Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

đề cương ôn thi cao học môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.22 KB, 89 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI CAO HỌC
MÔN: TRIẾT HỌC
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học và các trường phái triết học?
a) Vấn đề cơ bản của triết học
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết nghiên cứu về những vấn
đề chung nhất của thế giới tự nhiên, XH và con người, nghiên cứu và giải quyết mối quan hệ của
con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
- Đối tượng nghiên cứu của Triết học :
+ Những quy luật chung, phổ biến, có trong cả tự nhiên, XH, tư duy.
+ Nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người nói chung và tư duy con người nói riêng với thế
giới xung quanh họ.
+ Nghiên cứu về phương pháp suy nghó , phương pháp tư duy của con người.
- Vấn đề cơ bản của mọi học thuyết, mọi trường phái triết học từ trước đến nay là giải quyết
mối quan hệ giữa tâm và vật, giữa vật chất và ý thức . ngen đã chỉ rõ:”Vấn đề cơ bản lớn của
mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại là vấn đề giữa tư duy và tồn tại”.
Sự khẳng đònh dựa trên những căn cứ, lý do chủ yếu sau đây:
+ Các học thuyết, các trường phái triết học dù khác nhau đến mấy thì câu hỏi trước hết cần
giải quyết là: thế giới trong tư duy con người có quan hệ như thế nào với thế gới bên ngoài, và tư
duy con người có khả năng nhận biết được thế giới bên ngoài hay không. Những tri thức mà con
người có được bắt nguồn từ đâu.
+ Việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vừa là điểm xuất phát vừa là cơ sở để
giải quyết mọi vấn đề trong triết học, đặc biệt là những vấn đề thuộc lòch sử về đới sống XH của
con người.
+ Thông qua việc giải quyết mối quan hệ vật chất-ý thức để có sự phân đònh về sự khác nhau
giữa các hệ thống triết học trong lòch sử.
- Nội dung giữa vấn đề cơ bản gồm 2 mặt:
+ Giải quyết vật chất và ý thức cái nào có trước cái nào có sau? Cái nào giữ vai trò quyết
đònh.
+ Ý thức con người có thể phản ánh trung thực thế giới bên ngoài, con người có khả năng
nhận thức được thế giới bên ngoài hay không.
b) Các trường phái triết học


Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học từ trong lòch sử các
trường phái triết học đã được phân chia thành những trường phái sau đây:
+ Những người cho rằng giới tự nhiên, vật chất là cái có trước và quyết đònh ý thức thì được
gọi là các nhà triết học duy vật, quan điểm và học thuyết của họ hợp thành những trường phái
khác nhau của chủ nghóa duy vật.
+ Những người cho rằng ý thức tinh thần là có trước quy đònh thế giới vật chất thì được gọi là
các nhà triết học duy tâm, quan điểm và học thuyết của họ hợp thành những trường phái khác
nhau của chủ nghóa duy tâm.
+ Những người cho rằng vật chất ý thức cùng song song tồn tại…quyết đònh thế giới không có
cái nào có trước có sau và cũng không có cái nào quyết đònh cái nào thì gọi là các nhà triết học
nhò nguyên, học thuyết của họ hợp thành triết học Nhò nguyên luận.
* Trường phái triết học duy vật có lòch sử hình thành phát triển qua 3 hình thái chủ yếu sau:
1
+ Hình thái lòch sử đầu tiên của chủ nghóa duy vật là CNDV thời cổ đại còn mang tính chất
phác và chủ yếu dựa trên sự quan sát trực tiếp và những kinh nghiệm cảm tính, nó chưa có được
một cơ sở khoa học là nền tảng.
+ Hình thái lòch sử thứ hai của CNDV là CNDV siêu hình xuất hiện trong khoảng thế kỷ XVII
– XVIII, nó xem xét giới tự nhiên và con người như một hệ thống máy móc phức tạp khác nhau
và chỉ nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong trạng thái biệt lập không vận động và không phát
triển.
+ Hình thái thứ 3 của CNDV là CNDV biện chứng với đặc điểm nổi bật có sự thống nhất chặt
chẽ giữa chủ nghóa duy vật với phép biện chứng trên cơ sở những thành tựu khoa học chuyên
ngành cụ thể.
Ngoài những hình thái cơ bản trên trong lòch sử phát triển của CNDV còn có CNDV tầm
thường (đồng nhất vật chất-ý thức, xem nhẹ vai trò của ý thức) và CNDV kinh tế (xem kinh tế là
nhân tố duy nhất quyết đònh sự vận động phát triển toàn bộ đời sống XH).
* Trường phái triết học duy tâm cũng được thể hiện dười hình thái sau đây:
+ Chủ nghóa duy tâm khách quan: Với quan điểm cho rằng có một thực thể tinh thần ý thức
tồn tại một cách độc lập ở bên ngoài con người và thế giới vật chất nó có trước và sản sinh ra
toàn bộ thế giới vật chất và cả con người; Nó quy đònh và quyết đònh sự vận động phát triển của

thế giới vật chất. Hai đại biểu lớn nhất của trường phái đó là: Platôn và Hêgen.
+ Chủ nghóa duy tâm chủ quan: với quan niệm cho rằng cảm giác là cái có trước và tồn tại sẵn
trong con người. Các sự vật hiện tượng bên ngoài chỉ là phức hợp của cái cảm giác đó mà thôi.
Hai đại biểu của trường phái duy tâm chủ quan là: Hium và Bécơly.
Căn cứ vào giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản:
Trong triết học xuất hiện các trường phái triết học khác nhau, những người cho rằng con người
và loài người có khả năng nhận thức được sự vật hiện tượng nói riêng và thế giới vật chất nói
chung thì được gọi là những nhà theo trường phái khẳng đònh lạc quan. Những người cho rằng
con người và loài người không thể nhận biết được bản chất sự vật hiện tượng cũng như thế giới
vật chất thì được xếp vào những nhà hoài nghi chủ nghóa hoặc thậm chí những nhà không thể
biết (bất khả tri)./.
Câu 2: Quan niệm của các nhà duy vật trước Mác về vật chất.
-Việc tìm hiểu để khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh là
một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lòch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết
các trường phái của triết học đều bằng cách này hay cách khác đều quan tâm giải quyết vấn đề
này. Vì vậy, trong triết học phạm trù vật chất đã được đặt ra từ rất sớm, xung quanh việc lý giải
về vật chất, về sự tồn tại và vận động của nó, ngay từ đầu đã diễn ra một cuộc đấu tranh quyết
liệt giữa CNDT và CNDV.
Những người theo CNDT tìm mọi cách để phủ nhận sự tồn tại của vật chất, họ khẳng đònh cơ
sở của sự tồn tại của thế giới là từ yếu tố tinh thần hoặc do một lực lượng siêu nhiên hay ý muốn
của chúa trời
Chủ nghóa duy vật khẳng đònh cơ sở của thế giới là vật chất, nó tồn tại vónh cửu tạo nên sự vật
cùng với những thuộc tính của chúng. Tuy nhiên, việc lập luận và lý giải về vật chất của các nhà
triết học duy vật thời lỳ trước Mác là không đồng nhất với nhau.
a. Vào thời kỳ cổ đại ở phương Tây, các nhà triết học duy vật có xu hướng đồng nhất vật
chất nói chung với một dạng cụ thể nào đó của nó, chẳng hạn như nước, lửa, không khí. Và
bằng cảm tính con người có thể nhận biết được.
2
Ví dụ:
Talét cho rằng vật chất là nước.

