Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Một số giải pháp phát triển dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.56 KB, 92 trang )

Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã có những bước tăng trưởng
đáng khích lệ. Đóng góp vào thành công chung đó không thể không kể đến
vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu tăng nhanh
nên nhu cầu bảo hiểm đối với hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng lớn và do
hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã trở thành tập quán trong
hoạt động ngoại thương nên nghiệp vụ này vẫn là nghiệp vụ quan trọng
trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm. Mặt khác, trao
đổi buôn bán hàng hoá xuất nhập khẩu hiện nay vẫn được vận chuyển chủ
yếu bằng đường biển do ưu điểm của loại hình vận chuyển này. Vì vậy, việc
phát triển hoàn thiện các vấn đề về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu bằng đường biển là một yêu cầu quan trọng trong sự phát triển của mỗi
doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng và trong toàn bảo hiểm nói chung, nhất là
trong điều kiện thị trường trong nước và quốc tế có sự cạnh tranh như hiện
nay.
Mặt khác hàng hóa vận chuyển bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro,
trách nhiệm của người chuyên chở lại rất hạn chế và việc khiếu nại bồi
thường lại rất khó khăn; việc mua bảo hiểm bảo vệ được nhiều lợi ích của
doanh nghiệp khi có tổn thất và tạo ra tâm lý an tâm trong kinh doanh; .... Vì
vậy, việc phát triển thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng
đường biển là rất cần thiết.
Trong thời gian thực tập ở ban dịch vụ- Viện chiến lược phát triển kinh tế
và được sự hướng dẫn của thầy giáo Phạm Xuân Hoà em đã chọn đề tài “
Một số giải pháp phát triển dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng
đường biển ở Việt Nam.” để làm luận văn tốt nghiệp của mình
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
1
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Nội dung luận văn tốt nghiệp của em ngoài phần mở đầu, kết luận và
tài liệu tham khảo được chia thành 3 chương.


Chương I: Lý thuyết về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng
đường biển.
Chương II: Thực trạng về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng
đường biển ở Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị phát triển dịch vụ bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển ở Việt Nam.
Do thời gian thực tập không nhiều và còn hạn chế trong lý luận cũng
như kinh nghiệm thực tế nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót nhất định. Em
rất mong nhận được sự đóng góp và ý của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
2
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP
KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỂN.
I. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu bằng
đường biển
Bảo hiểm hàng hải đã có lịch sử rất lâu đời. Nó ra đời và phát triển cùng
với sự phát triển của hàng hoá và ngoại thương. Khoảng thế kỷ thứ V trước
công nguyên, vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đã ra đời và phát triển,
người ta biết tránh tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách chia nhỏ, phân tán
chuyên chở trên nhiều thuyền khác nhau. Đây có thể nói là hình thức sơ khai
của bảo hiểm hàng hoá. Đến thế kỷ XII thương mại và giao lưu hàng hoá
ngày càng tăng, do thiên tai, tai nạn bất ngờ, cướp biển,... gây ra làm cho
giới thương nhân lo lắng nhằm đối phó với các tổn thất nặng nề có khả năng
dẫn tới phá sản họ đã đi vay vốn để buôn bán kinh doanh. Nếu hành trình
gặp phải rủi ro gây ra tổn thất toàn bộ thì các thương nhân được xoá nợ, nếu
hành trình gặp phải rủi ro gây ra tổn thất toàn bộ thì các thương nhân được
xoá nợ, nếu hành trình may mắn thành công thì ngoài vốn vay họ còn phải

trả chủ nợ một khoản tiền lãi với lãi suất rất cao. Lãi suất cao và nặng nề này
có thể coi là hình thức ban đầu của phí bảo hiểm.
Năm 1182 ở Lomborde - Bắc Ý, hợp đồng bảo hiểm hàng hóa đã ra
đời trong đó người bán đơn này cam kết với khách hàng sẽ thực hiện nội
dung đã ghi trong đơn. Từ đó hợp đồng bảo hiểm, người bảo hiểm đã ra đời
với tư cách như là một nghề riêng độc lập.
Năm 1468 tại Venise nước Ý đạo luật đầu tiên về bảo hiểm hàng hải
đã ra đời. Sự phát triển của thương mại hàng hải đã dẫn đến sự ra đời và phát
triển mạnh mẽ của bảo hiểm hàng hải và hàng loạt các thể lệ, công ước quốc
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
3
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
tế liên quan đến thương mại và hàng hải như: Mẫu hợp đồng bảo hiểm của
Lloy’d 1776 và luật bảo hiểm của Anh năm 1906, công ước Brucxen năm
1924, Hague Víby năm 1986, … Các điều khoản về bảo hiểm ngày càng
hoàn thiện.
Ở Việt Nam, thời kỳ đầu nhà nước giao cho một công ty chuyên môn
trực thuộc Bộ Tài chính kinh doanh bảo hiểm đó là công ty Bảo hiểm Việt
Nam nay là Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam. Công ty Bảo hiểm Việt Nam
được thành lập ngày 17/12/1964 theo quyết định số 179/ CP và chính thức
đi vào hoạt động ngày 15/1/1965.
Trước năm 1964 Bảo Việt chỉ làm đại lý bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu cho công ty Bảo hiểm nhân dân Trung Quốc trong trường hợp mua theo
giá FOB, CF và bán theo giá CIF với mục đích là học hỏi kinh nghiệm.
Từ năm 1965 – 1975 Bảo Việt mới triển khai ba nghiệp vụ bảo hiểm
đối ngoại trong đó có bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ sau 1970 Bảo
Việt có quan hệ tái bảo hiểm với Liên Xô, Ba Lan, Triều Tiên. Trước đó Bảo
Việt chỉ có quan hệ bảo hiểm với Trung Quốc.
Từ năm 1975 – 1992 Bảo Việt đã triển khai thêm nhiều nghiệp vụ và
mở rộng phạm vi hoạt động. Từ chỗ chỉ có quan hệ tái bảo hiểm với một số

