
2.3. Tiềm năng, thách thức và dự báo đối với GNHH XNK tại Tp.HCM
khi Việt Nam gia nhập WTO
2.3.1. Tiềm năng

Cùng với xu thế hội nhập phát triển, toàn cầu hóa nền kinh tế, dòch vụ
GNHH XNK tại Việt Nam đã hình thành và phát triển mạnh trong những năm
gần đây. Người kinh doanh dòch vụ GNHH vừa là người thiết kế, tổ chức và
làm mọi thủ tục liên quan đến vận chuyển hàng hóa XNK. Dòch vụ này phải sử
dụng các phương thức vận tải bằng đường biển, hàng không, đường bộ. Tuy là
loại hình dòch vụ mới hình thành nhưng tốc độ phát triển nhanh vì là ngành
không cần nhiều vốn đầu tư cũng như kỹ thuật hiện đại, lại phù hợp với nhu
cầu của nền kinh tế. Chính nhờ có loại hình dòch vụ này mà các doanh nghiệp
XNK có thể thực hiện các hợp đồng một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Tuy nhiên, ở Việt Nam đây là ngành mới hình thành, qui mô các doanh
nghiệp giao nhận còn khá nhỏ bé riêng lẻ nên chỉ tồn tại dưới các hình thức
cộng tác của một forwarder.
Riêng Tp.HCM, là vùng kinh tế trọng điểm và là đầu mối XNK lớn
nhất của cả nước với hệ thống cảng biển khá phát triển. Việc hình thành các hệ
thống giao thông quan trọng cũng như việc mở rộng các tuyến đường trọng yếu
trên đại bàn thành phố đã mở ra cơ hội gia tăng hoạt động dòch vụ giao nhận.
Việc hình thành nhiều công ty GNHH là tất yếu để đáp ứng nhu cầu
lưu thông, giao thương hàng hóa ngày càng tăng giữa Việt Nam và các nước,
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Và dòch vụ GNHH của Việt Nam nói
chung cũng như của Tp.HCM nói riêng chắc chắn sẽ phát triển mạnh theo đà
phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay. Nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO,
các hàng rào thuế quan được cởi bỏ và kim ngạch XNK tăng cao.
Việc đầu tư gần đây của Tp.HCM vào các kho bãi cảng biển hứa hẹn
nhiều thuận lợi cho dòch vụ giao nhận như: Dự án trò giá 744 tỷ đồng nhằm
chuyển hệ thống cảng từ trung tâm thành phố ra Cát Lái và Hiệp Phước, đầu tư
xây dựng một cảng mới tại KCN Hiệp Phước, cảng có qui mô 40ha, chiều dài
1.000m cho tàu container trọng tải 20.000-30.000 tấn và có khả năng cập tàu
container trọng tải đến 50.000 tấn, và là cảng lớn nhất ở khu vực TPHCM.
2.3.2. Thách thức
Khi nền kinh tế đất nước phát triển hội nhập vào kinh tế thế giới sẽ có

những đòi hỏi gắt gao hơn ở mọi ngành nghề. Riêng lónh vực giao nhận, khi gia
nhập WTO, sự nhanh chóng - chính xác - tiết kiệm luôn được các thương nhân
quan tâm. Vì lẽ đó, nền kinh tế cần một đội ngũ các công ty giao nhận chuyên
nghiệp có tầm hoạt động rộng và tiềm lực lớn. Thực tế hoạt động giao nhận ở
nước ta vẫn còn nhỏ bé, chưa được đầu tư đúng theo chiều sâu và chưa có sự
quan tâm đúng đắn của các cấp có thẩm quyền. Tình trạng độc quyền vẫn còn

×