Hêraclít coi vật chất là lửa.
mpe đốclơ coi vật chất là đất, nước, lửa, không khí…
Đỉnh cao trong quan niệm về vật chất của triết học thời kỳ này là thuyết nguyên tử của Lôxíp
và Dêmôcrit. Theo thuyết này thì thực thể của thế giới là nguyên tử và đó là những phần tử cực
kỳ nhỏ bé không thể phân chia được, không thể xâm nhập được, không thể quan sát trực tiếp
được mà chỉ nhận biết được bằng tư duy. Các nguyên tử không khác nhau về chất mà chỉ khác
nhau về hình dạng. Sự kết hợp hay tách rời các nguyên tử theo các trật tự khác nhau sẽ tạo nên
sự xuất hiện hay mất đi của các sự vật nói riêng và của toàn bộ thế giới nói chung. Vì vậy, các
ông cho rằng vật chất là nguyên tử.
* Nhận xét: Mặc dù có những hạn chế lòch sử nhất đònh nhưng thuyết nguyên tử thời kỳ cổ đại
đã có một ý nghóa hết sức to lớn, nó đònh hướng cho sự phát triển của khoa học đặc biệt là những
lónh vực vật lý học trong một thời kỳ lòch sử rất dài, đồng thời nó trở thành hòn đá tảng của
CNDV trước Mác trong việc chống chủ nghóa duy tâm, chống tôn giáo, chống thần học cổ đại.
Thời kỳ cổ đại phương Đông: quan niệm về vật chất được thể hiện qua một số trường phái
trong triết học ở n Độ và Trung Hoa cổ đại.
Trường phái Lôkáyata (n Độ) cho rằng tất cả các yếu tố đều được tạo nên bởi 4 tếu tố vật
chất, đó là: đất, nước, lửa, không khí. Bốn yếu tố này có khả năng tự tồn tại, vận động theo
không gian và cấu thành vạn vật. Sự đa dạng của vạn vật chẳng qua là sự kết hợp khác nhau của
4 yếu tố đó.
Thuyết âm dương (Triết học Trung hoa cổ đại) cho rằng: nguyên lý vận hành đầu tiên, phổ
biến của vạn vật là sự tương tác của 2 thế lực đối lập nhau là ÂM – DƯƠNG.
m là một phạm trù rất rộng phản ánh những tuộc tính phổ biến của vạn vật như: nhu, tối,
ẩm, bên dưới, bên phải, số chẵn.
Dương là phạm trù đối lập với âm phản ánh khái quát những thuộc tính phổ biến như: cương,
sáng, khô, phía trên, bên trái, số lẻ.
Hai thế lực âm – dương không tồn tại độc lập mà thống nhất với nhau, hỗ trợ và chế ước nhau
tạo thành vũ trụ và vạn vật.
+Thuyết ngũ hành (Trung Hoa cổ đại) có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn vật và tìm hiểu
những yếu tố khởi nguyên để tạo nên vạn vật. Thuyết này cho rằng có 5 yếu tố với những tính
chất khác nhau tạo nên vạn vật, đó là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trong đó:

Kim là tượng trưng cho chất trắng, khô, cay, phía Tây.
Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, phía Đông.
Thủy tương trưng cho tính đen, mạnh, phía Bắc.
Hỏa tượng trưng cho màu đỏ, đắng, phía Nam.
Thổ tượng trưng cho tím vàng, ngọt, ở giữa.
Năm yếu tố trên không tồn tại biệt lập mà trong hệ thống tương sinh, tương khắc với nhau tạo
nên vạn vật
Những tư tưởng về âm-dương, ngũ hành tuy còn có hạn chế nhất đònh nhưng đó là những triết
lý đặc sắc mang tính duy vật và biện chứng để lý giải về vật chất, về cấu tạo của vũ trụ. Nó có
ảnh hưởng to lớn đến thế giới quan triết học sau này không những chỉ ở n Độ, Trung Hoa mà cả
những nước chòu ảnh hưởng của những nền triết học đó
b. Thời kỳ cận đại thế kỷ XVII-XVIII:
Nền khoa học tự nhiên thực nghiệm ở Châu u đã có sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trên
lónh vực vật lý với những phát minh của Niutơn. Phương pháp nghiên cứu là phân tích tách biệt
3
sự vật thành các bộ phận nhỏ hơn của vật lý học đã ảnh hưởng lớn và xâm nhập vào triết học.
Quan điểm siêu hình máy móc đã chi phối quan điểm triết học về vật chất. Người ta đã giải thích
mọi hiện tượng của tự nhiên chỉ bằng sự tác động của lực hút và lực đẩy của các phần tử trong
vật thể. Theo đó, các phần tử của vật trong quá trình vận động là bất biến, các thay đổi chỉ là về
trạng thái không gian và tập hợp của chúng. Mọi sự phân biệt về chất giữa các vật thể đều bò
quy giản thành sự phân biệt về lượng. Vì vậy các nhà triết học thời kỳ này đã đồng nhất vật chất
với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ còn là vận động cơ học. Nguồn gốc của vận động
ấy là do tác động từ bên ngoài.
Vào thế kỷ XIX xuất hiện một nền triết học rất có ý nghóa đối với lòch sử triết học đó là nền
triết học cổ điển Đức. Một trong hai đại biểu lớn nhất của nền triết học này đó là nhà triết học
Phoiơbăc(Phơ bách). Ông đã chứng minh thế giới là vật chất, theo ông, vật chất là toàn bộ giới tự
nhiên, nó không do ai sáng tạo ra, tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất kỳ một
ý niệm hay một thực thể tinh thần nào đó. Cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong bản
thân nó.
Mặc dù còn có những hạn chế nhất đònh song những quan điểm duy vật của Phoiơbăc đã có ý