nước xã hội chủ nghĩa cũ thì trong thời kỳ này Bảo Việt đã có quan hệ đại lý,
giám định, tái bảo hiểm với hơn 40 nước trên thế giới. Năm 1965 khi Bảo
Việt đi vào hoạt động, Bộ tài chính đã ban hành quy tắc chung về Bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển. Gần đây, để phù hợp với sự phát
triển thương mại và ngành hàng hải của đất nước, Bộ tài chính đã ban hành
quy tắc chung mới – Quy tắc chung 1990 cùng với luật hàng hải Việt Nam.
Quy tắc chung này là cơ sở pháp lý chủ yếu điều chỉnh các vấn đề về bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển.
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
4
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát triển
mạnh mẽ, xuất phát từ yêu cầu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định
thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh
bảo hiểm là một đòi hỏi thiết thực. Để đáp ứng yêu cầu cấp bách trên, Nghị
định 100/CP của Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được ban
hành ngày 18/12/1993 đã tạo điều kiện cho nhiều công ty bảo hiểm Việt
Nam đã bắt đầu phát triển với sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty, nghiệp
vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vẫn là một nghiệp vụ truyền thống mà
các nhà bảo hiểm Việt Nam vẫn duy trì và phát triển với các biện pháp, chiến
lược, sách lược giành thắng lợi trong cạnh tranh.
II. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
1. Khái niệm bảo hiểm.
1.1. Định nghĩa.
Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường
cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc
phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho
chính anh ta hoặc cho người thứ ba. Điều này có nghĩa là người tham gia
chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình
thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo

hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo
hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham
gia đăng ký với người bảo hiểm
1.2. Phân loại bảo hiểm.
• Bảo hiểm xã hội
• Bảo hiểm thất nghiệp
• Bảo hiểm y tế
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
5
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
• Bảo hiểm thương mại
• Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển
• Bảo hiểm thân tàu thuỷ
• Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
• Bảo hiểm hoạt động tham dò và khai thác dầu khí
• Bảo hiểm cháy
• Bảo hiểm tiền gửi, tiền cất giữ trong kho và trong quá trình vận
chuyển
• Bảo hiểm trong nông nghiệp
• Bảo hiểm vật chất các phương tiện vận tải
• Bảo hiểm trách nhiệm
• Bảo hiểm con người
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là nghiệp vụ bảo hiểm mà đối tượng
là hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Ðây là một trong số các nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hải đã hình thành và phát triển từ rất sớm.
2. Vai trò của ngành bảo hiểm.
Bảo hiểm nói chung mang lại những lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực
- Trước hết bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước
tổn thất và rủi ro xảy ra. Rủi ro dù do thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây
thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống sản xuất kinh doanh

của các cá nhân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, chưa kể có lúc gây thiệt
hại về người. Tổn thất đó sẽ được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài
chính để người tham gia bảo hiểm nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định
đời sống, sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác một cách bình thường.
Tác động này phù hợp với mục tiêu kinh tế nên thu hút được số đông người
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
6
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
tham gia.
- Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống
con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt lỗi lo cho mỗi cá nhân,
mỗi doanh nghiệp. Khi đã tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo
hiểm sẽ cùng với người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn
chế tổn thất rủi ro đã xảy ra. Cơ quan, công ty bảo hiểm đóng góp tài chính
một cách tích cực để thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro như tuyên
truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng tránh tai nạn, mua sắm thêm các
dụng cụ phòng cháy chữa cháy; cùng ngành giao thông làm các biển báo,
các đường lánh nạn...
- Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách nhà nước. Với quỹ
bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan, công ty bảo hiểm sẽ
trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia
để họ khôi phục đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy ngân sách nhà nước
không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp
rủi ro, tất nhiên trừ trường hợp tổn thất có tính thảm hoạ, manh tính xã hội
rộng lớn.
- Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế xã
hội. Dưới hình thức phí bảo hiểm, ngành bảo hiểm đã huy động được số
lượng vốn khá lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài chi trả trợ cấp
hay bồi thường thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các

nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm nội địa và thị
trường bảo hiểm quốc tế có mối quan hệ qua lại, thúc đẩy nhau phát triển
thông qua hình thức phân tán rủi ro và chấp nhận rủi ro – hình thức tái bảo
hiểm giữa các công ty các nước. Như vậy, bảo hiểm vừa góp phần phát triển
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
7
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
quan hệ kinh tế giữa các nước, vừa góp phần ổn định thu chi ngoại tệ cho
ngân sách.
- Bảo hiểm thu hút một số lượng lớn số lao động nhất định của xã hội, góp
phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. Đồng thời hoạt động bảo
hiểm cũng góp phần giải quyết đời sống cho bộ phận lao động làm việc
trong ngành bảo hiểm; góp phần tạo ra một bộ phận tổng sản phẩm trong
nước của quốc gia.
- Cuối cùng bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức
kinh tế xã hội; giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
3. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển..
Do đặc điểm của vận tải đường biển tác động đến sự an toàn cho hàng
hoá được chuyên chở là rất lớn. Vì vậy vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển càng được khẳng định rõ nét:
Một là: Hàng hoá xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới của một hay
nhiều quốc gia, người xuất khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thường
không trực tiếp áp tải được hàng hoá trong quá trình vận chuyển do đó phải
tham gia bảo hiểm cho hàng hoá. Ở đây, vai trò của bảo hiểm là người bạn
đồng hành với người được bảo hiểm.
Hai là, vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với
hàng hoá vượt quá sự kiểm soát của con người. Hàng hoá xuất nhập khẩu
chủ yếu lại được vận chuyển bằng đường biển do đó phải tham gia bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển.

Ba là: Theo hợp đồng vận tải người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm
về tổn thất của hàng hoá trong một phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
8
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
đơn đường biển, rất nhiều rủi ro các hàng tàu loại trừ không chịu trách
nhiệm, ngay cả các công ước quốc tế cũng quy định mức miễn trách nhiệm
rất nhiều cho người chuyên chở. Vì vậy các nhà kinh doanh phải tham gia
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Bốn là: Hàng hoá xuất nhập khẩu thường là những hàng hóa có giá trị
cao, những vật rất quan trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt
thiệt hại do các rủi ro có thể xảy ra, việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu trở thành một nhu cầu cần thiết.
Năm là: Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời
do đó việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển đã trở thành một tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động
ngoại thương.
Như vậy việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng
đường biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong
thương mại quốc tế.
III. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
bằng đường biển
1. Đặc điểm và trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình
xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển.
1.1. Đặc điểm quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng
đường biển.
- Việc xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua hợp
đồng giữa người mua và người bán với nội dung về số lượng, phẩm chất, ký
mã hiệu, quy cách đóng gói, giá cả hàng hoá, trách nhiệm thuê tầu và trả
cước phí, phí bảo hiểm, thủ tục và đồng tiền thanh toán…

Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
9
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
- Trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có sự chuyển giao quyền sở
hữu lô hàng hoá xuất nhập khẩu từ người bán sang người mua.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển qua biên giới quốc
gia, phải chịu sự kiểm soát của hải quan, kiểm dịch… tuỳ theo quy định,
thông lệ của mỗi nước. Đồng thời để vận chuyển ra ( hoặc vào ) qua biên
giới phải mua bảo hiểm theo tập quán thương mại quốc tế. Người mua tham
gia bảo hiểm có thể là người mua hàng ( người nhập khẩu ). Hợp đồng bảo
hiểm thể hiện quan hệ giữa người bảo hiểm và người mua bảo hiểm đối với
hàng hoá được bảo hiểm. Nếu người bán hàng mua bảo hiểm thì phải chuyển
nhượng lại cho người mua hàng, để khi hàng về đến nước nhập, nếu bị tổn
thất có thể khiếu nại đòi người bảo hiểm bồi thường.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển bằng các phương
tiện khác nhau theo phương thức vận chuyển đa phương tiện trong đó có tàu
biển. Người vận chuyển hàng hoá đồng thời cũng là người giao hàng cho
người mua. Vì vậy người chuyên chở là bên trung gian phải có trách nhiệm
bảo vệ, chăm sóc hàng hoá đúng quy cách, phẩm chất, số lượng từ khi nhận
của người bán đến khi giao cho người mua hàng.
Quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có liên quan đến nhiều bên, trong đó
có bốn bên chủ yếu là: Người bán ( bên xuất khẩu ), người mua ( bên nhập
khẩu ), người vận chuyển và người bảo hiểm. Vì vậy, cần phải phân định rõ
ràng trách nhiệm của các bên liên quan và khi tiến hành xuất nhập khẩu hàng
hoá các bên liên quan phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
1.2. Trách nhiệm của các bên liên quan.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua ba
loại hợp đồng: Hợp đồng mua bán, hợp đồng vận chuyển và hợp đồng bảo
hiểm. Ba hợp đồng này là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm các bên
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B