nghóa lòch sử lớn lao trong đấu tranh chống tôn giáo và CNDT. Triết học của ông đã trở thành
một trong những nguồn gốc lý luận của triết học mác xít sau này.
Tóm lại, các nhà duy vật trước Mác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghóa duy tâm và tôn giáo
đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật chất. Họ đã đưa ra những quan niệm, những
cách lý giải khác nhau về vật chất và qua đó đóng góp vào sự phát triển của nền triết học duy
vật. Tuy nhiên, do hoàn cảnh và điều kiện khách quan cũng như trình độ nhận thức nên họ đã
đồng nhất vật chất với vật thể hoặc với một thuộc tính nào đó của vật chất, họ chưa thấy được
mối quan hệ giữa vật chất với sự vận động, đặc biệt các nhà duy vật trước Mác đã không chỉ rõ
được biểu hiện vật chất của đời sống xã hội.
Câu 3: Đònh nghóa vật chất của Lênin
a) Hoàn cảnh ra đời
Trong lòch sử triết học, đã có nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về vật chất, tuy nhiên
chưa có một đònh nghóa nào về vật chất mag tính đầy đủ, khái quát và đúng đắn.
Vào thời đại của mình Mác-ngen đã đưa ra quan niệm về vật chất như sau:
“ Vật chất với tính cách là vật chất, là một sự sáng tạo thuần túy của tư duy, là một điều trừu
tượng hóa thuần túy… Khác với những vật chất nhất đònh và đang tồn tại. Vật chất với tính cách
là vật chất không có sự tồn tại cảm tính”.
Như vậy trong quan niệm của mình về vật chất Mác-ngen đã khẳng đònh vật chất tồn tại
khách quan trong các sự vật hữu hình cụ thể ở bên ngoài ý thức. Muốn hiểu được nó cần có sự
trừu tượng hóa. Vật chất không phải là một dạng cụ thể nào đó mà bằng cảm tính, người ta có
thể cảm thấy được. Tuy nhiên do khoa học lúc đó chưa có những phát minh lớn về cấu tạo, cấu
trúc của các vật thể vi mô và do những điều kiện lòch sử khách quan khác nên Mác-ngen chưa
đưa ra được một đònh nghóa mang tính kinh điển về vật chất.
4
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên và những điều kiện lòch sử xã hội đã
có những thay đổi lớn lao liên quan đến vấn đề vật chất và xuất hiện sự đòi hỏi phải có một quan
niệm mới hoàn chỉnh về vật chất.
+ Về khoa học tự nhiên: Năm 1985 Rơnghen đã phát hiện ra tia X, một loại sóng điện từ có
khả năng xuyên thấu qua các vật thể. Năm 1986, Bécơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
Điều này cho thấy quan niệm vật chất là là bất biến, là không thể phân chia đã lỗi thời, không

chính xác.
Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được rằng điện tử là yếu tố cấu thành
nên nguyên tử. Như vậy quan niệm nguyên tử là nhỏ bé nhất, không thể phân chia được, không
còn chính xác nữa.
Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không bất biến mà thay đổi
theo vận tốc vận động của điện tử. Điều này chứng tỏ khối lượng không phải là một đại lượng
tónh bất biến.
Như vậy khoa học tự nhiên đặc biệt là vật lý học bằng những phát minh của mình đã bác bỏ
một cách trực diện những quan điểm siêu hình về vật chất trước đây. Những tính chất như nhỏ bé
nhất, không thể xuyên thấu, bất biến về khối lượng … của vật chất đã không thể đứng vững được
nữa. Điều này đã gây ra sự hoang mang cho các nhà khoa học tự nhiên và làm xuất hiện cuộc
khủng hoảng “ vật lý” đầu thế kỷ 20.
+ Về mặt triết học: những người theo chủ nghóa duy tâm đã lợi dụng những phát minh mới
của khoa học để tấn công chủ nghóa duy vật hòng phủ nhận và bac bỏ triết học mác xít. Họ cho
rằng vật chất đã tiêu tan và như vậy chủ nghóa duy vật không còn cơ sở để đứng vững và tồn tại;
Chỉ có Chúa-ý thức mới là cái vónh viễn và tạo nên vạn vật.
+ Về lónh vực lòch sử - xã hội: Vào đầu thế kỷ XX trung tâm cách mạng thế giới đã dòch
chuyển từ Tây u về Đông Âu và tập trung ở Nga. Những mâu thuẫn về dân tộc, về giai cấp, về
xã hội được thể hiện rõ nét và gay gắt ở Nga. Điều kiện khách quan, chủ quan của cuộc cách
mạng vô sản đang tới gần Cuộc đấu tranh trên bình diện tư tưởng, lý luận chống lại chủ nghóa cơ
hội, CNDT bảo vệ Chủ nghóa Mac nói chung, đònh hướng cho CMVS Nga nói riêng đang đặt ra
một cách trực tiếp và đòi hỏi phải giải quyết cấp bách.
Từ trong hoàn cảnh lòch sử đó và nhắm đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển của KHTN, của việc
bảo vệ triết học Mác, của yêu cầu CMXH Nga, Lênin đã viết một tác phẩm mang tên “Chủ
nghóa duy vật và chủ nghóa kinh nghiệm phê phán”. Chính trong tác phẩm này Lênin đã đưa ra
một đònh nghóa hoàn chỉnh về vật chất :
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tồn tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”.
b) Những nội dung cơ bản trong đònh nghóa vật chất của Lênin:

- Vật chất là một phạm trù triết học: điều này để phân biệt vật chất với các vật thể vốn là
những biểu hiện cụ thể của nó đồng thời khẳng đònh Vật chất là một phạm trù, là đối tượng
nghiên cứu của Triết học, nó cần được nghiên cứu với phương pháp khái quát hóa, trừu tượng
hóa . Các vật thể là đối tượng nghiên cứu của các khoa học chuyên ngành, không thể đồng nhất
vật chất với vật thể.
- Vật chất là cái tồn tại khách quan ở bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, tất cả
những gì tồn tại ở bên ngoài không phụ thuộc vào ý thức đều nằm trong phạm trù vật chất. Đây
chính là thuộc tính cơ bản nhất, chung nhất của vật chất, là sự phân đònh rạch ròi giữa vật chất và
ý th . tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức đều là vật chất.
5
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó trực tiếp hay gián tiếp
tác động vào các giác quan của con người. Điều này khẳng đònh vật chất là có thực và nó có thể
nhận biết được thông qua các giác quan của con người, con người hoàn toàn có thể nhận thức
được thế giới xung quanh.
- Vật chất là cái mà cảm giác, tư duy, ý thức của con người chẳng qua là cái phản ánh của nó
mà thôi. Điều này khẳng đònh trong quan hệ với ý thức thì vật chất giữ vai trò quyết đònh, nó là
nguồn gốc khách quan của ý thức.
* Về mặt phương pháp mà Lênin đã sử dụng để đònh nghóa khái niệm vật chất :
Vật chất là một phạm trù rất rộng, rộng đến cùng cực vì vậy không thể sử dụng phương pháp
đònh nghóa thông thường, Lênin đã sử dụng phương pháp đònh nghóa khái niệm thông qua mặt đối
lập với chính nó, tức là ông đã đònh nghóa vật chất bằng cách đối lập nó với ý thức và đònh nghóa
khái niệm vật chất trong mối quan hệ đối lập đó. Lêninn đã khẳng đònh : “Vật chất không là cái
gì khác hơn, là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người, được ý thức con người
phản ánh”.
Cần chú ý rằng sự đối lập giữa vật chất và ý thức vừa mang ý nghóa tuyệt đối vừa mang ý
nghóa tương đối.
Ý nghóa tuyệt đối là trên phương diện nhận thức luận để phân đònh về nguyên tắc: cái gì là
vật chất và cái gì không thuộc về vật chất.
Ý nghóa tương đối là giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ với nhau, nguồn gốc để hình
thành ý thức có liên quan mật thiết đến thế giới vật chất. Lênin đã khẳng đònh: “Dó nhiên, sự đối

lập giữa vật chất và ý thức có ý nghóa hết sức đẹp trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa
nhận cái gì có trước cái gì có sau. Ngoài ra không còn nghi ngờ gì nữa sự đối lập đó chỉ là tương
đối”.
c)Ý nghóa khoa học của đònh nghóa vật chất:
- Đònh nghóa vật chất của Lênin đã khắc phục được nhược điểm, khiếm khuyết trong quan
niệm về vật chất của Chủ nghóa trước Mác, khắc phục tính trực quan, siêu hình, máy móc của
CNDV siêu hình trước Mác, làm cho CNDV phát triển lên một trình độ mới, CNDV biện chứng.
- Bảo vệ chủ nghóa Mác, trong thời kỳ mới, tạo thành cơ sở khoa học và vũ khí tư tưởng để
đấu tranh chống chủ nghóa duy tâm khách quan, chủ nghóa duy tâm chủ quan cùng những thuyết
không thể biết.
- Khắc phục được cuộc khủng hoảng trên lónh vực vật lý học, đònh hướng hoạt động cho các
nhà khoa học tự nhiên trong việc nghiên cứu, tìm kiếm, phát hiện các dạng, các hình thức mới
của vật chất.
- Xác đònh rõ hơn các dạng cơ bản của, đặc biệt là dạng vật chất trong đời sống xã hội (Vật
chất được thể hiện trong cuộc sống dưới các dạng như : vật thể, các loại trường, tồn tại xã hội).
*Tóm lại: Mặc dù một thế kỷ đã trôi qua (1908) nhưng KN VC của Lênin vẫn còn nguyên giá
trò…
Câu 4: Quan điểm Macxit về vận động
1)Một số quan điểm khác nhau về vận động :
a) Quan điểm của chủ nghóa duy tâm:
Xuất phát từ việc phủ nhận sự tồn tại của vật chất, chủ nghóa duy tâm đã phủ nhận luôn cả sự
vận động của vật chất, họ chỉ thừa nhận có sự vận động của tinh thần và tư tưởng mà thôi.
b) Quan điểm của chủ nghóa duy vật siêu hình trước Mác :
6
Tuy có sự thừa nhận về sự vận động của vật chất nhưng lại cho rằng sự vận động đó chỉ đơn
giản là sự dòch chuyển vò trí trong không gian do những nguyên nhân bên ngoài.
2) Quan điểm của triết học Mác xít:
Trước hết là khẳng đònh vận động là mọi sư biến đổi và biến hóa nói chung. ngen đã khẳng
đònh:” Vận động hiểu theo nghóa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình
diễn ra trong vũ trụ kể từ sự thay đổi vò trí đơn giản cho đến tư duy”.

Vận động gắn liền với vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức ồtn tại của
vật chất, không có một dạng vật chất nào lại không vận động. Điều này có nghóa là vật chất tồn
tại bằng cách vận động không thông qua việc tham gia vào các hình thức vận động, biến đổi, các
dạng vật chất khác nhau thể hiện những đặc tính của mình, khẳng đònh sự hiện diện, tồn tại của
mình. Ngược lại không có một hình thức vận động nào lại không phải là vận động của một đối
tượng vật chất nào đó. Không có vận động thuần túy tách rời khỏi đối tượng vật chất, ngay bản
thân vận động của tư duy, ý thức về thực chất cũng là sản phẩm của sự vận động của thế giới vật
chất mà thôi và nó cũng là sự phản ánh của mọi sự biến đổi của thế giới vật chất khách quan. Ở
đâu có vật chất thì ở đó có vận động và ngược lại.
nghen đã nhấn mạnh:” Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận
thức thông qua vận động. Thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động và về một vật thể
không vận động thì không có gì để nói cả”.
- Bất kỳ một sự vật hiện tượng vật chất nào cùng là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố,
nhiều mặt, nhiều thuộc tính tạo thành. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng
và tác động qua lại lẫn nhau. Chính điều đó tạo nên sức mạnh nguồn nội lực làm cho sự vật, hiện
tượng ấy biến đổi, vận động. Như vậy nguồn gốc, nguyên nhân của vận động là sự “tự vận
động”. (Sự vận động của vật chất được tạo nên do sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố cấu
thành những dạng vật chất. Nó hoàn toàn không phải là kết quả của tác động từ bên ngoài.
Ngược lại, sự tác động giữa các yếu tố bên trong làm sản sinh nguồn nội lực thức đẩy sự vật vận
động, biến đổi. Triết học Mácxít khẳng đònh: “Sự vận động của vật chất là tự thân vận động”. Sự
khẳng đònh này ngày càng được các thành tựu khoa học, tự nhiên, xã hội chứng minh là đúng
đắn.). Liên hệ sự phát triển của nước ta hiện nay, tranh thủ ngoại lực, phát huy nội lực. Trong
nhận thức phải bằng tư duy vận động, biến đổi không ngừng…
Sự vận động của vật chất là tuyệt đối, là thường xuyên, còn hiện tượng đứng im chỉ là tương
đối, là tạm thời. Đứng im chỉ là một trường hợp đặc biệt của vận động, nó là sự vận động trong
thể cân bằng và là trạng thái thăng bằng ổn đònh của quá trình vận động.
nghen đã chỉ ra rằng:” Vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, song vận
động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt. Mọi sự cân bằng chỉ là tương đối tạm thời trong
sự vận động tuyệt đối không ngừng của thế giới vật chất”.
-Vận động của vật chất là vónh viễn, không do ai sáng tạo ra và cũng không thể bò tiêu diệt,