10
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
liên quan và trách nhiệm này phụ thuộc vào điều kiện giao hàng của hợp
đồng mua bán. Theo các điều kiện thương mại quốc tế “ INCOTERMS
2000” có 13 loại điều kiện giao hàng, được phân chia thành 4 nhóm E, F, C,
D.
Nhóm E : Giao hàng tại cơ sở của người bán – quy ước người bán đặt
hàng hoá dưới quyền định đoạt của người mua ngay tại xưởng của người
bán.
Nhóm F: Cước vận chuyển chính chưa trả - quy ước người bán được yêu
cầu giao hàng hoá cho một người chuyên chở do người mua chỉ định (nhóm
điều kiện F gồm: FCA, FAS và FOB);
Nhóm C: Cước vận chuyển chính chưa trả - quy ước người bán phải hợp
đồng thuê phương tiện vận tải, nhưng không chịu rủi ro về mất mát hoặc hư
lại đối với hàng hoá hoặc các phí tổn phát sinh thêm do các tình huống xảy
ra sau khi đã gủi hàng và bốc hàng lên tàu. ( nhóm điều kiện C gồm:
CFR,CIF, CPT, CIP )
Nhóm D: Nơi hàng đến, tức người bán giao hàng tại nước người mua –
quy ước người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro cần thiết để đưa hàng hoá
tới địa điểm quy định ( nhóm điều kiện D: DAF, DES, DEG , DDU, DDP)
Trong đó thông dụng nhất là điều kiện FOB( giao hàng lên tàu ), điều
kiện CFR ( tiền hàng và cước phí ), điều kiện CIF( Tiền hàng, phí bảo hiểm
và cước phí).
Trong các điều kiện giao hàng, ngoài phần giá hàng, tuỳ theo từng
điều kiện cụ thể mà có thể thêm cước phí vận chuyển và phí bảo hiểm. Có
những điều kiện giao hàng mà người bán không có trách nhiệm thuê tàu vận
chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hoá. Như vậy, tuy bán được hàng nhưng
dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm sẽ do người mua đảm nhận (điều kiện
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
11

Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
FOB). Có trường hợp giao hàng theo điều kiện mà ngoài việc xuất khẩu
được hàng hoá, người bán còn có trách nhiệm thuê tàu vận chuyển và bảo
hiểm cho số hàng hoá (điều kiện CIF ). Thực tế, các tập đoàn kinh tế hoạt
động trên nhiều lĩnh vực sản xuất, vận chuyển, bảo hiểm,… khi giao hàng
theo điều kiện nhóm C và D, bên cạnh việc bán hàng còn giành cho họ dịch
vụ vận chuyển và bảo hiểm cho số hàng đó. Vì vậy, nếu nhập khẩu hàng
theo điều kiện FOB, hay điều kiện CFR thì sẽ giữ được dịch vụ vận chuyển
và bảo hiểm, hay chỉ dịch vụ bảo hiểm. Nếu trong hoạt động nhập khẩu, bán
hàng theo giá CIF, người bán cũng giữ được dịch vụ vận chuyển và bảo
hiểm. Như vậy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành vận tải đường
biển và ngành bảo hiểm của quốc gia đó.
Nói chung trách nhiệm của các bên liên quan được phân định như sau:
• Người bán: Chuẩn bị hàng hoá theo đúng hợp đồng về số lượng, chất
lượng, loại hàng, bao bì đóng gói, thời hạn tập kết hàng ở cảng; thủ tục hải
quan, kiểm dịch. Nếu bán theo giá CIF, người bán phải mua bảo hiểm cho
hàng hoá, sau đó ký hậu vào đơn bảo hiểm để chuyển nhượng quyền lợi bảo
hiểm cho người mua.
• Người mua: Có trách nhiệm nhận hàng của người chuyên chở theo
đúng số lượng, chất lượng đã ghi trong hợp đồng vận chuyển và hợp đồng
mua bán, lấy giấy chứng nhận kiểm đến, biên bản kết toán giao nhận hàng
với chủ tàu, biên bản hàng hoá hư hỏng đổ vỡ do tàu gây nên. Nếu sai lệch
về số lượng và chất lượng với hợp đồng mua bán nhưng đúng với hợp đồng
vận chuyển thì người mua bảo lưu quyền khiếu nại đối với người bán. Nếu
phẩm chất, số lượng sai lệch so với biên bản giao hàng thì người mua căn cứ
vào hàng hư hỏng đổ vỡ do tàu gây nên mà khiếu nại người vận chuyển.
Ngoài ra người mua có trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hoá hoặc nhận
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
12
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp

từ người bán chuyển nhượng lại.
• Người vận chuyển: Có trách nhiệm chuẩn bị phương tiện chuyên chở
theo yêu cầu kỹ thuật thương mại và kỹ thuật hàng hải, giao nhận hàng đúng
quy định theo hợp đồng vận chuyển. Theo tập quán thương mại quốc tế thì
tàu chở hàng cũng phải được bảo hiểm. Người vận chuyển còn có trách
nhiệm cấp vận đơn cho người gửi hàng. Vận đơn là một chứng từ vận
chuyển hàng trên biển do người vận chuyển cấp cho người gửi hàng nhằm
nói lên quan hệ pháp lý giữa người vận chuyển, người gửi hàng và người
nhận hàng. Có nhiều loại vận đơn, nhưng ở đây cần quan tâm đến vận đơn
hoàn hảo và vận đơn không hoàn hảo.
• Người bảo hiểm: Có trách nhiệm đối với hàng hoá được bảo hiểm.
Chẳng hạn, kiểm tra chứng từ về hàng hoá, kiểm tra hành trình và bản thân
con tàu vận chuyển… Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo
hiểm, người bảo hiểm có trách nhiệm tiến hành giám định, bồi thường tổn
thất và đòi người thứ ba nếu họ gây tổn thất này.
2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
bằng đường biển.
2.1. Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển
Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển là
những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây ra làm hư hỏng hàng
hoá và phương tiện chuyên chở.
Rủi ro hàng hải gồm nhiều loại:
• Theo nguyên nhân, rủi ro hàng hải bao gồm rủi ro do thiên tai, rủi ro
do tai nạn bất ngờ trên biển và rủi ro do hành động của con người. Ngoài ra
còn rủi ro do lúc xếp dỡ hàng, hàng bị nhiễm mùi lây bẩn,…
- Rủi ro do thiên tai: Là những hiện tượng do thiên tai gây ra như biến
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
13
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
động, bão, lốc, sét, thời tiết quá xấu… mà con người không chống lại được.