vận động gắn liền với vật chất vì vậy nó cũng vô cùng vô tận như thế giới vật chất. Vận động
được bảo toàn cả mặt lượng và mặt chất của nó; Nếu một hình thức vận động nào đó kết thúc thì
đồng thời nó cũng mở ra một hình thức vận động mới thay thế cho nó. Điều đó có nghóa là các
hình thức khác nhau của vật chất có khả năng chuyển hóa cho nhau và điều này đã được khoa
học tự nhiên đặc biệt là đònh luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng chứng minh. Anghen đã
nhận xét : cần phải hiểu tính bất điệt của vận động không chỉ đơn thuần về mặt số lượng, mà cả
về mặt chất lượng.
-Vận động của vật chất là đa dạng, nhiều vẻ, khái quát lại Triết học ML phân chia vận động
thành năm hình thức vận động chủ yếu sau:
7
+Vận động cơ học thể hiện sự di chuyển vò trí của các vật thể trong không gian.
+Vận động vật lý thể hiện sự biến đổi của các phân tử của các loại hạt cơ bản, các loại trường,
quá trình nhiệt, điện, quang.
+Vận động hóa học: thể hiện sự biến đổi của các nguyên tố, các phản ứng hóa học, các quá
trình hóa hợp và phân giải các chất.
+Vận động sinh học thể hiện qua các quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường, quá
trình đồng hóa-dò hóa, hấp thụ bài tiết, quá trình biến dò –di truyền, tiến hóa…
+Vận động xã hội: biểu hiện qua sự thay thế lẫn nhau các hình thái kinh tế xh, các chế độ xh
trong lòch sử loài người.
*Chú ý:
- Các hình thức vận động trên có sự khác nhau về chất, từ vận động cơ giới đến vận động xã
thể hiện sự phát triển về mặt trình độ của vận động và trình độ đó tương ứng với tính chất, kết
cấu của các dạng vật chất. Kết cấu càng chặt chẽ, càng phức tạp và hoàn thiện thì trình độ vận
động của đối tượng vật chất đó càng ở mức độ cao hơn .
- Trình độ vận cao có thể bao hàm trong nó trình độ vận động thấp hơn nhưng trình độ vận
động thấp hơn thì không thể bao hàm trong nó sự vận động cao. Vì vậy không thể quy giản hình
thức vận động cao thành hình thức vận động thấp.
- Một kết cấu vật chất có thể tham gia nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân sự
tồn tại của một kết cấu vật chất bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ
bản. Đối với con người và xh loài người thì hình thức vận động xh là đặc trưng.( Học thuyết

Dacuyn xã hội được hitle đưa vào áp dụng- lấy vận động sinh học thay cho vận động xã hội)
3)Ý nghóa:
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải xây dựng và quán triệt quan điểm vận động
với những yêu cầu chủ yếu là nghiên cứu, giải quyết một vấn đề nào đó, một đối tượng nào đó
cần đặt nó vào trạng thái vận động biến đổi không ngừng và thông qua sự phát hiện những biến
đổi của nó để có nhận thức đầy đủ hơn, chính xác hơn về vận động.
- Cần xác đònh chính xác hình thức vận động đặc trưng của mỗi sự vật, đối tượng trong quá
trình nghiên cứu giải quyết chúng. Không chủ quan áp đặt và cần hết sức thận trọng trong tiếp
cận, giải quyết các hiện tượng xã hội.
- Cần thấy được sự vận động là tự thân và để thúc đẩy sự phát triển, sự biến đổi của một vấn
đề nào đó, cần tạo điều kiện thuận lợi cho sự tương tác giữa các yếu tố bên trong của các vấn đề
đó (Nhà nước muốn thúc đẩy KTXH phát triển thì cần tạo ra chủ trương chính sách, tạo hành lang
pháp lý để các doanh nghiệp tự vận động, NN không can thiệp quá sâu vào đời sống xã hội…)
- Cần chống việc vận dụng các học thuyết sinh học vào việc giải quyết các vấn đề xã hội.
- Cần chống quan điểm siêu hình trong nhận thức và giải quyết một vấn đề nào đó và xây
dựng cho bản thân một quan điểm động làm cơ sở cho việc hình thành tư duy biện chứng đặc biệt
là chống tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào bên ngoài
Câu 5: Quan niệm của triết học duy vật biện chứng về kết cấu của ý thức?
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ảnh của thế giới bên ngoài
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức có kết cấu phức tạp bao gồm nhiều thành tố có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tùy theo
góc độ nghiên cứu có thể phân chia ý thức thành những kết cấu khác nhau.
+ Nếu tiếp cận từ góc độ yếu tố cấu thành hay theo lát cắt chiều ngang thì ý thức gồm : tri
thức, tình cảm và ý chí.
8
Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư
tưởng những thuộc tính, đặc điểm, quy luật… của thế giới ấy và diễn đạt chúng bằng ngôn ngữ
hoặc hệ thống ký hiệu khác. Tri thức là sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh. Tri
thức có nhiều lónh vực khác nhau như tri thức về tự nhiên, về XH, về con người.
Tri thức cũng có nhiều cấp độ khác nhau như : tri thức cảm tính, tri thức lý tính, tri thức kinh