- Rủi ro do tai nạn bất ngờ trên biển: Mắc cạn, đắm, bị phá huỷ, cháy,
nổ, mất tích, đâm va với tàu hoặc vật thể khác không phải là nước, phá hoại
của thuyền trưởng, thuỷ thủ trên tàu.
- Rủi ro do hành động của con người: Ăn trộm, ăn cắp hàng, mất
cướp, chiến tranh, đình công, bắt giữ, tịch thu…
• Theo nghiệp vụ bảo hiểm: rủi ro thông thường được bảo hiểm, rủi ro
không được bảo hiểm và rủi ro được bảo hiểm trong trường hợp đặc biệt.
- Rủi ro thông thường được bảo hiểm: Bão, lốc, sóng thần, mắc cạn,
đâm va …
- Rủi ro không được bảo hiểm: Các hành vi sai lầm cố ý của người
được bảo hiểm, bao bì không đúng quy cách, vi phạm thể lệ xuất nhập khẩu
hoặc vận chuyển chậm trễ làm mất thị trường, sụt giá…
- Rủi ro được bảo hiểm trong trường hợp đặc biệt: Rủi ro do chiến
tranh, định công, bạo loạn… thường không được nhận bảo hiểm. Trong
trường hợp chủ hàng yêu cầu rủi ro chiến tranh sẽ được nhận bảo hiểm kèm
theo rủi ro thông thường được bảo hiểm với điều kiện trả thêm phụ phí đặc
biệt.
2.2. Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường
biển.
Tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu là những thiệt
hại hư hỏng của hàng hoá được bảo hiểm do rủi ro gây ra.
 Nếu căn cứ theo quy mô,mức độ tổn thất có thể chia thành hai
loại: Tổn thất toàn bộ và tổn thất bộ phận.
• Tổn thất bộ phận là một phần của đối tượng được bảo hiểm theo một
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
14
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
hợp đồng bảo hiểm bị mất mát,hư hỏng, thiệt hại.Tổn thất bộ phận có thể là
tổn thất về số lượng, trọng lượng, thể tích, phẩm chất hoặc giá trị.
• Tổn thất toàn bộ là toàn bộ đối tượng được bảo hiểm theo một hợp

đồng bảo hiểm bị hư hỏng thiệt hại hoặc mất mát:
- Tổn thất toàn bộ thực tế : là toàn bộ đối tượng được bảo hiểm theo
một hợp đồng bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến
dạng không còn như lúc mới được bảo hiểm hay bị mất đi, bị tước đoạt không
lấy lại được nữa.
- Tổn thất toàn bộ ước tính: là trường hợp đối tượng được bảo hiểm
bị thiệt hại, mất mát chưa tới mức độ tổn thất toàn bộ thực tế, nhưng không
thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế; hoặc nếu bỏ thêm chi phí ra cứu chữa
thì chi phí cứu chữa có thể lớn hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm.
 Nếu phân theo trách nhiệm bảo hiểm thì tổn thất bao gồm tổn thất
riêng và tổn thất chung.
• Tổn thất riêng là tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hoặc một số
quyền lợi của các chủ hàng và chủ tàu trên một con tàu. Tổn thất riêng chỉ
liên quan đến từng quyền lợi riêng biệt.
• Tổn thất chung là những hi sinh hay chi phí đặc biệt được tiến
hành một cách cố ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hoá chở trên
tàu thoát khỏi một sự nguy hiểm chung.
3. Điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển.
Điều kiện bảo hiểm là những quy định phạm vi trách nhiệm của người
bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hoá. Hàng được bảo hiểm theo điều kiện
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
15
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
bảo hiểm nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong điều kiện đó mới
được bồi thường. Sau đây là những điều kiện bảo hiểm.
• Institute cargo clauses C ( ICC- C ) - điều kiện bảo hiểm C.
• Institute cargo clauses B ( ICC- B ) - điều kiện bảo hiểm B.
• Institute cargo clauses A ( ICC - A ) - điều kiện bảo hiểm A.
• Institute war clauses - điều kiện bảo hiểm chiến tranh.