nghiệm, tri thức lý luận, tri thức tiền khoa học, tri thức khoa học….
Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. Sự hình thành và phát triển của tri thức có liên quan
mật thiếtvới quá trình con người tiếp nhận, tích lũy những hiểu biết của mình về thế giới trong tự
nhiên và đời sống XH. Tri thức về sự vật càng phong phú bao nhiêu thì ý thức về nó càng sâu
sắc bấy nhiêu. Nếu ý thức mà không bao hàm không dựa và tri thức thì đó chỉ là sự trừu tượng
trống rỗng, không giúp gì được cho hoạt động thực tiễn. Mác có nhận xét:
“ Tri thức là phương thức mà theo đó ý thức tồn tại, và theo đó một cái gì đó nảy sinh ra đối
với ý thức. Cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức chừng nào mà ý thức biết được cái
đó”.
Ngày nay, vai trò động lực của tri thức đối vớisự phát triển của XH ngày càng nổi bật, loài
người đang bước vào nền kinh tế tri thức trong đó sự sản sinh ra, sự phổ cập và sử dụng tri thức
có vai trò quyết đònh đối vớisự phát triển kinh tế. Đa số các ngành đều dựa vào tri thức, đều áp
dụng những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ… Vì vậy đầu tư vào tri thức trở thành
yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng dài hạn
Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ giữa người và người, giữa con người
với thực tại xung quanh. Tình cảm là một trạng thái đặc biệt của ý thức hình thành trong q/trình
con người tiếp xúc với con người, với tự nhiên và xã hội. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động
của con người và giữ một vò trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người. Tình
cảm có thể mang tính chất chủ động, chứa đựng những cảm xúc tích cực nhưng cũng có thể mang
t/c thụ động, chứa đựng cảm xúc tiêu cực. Tình cảm tích cực có vai trò to lớn, là một động lực để
nâng cao năng lực và hoạt động sống của con người.
Tri thức và tình cảm có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành niềm tin, ý chí từ đó thúc đẩy
hoạt động thực tiễn của con người, trong đó tri thức là cơ bản và cốt lõi nhất. Nếu niềm tin, ý chí
mà không có tri thức thì chỉ xây dựng nên niềm tin mù quáng, sự tưởng tượng chủ quan. Ngược
lại nếu tri thức không được biến thành tình cảm, niềm tin, ý chí của con người, thôi thúc con
người hành động thì tri thức tự nó đánh mất vai trò đối với hiện thực, mất phương hướng và
không bền vững. Sự hiểu biết của con người phải biến thành tình cảm mãnh liệt … tất cả những
điều đó hòa quyện với nhau để hướng dẫn, dìu dắt con người trong hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới.
+ Nếu tiếp cận từ góc độ chiều sâu của thế giới nội tâm của con người (lát cắt chiều dọc) thì ý

thức bao gồm : tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Tự ý thức là ý thức của con người hướng về hành vi, tư tưởng, tình cảm, về động cơ, lợi ích
của bản thân, về đòa vò, vò thế của bản thân trong cộng đồng và XH. Thực chất tự ý thức là ý thức
hướng nội, là hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài để
đánh giá chính xác câu hỏi: mình là ai? Mình có vai trò gì trong đời sống XH ? Từ đó giúp con
người điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, chuẩn mực XH.
Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước và gần như đã trở thành bản năng,
kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức của chủ thể, nó là ý thức dưới dạng tiềm tàng và có thể
tự động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một
cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng trong hoạt động tâm lý và tư duy khoa học, đặc
biệt đối với loại hình tư duy chính xác và các hoạt động tư duy lặp đi lặp lại nhiều lần nó góp
9
phần làm giảm đi sự quá tải, sự căng thẳng của đầu óc trong việc tiếp nhận xử lý các tài liệu, dữ
liệu mà vẫn đảm bảo sự chính xác cao.
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, nó điều chỉnh suy nghó, hành vi, thái độ ứng
xử của con người và chưa có sự tranh luận ở nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự
tính toán kiểm tra của lý trí. Lónh vực vô thức là lónh vực của các hiện tượng tâm lý nằm ngoài
phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một thời gian nào đó. Vô thức biểu hiện
ra thành nhiềâu hiện tượng khác nhau như : bản năng, ham muốn, giấc mơ, bò thôi miên, sự lỡ lời.
Vô thức cũng có vai trò, tác dụng nhất đònh trong đời sống và hoạt động của con người, nhờ nó
mà con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết do thần kinh phải làm việc quá
tải. Con người thực hiện hành vi theo những chuẩn mực tự nhiên không bò khiên cưỡng. Tuy
nhiên, không nên cường điệu tuyệt đối hóa vô thức và tách nó ra khỏi hiện thực để đối lập với ý
thức và vô thức nằm trong ý thức và chỉ xảy ra trong con người có ý thức và giữ vai trò chủ đạo
trong hoạt động của con người là ý thức chứ không phải là vô thức. Nhờ có ý thức mà con người
có thể điều khiển được những hành vi của mình hướng tới những giá trò chân-thiện-mỹ./.
Câu 6: Nguồn gốc và bản chất của ý thức
Trong lòch sử, vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là trung tâm của cuộc đấu
tranh giữa DV và DT, xuất hiện nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau khi nhìn nhận, đánh giá
và giải quyết những vấn đề về ý thức.

- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ảnh của thế giới bên ngoài
vào trong bộ óc con người. Ý thức có kết cấu phức tạp bao gồm nhiều thành tố có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Tùy theo góc độ nghiên cứu có thể phân chia ý thức thành những kết cấu khác nhau.
+ Nếu tiếp cận từ góc độ yếu tố cấu thành hay theo lát cắt chiều ngang thì ý thức gồm: tri thức,
tình cảm và ý chí.
+ Nếu tiếp cận từ góc độ chiều sâu của thế giới nội tâm của con người (lát cắt chiều dọc) thì ý
thức bao gồm : tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Để hiểu rõ hơn về bản chất của ý thức trước tiên chúng ta đi vào tìm hiểu nguồn gốc của ý
thức.
a)Nguồn gốc của ý thức:
Dự trên thành tựu của các ngành khoa học tự nhiên và xã hội, Triết học M-L khẳng đònh ý
thức được ra đời từ 2 nguồn gốc : nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
-Về nguồn gốc tự nhiên :
Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên , đặc biệt là của sinh lý học thần kinh,
Triết học Mác xít khẳng đònh rằng: “ý thức là thuộc tính của vật chất nhưng không phải của bất
kỳ một dạng vật chất nào mà chỉ có ở một dạng vật chất có tổ chức cao với cấu trúc tinh vi và
hoàn thiện nhất đó là bộ óc người”. Hoạt động ý thức chỉ có thể diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh
lý thần kinh của bộ óc. Ý thức phụ thuộc vào bộ óc do vậy nếu bộ óc bò tổn thương thì hoạt động
ý thức sẽ bò rối loạn. Tuy nhiên quá trình ý thức không đồng nhất hay diễn ra song song với quá
trình hoạt động sinh lý thần kinh. Thực chất đây chỉ là hia mặt của một vấn đề, một quá trình, tức
là hoạt động sinh lý thần kinh mang nội dung ý thức.
Cần nhấn mạnh rằng không có bộ óc người thì không có ý thức. Tuy nhiên chỉ riêng bộ óc
người thôi thì con người cũng chưa hình thành nên được ý thức, nó mới chỉ là điều kiện cần
nhưng chưa đủ.
Sự hình thành của ý thức có liên quan mật thiết đến thuộc tính phản ánh của thế giới vật chất.
Phản ánh trở thành một yếu tố trong nguồn gốc tự nhiên hình thành nên ý thức. Triết học Mác
cho rằng ý thức không phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, cũng không phải là cái sinh ra vật chất
10
mà nó chỉ là kết quả của sự phát triển đến đỉnh cao của một thuộc tính phổ biến của vật chất, đó
là thuộc tính phản ánh.