• Institute strikes clauses - điều kiện bảo hiểm đình công.
3.1. Điều kiện bảo hiểm C ( ICC – C ).
3.1.1. Rủi ro được bảo hiểm.
- Cháy hoặc nổ
- Tàu hay xà lan bị mắc cạn, đắm hoặc lật úp.
- Tàu đâm va nhau hoặc tàu, xà lan hay phương tiện vận chuyển
đâm va phải bất kỳ vật thể gì bên ngoài không kể nước hoặc bị mất tích.
- Dỡ hàng tại cảng lánh nạn.
- Phương tiện vận chuyển đường bộ bị lật đổ hoặc bị trật bánh.
- Hi sinh vì tổn thất chung.
- Ném hàng khỏi tàu.
3.1.2. Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác.
- Tổn thất chung và chi phí cứu hộ được điều chỉnh hay xác định
bằng hợp đồng vận tải hoặc theo luật lệ và tập quán hiện hành.
- Những chí phí và tiền công hợp lý cho việc dỡ hàng lưu kho và
gửi tiếp hàng hoá được bảo hiểm tại cảng dọc đường hay cảng lánh nạn do
hậu quả của một rủi ro thuộc phạm vi hợp đồng bảo hiểm.
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
16
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
- Những chi phí mà người được bảo hiểm hoặc đại lý của họ đã chi
nhằm phòng tránh hoặc giảm nhẹ tổn thất cho hàng hoá được bảo hiểm hoặc
những chi phí kiện tụng để đòi người thứ ba bồi thường.
- Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều
khoản “ hai bên cùng có lỗi “ ghi trong hợp đồng vận tải.
3.1.3. Rủi ro loại trừ.
Trừ khi có thoả thuận khác người bảo hiểm không chịu trách
nhiệm đối với những mất mát, hư hỏng hay chi phí gây ra bởi:
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, khởi nghĩa hoặc hành động thù
địch.

- Việc chiếm, bắt giữ, cầm giữ tài sản hoặc kiềm chế và hậu quả của
chúng.
- Mìn, thuỷ lôi, bom hay những vũ khí chiến tranh khác đang trôi dạt.
- Đình công, cấm xưởng, rối loạn lao động hoặc lao động.
- Người đình công, công nhân bị cấm xưởng, người gây rối loạn lao
động hoặc lao động, kẻ khủng bố hay hành động vì động cơ chính trị.
- Việc sử dụng các vũ khí chiến tranh có dùng đến năng lượng nguyên
tử, hạt nhân hoặc chất phóng xạ.
- Khuyết tật vốn có tính chất đặc biệt của hàng hoá bảo hiểm.
- Hành động ác ý hay cố ý của bất cứ người nào.
Trong mọi trường hợp, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với
những mất mát, hư hỏng và chi phí do:
- Việc làm xấu cố ý của người được bảo hiểm.
- Chậm chễ là nguyên nhân trực tiếp.
- Tàu hay xà lan không đủ khả năng đi biển và do tàu, xà lan, phương
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
17
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
tiện vận chuyển hoặc container không thích hợp cho việc chuyên chở hàng
hoá mà người được bảo hiểm hay người làm công cho họ đã biết về tình
trạng đó vào thời gian bốc xếp hàng hoá.
- Bao bì không đầy đủ hoặc không thích hợp.
- Hao hụt tự nhiên, hao mòn tự nhiên, dò chảy thông thường.
- Chủ tàu, người quản lý tàu hoặc thuê tàu không trả được nợ hoặc
thiếu thốn về mặt tài chính gây ra.
3.2. Điều kiện bảo hiểm B ( ICC- B )
3.2.1. Rủi ro được bảo hiểm.
Như điều kiện C và mở rộng thêm một số điều kiện sau:
- Động đất, núi lửa phun, sét đánh.
- Nước cuốn khỏi tàu.

- Nước biển, nước sông chảy vào tàu, xà lan, hầm hàng, phương tiện
vận chuyển, container hoặc nơi chứa hàng.
- Tổn thất toàn bộ của bất kỳ kiện hàng hoá nào do rơi khỏi tàu hoặc
rơi trong khi xếp hàng lên hay đang dỡ hàng khỏi tàu hoặc xà lan.
3.2.2. Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác.
Như điều kiện C.
3.2.3. Rủi ro loại trừ.
Như điều kiện C.
3.3. Điều kiện bảo hiểm A ( ICC- A )
3.3.1. Rủi ro được bảo hiểm.
Theo điều kiện này, người bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về mọi rủi ro
gây ra mất mát hư hỏng cho hàng hoá bảo hiểm trừ những rủi ro đã được loài
trừ. Rủi ro được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm này bao gồm cả rủi ro
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
18
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
chính (tàu mắc cạn, đắm, cháy, đâm va nhau, đâm va phải những vật thể
khác, mất tích ...) và những rủi ro phụ (hư hỏng, đổ vỡ, cong, bẹp, gỉ, hấp
hơi, thiếu hụt, trộm cắp, không giao hàng ...) do tác động ngẫu nhiên bên
ngoài trong quá trình vận chuyển xếp dỡ, giao nhận vận chuyển, lưu kho
hàng hoá.
3.3.2. Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác.
Như điều kiện B, C.
3.3.3. Rủi ro loại trừ.
Như điều kiện B, C; loại trừ thiệt hại do hành động ác ý gây ra.
3.4. Điều kiện bảo hiểm chiến tranh.
Theo điều kiện này, người bảo hiểm phải bồi thường những mất mát,
hư hỏng của hàng hoá do:
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung
đột dân sự xảy ra từ những biến cố đó hoặc bất kỳ hành động thù địch nào.