Phản ánh là sự tái tạo của những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Phản ánh là một thuộc tính chung phổ biến của
mọi dạng vật chất. Kết quả của sự phản ánh tùy thuộc về cả 2 phía : vật tác động và vật nhận tác
động. Trong đó, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều
quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức, của tri thức con người về thế giới bên
ngoài.
Sự phản ánh của vật chất có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
các đối tượng vật chất càng ở bậc thang tiến hoá cao bao nhiên thì hình thức phản ánh của nó
càng phức tạp bấy nhiêu. Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô cơ là
phản ánh vật lý, hóa học mang tính chất thụ động chưa có sự đònh hướng. Trong giới tự nhiên hữu
sinh có sự phản ánh sinh học với các hình thức như tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Đến
động vật cao cấp thì sự phản ánh đạt đến trình độ tâm lý động vật. Tuy nhiên, đó chưa phải là ý
thức. Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực và chỉ nảy sinh ở sự phát
triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuât hiện của một kết cấu vật chất có tổ chức cao
nhất, đó là bộ não con người.
Nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài đã tác động lên bộ óc con người. Không có
sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan của con người từ đó chuyển lên bộ não thì
không có hoạt động ý thức.
Như vậy ý thức là 1 thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ
của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, có cấu trúc tinh vi, phức tạp và hoàn thiện nhất đó là
bộ óc con người. Bộ óc con người là cơ quan vật chất của ý thức, hoạt động của ý thức diễn ra
trên cơ sở của sinh lý, hoạt động thần kinh của óc người. Khi bộ óc con người bò tổn thương thì
hoạt động của ý thức sẽ bò rối loạn hoặc không bình thường. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra
khỏi hoạt động của bộ óc. Tuy nhiên quá trình ý thức lại không đồng nhất hay diễn ra song song
với quá trình sinh lý thần kinh, đây chính là 2 mặt của một quá trình . Quá trình sinh lý thần kinh
mang nội dung ý thức.
Tóm lại, bộ óc con người cùng với thế giới bên ngoài tá động vào bộ óc thông qua đó, bộ óc
thực hiện chức năng phản ánh, ghi lại sự tác động đó, đó là nguồn gốc tự nhiên của sự hình thành
nên ý thức.
- Nguồn gốc xã hội :

Ý thức là sản phẩm của sự phát triển XH , phụ thuộc vào XH và ngay từ đầu đã mang tính
XH. Quá trình hình thành ý thức không chỉ nhờ vào tác động thuần tuý của thế giới tự nhiên vào
trong bộ óc con người mà chủ yếu nhờ vào hoạt động thực tiễn của con người đặc biệt là hoạt
động sản xuất cải tạo thế giới tự nhiên. Nhờ có hoạt động này mà con người đã bắt thế giới tự
nhiên phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động… thành những hiện
tượng nhất đònh để con người nắm bắt chúng. Như vậy, hoạt động thực tiễn, đặc biệt là hoạt động
lao động sản xuất đã giúp con người thu được 2 giá trò: thu được của cải vật chất phục vụ cuộc
sống đồng thời quá trình đó cũng làm con người tích lũy ngày càng nhiều hơn những tri thức về
thế giới bên ngoài. Như vậy để quá trình ý thức diễn ra một cách năng động, tích cực chủ thể cần
phải tăng cường hoạt động thực tiễn của mình.
Cũng trong quá trình lao động ở con người đã xuất hiện nhu cầu phải trao đổi kinh nghiệm, tư
tưởng, tình cảm cho nhau. Từ đó dẫn đến sự ra đời của ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là một hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức; Nó vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công
cụ của tư duy. Nhờ có nó mà con người có thể phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa,
11
tức là tiến hành ý thức về sự vật. Mặt khác, nhờ ngôn ngữ mà tri thức của loài người được gìn
giữ, chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác và qua đó ý thức của loài người là một quá trình
liên tục, không đứt quãng và ngày càng phát triển. Rõ ràng, ý thức không phải là một hiện tượng
mang tính chất cá nhân mà là một hiện tượng mang tính xã hội và chỉ nảy nở khi con người sống
trong môi trường XH. Không có ngôn ngữ thì không thể phát triển ý thức. Anghen đã nhận đònh :
“Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là 2 kích thích tố
chủ yếu để làm xuất hiện và phát triển ý thức”.
Tóm lại, để ý tức ra đời, hình thành và phát triển thì những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất
quan trọng và không thể thiếu được nhưng là chưa đủ, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất
của sự hình thành nên ý thức là lao động sản xuất, là môi trường xã hội trong đó con người đang
sinh sống và hoạt động. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông
qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội, nó là sản phẩm xã hội và là một hiện tượng xã
hội.
b) Bản chất của ý thức :
Ý thức là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng

động, sáng tạo tạo nên những hình ảnh chủ quan của con người về thế giới khách quan. Điểm xuất
phát để hiểu được vấn đề này là phải thừa nhận ý thức là cái phản ánh, còn hiện thực khách quan
là cái được phản ánh. Cái bò phản ánh tồn tại khách quan ở bên ngoài con người. Còn cái phản
ánh- ý thức- chỉ tồn tại ở con người và phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc người cùng với những
điều kiện khác của chủ thể. Như vậy ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hình
ảnh đó không có tính vật chất. Tuy nhiên, ý thức không phải là sự phản ánh tùy tiện, xuyên tạc,
cũng không phải là sự phản ánh giản đơn hay là sự sao chép một cách máy móc của thế giới bên
ngoài. Ý thức là của con người và con người là một thực thể năng động sáng tạo, ý thức được
hình thành trong quá trình con người chủ động tác động vào thế giới làm biến đổi và chinh phục
thế giới, phục vụ cho lợi ích của mình. Điều đó làm nên tính năng động, sáng tạo của ý thức con
người cũng như tính chủ động, tính hướng đích của hoạt động nhận thức của con người.
Tính sáng tạo của ý thức được biểu hiện ra rất phong phú, ý thức phản ánh sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội, nó có thể tạo ra những tri thức mới về sự vật, tưởng tượng ra
cái vốn không có trong thực tế, có thể tiên đoán và dự báo được tương lai, có thể xây dựng nên
những giả thuyết, những lý thuyết khoa học hết sức trứu tượng và khái quát.
Quá trình ý thức có sự thống nhất của những mặt sau đây :
+ Có sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, sự trao đổi mang tính hai chiều,
có đònh hướng, có chọn lọc.
+ Có sự mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là
quá trình sáng tạo lại hiện thực của ý thức dưới dạng mã hóa các đối tượng vật chất thành những
hình ảnh, ý tưởng tinh thần phi vật chất.
+ Chuyển từ mô hình của tư duy thành hiện thực khách quan bên ngoài. Thực chất đây là quá
trình hiện thực hóa tư tưởng nào đó thông qua hoạt động thực tiễn để biến tư tưởng trong tư duy
thành các dạng vật chất cụ thể, hiện thực.
+ Dự báo tương lai trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực, phát hiện ra những vấn đề bản
chất, những quy luật của sự vận động của hiện thực khách quan. Từ đó đònh hướng hoạt động con
người theo quy luật.
Câu 7: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghóa phương pháp luận?
a) Để hiểu được giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ như thế nào, trước hết chúng ta cần
nắm được các đònh nghóa về vật chất và ý thức theo quan niệm của chủ nghóa Mác .