- Chiếm đoạt, bắt giữ, kiềm chế hoặc cầm giữ.
- Mìn, thuỷ lôi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác
- Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm đối với rủi ro chiến tranh
hẹp hơn các rủi ro thông thường. Bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực khi hàng hoá
được xếp lên tàu biển và kết thúc khi được dỡ khỏi tàu tại cảng cuối cùng
hoặc khi hết hạn 15 ngày kể từ nửa đêm ngày tàu đến cảng dỡ cuối cùng,
tuỳ theo diều kiện nào xảy ra trước. Nếu có chuyển tải, bảo hiểm vẫn tiếp
tục có hiệu lực cho đến khi hết hạn 15 ngày kể từ nửa đêm ngày tàu đến
cảng chuyển tải.
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
19
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Đối với rủi ro mìn và ngư lôi trách nhiệm của người bảo hiểm được
mở rộng ra cả khi hàng hoá còn ở trên xà lan để vận chuyển ra tàu hoặc từ
tàu vào bờ nhưng không vượt quá 60 ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu, trừ
khi có thoả thuận đặc biệt khác.
3.5. Điều kiện bảo hiểm đình công.
Theo điều kiện này, chỉ bảo hiểm cho những mất mát, hư hỏng của
hàng hoá được bảo hiểm do:
- Người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham
gia gây rối loạn lao động, bạo động hoặc nổi dậy.
- Hành động khủng bố hoặc vì mục đích chính trị.
- Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Người bảo hiểm chỉ bồi thường những tổn thất do hành động trực tiếp
của những người đình công mà không chịu trách nhiệm về những thiệt hại do
hậu quả của đình công gây ra.
3.6. Trách nhiệm của bảo hiểm về mặt không gian và thời gian.
Bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi hàng dời khỏi kho hay nơi
chứa hàng tại địa điểm có ghi trên hợp đồng bảo hiểm để bắt đầu vận

chuyển, tiếp tục có hiệu lực trong quá trình vận chuyển bình thường và kết
thúc tại một trong các thời điểm sau.
 Khi giao hàng vào kho hay nơi chứa hàng cuối cùng của người
nhận hàng hoặc một người nào khác tại nơi nhận có ghi tên trong hợp đồng
bảo hiểm.
 Khi giao hàng cho bất kỳ kho hay nơi chứa hàng nào khác, dù
trước khi tới hay tại nơi nhận hàng ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà người
được bảo hiểm dùng làm: nơi chia hay phân phối hàng hoặc nơi chứa hàng
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
20
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
ngoài hành trình vận chuyển bình thường.
 Khi hết hạn 60 ngày kể từ khi hoàn thành việc dỡ hàng khi tàu
biển tại cảng dỡ cuối cùng ghi trên đơn bảo hiểm.
Trong quá trình vận chuyển nói trên nếu xảy ra chậm chễ ngoài sự
kiểm soát của người được bảo hiểm, tàu đi chệch hướng dỡ hàng bắt buộc,
chuyển tải ngoại lệ hoặc thay đổi hành trình thì hợp đồng bảo hiểm vẫn giữ
nguyên hiệu lực với điều kiện người được bảo hiểm phải thông báo cho
người bảo hiểm biết về việc xảy ra và phải trả thêm phí bảo hiểm nếu có yêu
cầu.
4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển.
4.1. Khái niệm.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển là một
văn bản trong đó người mua bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người tham
gia bảo hiểm các tổn thất của hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm đã ký
kết, còn người tham gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm.
4.2. Các loại hợp đồng bảo hiểm.
Trong hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển
người ta chia ra làm hai loại hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm

chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao:
 Hợp đồng bảo hiểm chuyến: Là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến
hàng được vận chuyển từ địa điểm này đến một địa điểm khác ghi trong hợp
đồng bảo hiểm. Người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng hoá trong
phạm vi một chuyến. Hợp đồng bảo hiểm chuyến thường được trình bày
dưới hình thức đơn bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm do người bảo
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
21
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
hiểm cấp. Đơn bảo hiểm chính là một hợp đồng bảo hiểm chuyến đầy đủ.
Nội dung gồm hai phần: mặt trước và mặt sau của đơn bảo hiểm. Mặt trước
thường ghi các chi tiết về hàng, tàu, hành trình. Mặt sau thường ghi các điều
lệ hay các quy tắc bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Nội dung của hợp đồng
bảo hiểm chuyến chủ yếu bao gồm:
- Ngày cấp đơn bảo hiểm và nơi ký kết hợp đồng bảo hiểm.
- Tên, địa chỉ, số tài khoản của người bảo hiểm và người được bảo
hiểm.
- Tên hàng hoá được bảo hiểm, quy cách, số lượng, chủng loại...
- Tên tàu, số hiệu, cờ, dung tích của tàu vận chuyển...
- Cảng khởi hành, cảng đích, cảng chuyển tải ( nếu có ).
- Giám định viên và phương thức bồi thường.
.v.v...
Hợp đồng bảo hiểm chuyến có thể là hợp đồng hành trình, hợp đồng
đồng thời gian, hợp đồng hỗn hợp, hợp đồng đánh giá hoặc hợp đồng không
định giá. Hợp đồng bảo hiểm chuyến thường dùng bảo hiểm cho những lô
hàng nhỏ, lẻ tẻ, không có kế hoạch chuyên chở nhiều lần.
 Hợp đồng bảo hiểm bao ( Hợp đồng bảo hiểm mở ): là hợp đồng
bảo hiểm trong đó người bảo hiểm nhận bảo hiểm cho một khối lượng hàng
vận chuyển trong nhiều chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định
(thường là một năm ) hoặc nhận bảo hiểm cho một khối lượng hàng hoá vận

chuyển nhất định không kể đến thời gian. Tất cả các chuyến hàng thuộc
phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm đều được bảo hiểm một cách tự
động, linh hoạt và phí bảo hiểm thường được trả theo thời gian thoả thuận,
thường là theo tháng.
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
22
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm bao gồm các vấn đề chung nhất, có
tính nguyên tắc như: nguyên tắc chung, phạm vi trách nhiệm, việc đóng gói
hàng, loại phương tiện vận chuyển, giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí
bảo hiểm và phương thức thanh toán phí, giám định, bồi thường... Trong hợp
đồng phải có ba điều kiện cơ bản sau:
- Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hoá được bảo hiểm.
- Điều kiện về giá trị bảo hiểm.
- Điều kiện về quan hệ trên tinh thần thiện chí.
Hợp đồng bảo hiểm bao có lợi ích cho cả người bảo hiểm và người được
bảo hiểm. Người bảo hiểm đảm bảo thu được một khoản phí bảo hiểm trong
thời hạn bảo hiểm. Người được bảo hiểm vẫn được người bảo hiểm chấp
thuận bảo hiểm ngay cả khi hàng đã xếp lên tàu vận chuyển rồi mà chưa kịp
thông báo bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm bao dùng để bảo hiểm cho hàng hoá
xuất nhập khẩu thường xuyên khối lượng lớn vận chuyển làm nhiều chuyến.
Điều khoản huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm quy định cho phép một bên có thể
huỷ bỏ hợp đồng hoặc bất kỳ một phần nào của hợp đồng với điều kiện phải
thông báo trước ( thường là 30 ngày ).
4.3. Nội dung hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm được in sẵn thành mẫu thường bao gồm 2 mặt: mặt
trước gồm các thông tin về người bảo hiểm, người được bảo hiểm và đối
tượng bảo hiểm; mặt sau in sẵn các quy định cơ bản về bảo hiểm. Mẫu của
các nước khác nhau có thể khác nhau song hiện nay hầu hết các nước, các
công ty đều sử dụng mẫu đơn bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm London từ

tháng 4 năm 1982 theo quy định của ICC - 1982. Nội dung của hợp đồng bảo
hiểm bao gồm:
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
23
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
- Tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản ở ngân hàng của người bảo hiểm và
người được bảo hiểm.
- Tên hàng hoá được bảo hiểm, số lượng, trọng lượng, loại bao bì,
cách đóng gói...
- Loại tàu chuyên chở: tên tàu, tuổi tàu, cờ tàu, trọng tải, dung tích...
- Cách xếp hàng trên tàu.
- Nơi đi, nơi đến, nơi chuyển tải.
- Người gửi hàng.
- Thời gian khởi hành và thời gian cả hành trình.
- Điều kiện bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm.
- Nơi giám định tổn thất, nơi thanh toán bồi thường.
- Ký tên, đóng dấu.
Những nội dung trên được ghi tóm tắt trên đơn bảo hiểm cấp cho mỗi
chuyến hàng tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm còn ghi các
điều khoản về quyền và trách nhiệm của mỗi bên. Trong đó có một số nội
dung cơ bản như sau:
4.3.1. Giá trị bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế của lô hàng. Giá trị thực tế của lô hàng
có thể là giá hàng hoá( giá FOB ) cũng có thể bao gồm: giá hàng hoá,
cước phí vận chuyển, phí bảo hiểm và các chi phí liên quan khác. Công
thức xác định: V= C + I + F.
Trong đó: V – là giá trị bảo hiểm của hàng hoá.
C – là giá hàng tại cảng đi ( giá FOB ).
I – là phí bảo hiểm .
F – là cước phí vận tải.

Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
24
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Ngoài ra để đảm bảo quyền lợi của mình, người được bảo hiểm có thể bảo
hiểm thêm cả khoản lãi dự tính do việc xuất nhập khẩu mang lại: Khi xuất
nhập khẩu theo giá CIF hoặc CIP thì theo tập quán giá trị bảo hiểm sẽ tính
thêm 10% lãi dự tính. Như vậy khi xuất nhập khẩu theo giá CIF thì:
V= 110% * CIF
hoặc xuất theo giá CIP thì:
V= 110% * CIP
4.3.2. Số tiền bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm là toàn bộ hay một phần giá trị bảo hiểm do người được
bảo hiểm yêu cầu và được bảo hiểm.
Về nguyên tắc, số tiền bảo hiểm chỉ có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo
hiểm. Nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì phần lớn hơn đó sẽ
không được bảo hiểm. Ngược lại, nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo
hiểm tức là người được bảo hiểm tự bảo hiểm lấy một phần thì người bảo
hiểm cũng chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm đã được ghi trong
hợp đồng. Nếu đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm trùng, tức là cùng một rủi
ro, một giá trị bảo hiểm nhưng lại được bảo hiểm ở nhiều công ty bảo hiểm
khác nhau thì trách nhiệm của tất cả các công ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn
trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Trong xuất nhập khẩu nếu có số tiền bảo
hiểm chỉ bằng giá trị hóa đơn hay giá FOB hoặc giá CFR thì người được bảo
hiểm chưa bảo hiểm đầy đủ giá trị hay nói cách khác là bảo hiểm dưới giá trị.
4.3.3. Phí bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà người được bảo hiểm phải trả cho
người bảo hiểm để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro đã thoả
thuận gây nên. Phí bảo hiểm thường được tính toán trên cơ sở thống kê tổn
Nguyễn Thị Thảo Lớp: kinh tế phát triển 47 B
25

×