12
Trước Mac các trường phái triết học cũng lý giải mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nhưng
hoặc là duy tâm phản động hoặc là duy vật siêu hình…Đến triết học Mac, mối quan hệ VC-YT
được lý giải khoa học và đầy đủ.
Thứ nhất là đònh nghóa vật chất. Đònh nghóa phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt như
sau:” Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác”. Như vậy đònh nghóa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản
sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó (trực tiếp hoặc gián tiếp)
tác động lên các giác quan của con người.
-Vật chất -cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua là sự phản ánh của nó.
Không phải mọi hiện tượng vật chất tác động lên giác quan của con người đều được con người
nhận biết một cách trực tiếp, với đònh nghóa này Lênin khẳng đònh thuộc tính chung nhất của vật
chất là sự tồn tại khách quan ở bên ngoài ý thức. Tất cả những gì tồn tại bên ngoài và không phụ
thuộc vào ý thức (con người và loài người) đều thuộc phạm trù vật chất.
Thứ hai là đònh nghóa về ý thức của chủ nghóa duy vật Mác xít. Chủ nghóa duy vật Mác xít
đònh nghóa về ý thức như sau:” Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
người một cách năng động, sáng tạo”
Như vậy, điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là phải thừa nhận ý thức là sự phản ánh,
là cái phản ánh, còn vật chất là cái được phản ánh. Ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ
động , máy móc của sự vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể năng động,
sáng tạo. Ý thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo thế
giới. Do đó, ý thức con người là sự phản ánh năng động, sáng tạo. Như vậy ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức
có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế. Ngoài ra ý
thức còn có thể tiên đoán, dự báo tương lai…
Triết học Mác-Lênin trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những tư tưởng triết học duy vật đã có trong

lòch sử, khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên đã phân tích, lý giải và giải quyết mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức một cách duy vật và biện chứng và khẳng đònh rằng: vật chất là
tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết đònh ý thức và vai trò quyết đònh đó thể hiện ở
những điểm chủ yếu sau :
Một là, xét về mặt thời gian, vật chất là cái có trước, là cái vô cùng vô tận, không có điểm
khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc. Còn ý thức là cái có sau, nó xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của con người, loài người và nó là kết quả của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên
cũng như của những hoạt động của con người. Cái có sau không thể sinh ra cái có trước nó được.
Vì vậy ý thức là cái không thể nào sinh ra vật chất được.
Hai là, xét về mặt nguồn gốc hình thành : Vật chất không do ai saáng tạo ra và không thể bò
mất đi, nó có nguồn gốc từ bản thân nó còn ý thức được hình thành từ nguồn gốc tự nhiên và XH.
Những nguồn gốc này có liên quan chặt chẽ với thế giới vật chất (bộ não người, thuộc tính phản
ánh, hoạt động mang tính vật chất của con người, tín hiệu vật chất là ngôn ngữ…) Những yếu tố ở
hai nguồn gốc đó đều liên quan mật thiết, trực tiếp đến thế giới vật chất, có cơ sở từ vật chất.
Ba là, xét về mặt nội dung : ý thức chỉ là cái phản ánh, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, còn thế giới vật chất là cái được phản ánh. Đương nhiên, nếu không có cái được
phản ánh-tức là thế giới vật chất-thì sẽ chẳng có được một hình ảnh nào đó về nó. Nội dung của
13
ý thức là những tri thức của con người về thế giới vật chất ở xung quanh họ, những tri thức đó
cũng được con người tích lũy từ trong hoạt động vật chất của chính họ.
Bốn là, xét về sự vận động, biến đổi và phát triển của ý thức: Sự biến đổi của ý thức phụ
thuộc vào sự biến đổi, sự phát triển của hiện thực khách quan và trình độ hoạt động thực tiễn của
con người trong quá trình cải biến thế giới khách quan. Nói cách khác, sự phát triển của tư duy,
của ý thức con người phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thực tiễn con người trong quá
trình hoạt động cải tạo thế giới vật chất. Trình độ nhận thức của con người phụ thuộc vào trình
độ hoạt động chinh phục tự nhiên cải tạo XH của chính con người. Khi thế giới vật chất và cuộc
sống XH có những biến đổi thì điều đó sớm muộn cũng dẫn đến sự biến đổi, sự phát triển trong
tư duy, ý thức con người.
Như vậy, xét cả về mặt thời gian, nguồn gốc hình thành, về mặt nội dung cũng như về sự vận
động biến đổi và phát triển của ý thức cho thấy: vật chất luôn là tính thứ nhất, ý thức luôn là tính

thứ hai, vật chất bao giờ cũng quyết đònh ý thức.
b) Trong khi nhấn mạnh vật chất quyết đònh ý thức thì triết học Mác-Lênin đồng thời cũng
khẳng đònh ý thức cũng có tác động mạnh mẽ trở lại đối với vật chất, thể hiện :
- Sau khi được hình thành thì ý thức có tính độc lập tương đối của mình và nó tác động trở lại
đối với thế giới vật chất theo cả hai chiều hướng :
+ Những ý thức đúng đắn, khoa học và cách mạng phản ánh đúng bản chất, quy luật vận động
của thế giới vật chất sẽ có tác động tích cực thúc đẩy sự vận động, phát triển của thế giới vật
chất.
+Những ý thức, tư tưởng phản khoa học, phản ánh xuyên tạc bản chất, quy luật vận động thế
giới khách quan sẽ có tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
Chú ý:
Sự tác động của ý thức đối với vật chất bao giờ cũng phải thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Còn bản thân ý thức tự nó không trực tiếp làm thay đổi được gì trong hiện thực. Vì
vậy nói tới vai trò của ý thức về thực chất là nói đến vai trò của con người, ý thức chỉ đạo hành
động của con người hình thành mục tiêu kế hoạch, biện pháp cho hoạt động của con người. Bác
Hồ từng nói: “chủ trương 1, biện pháp 10, thực hiện 20”
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất bao giờ cũng diễn ra trên cơ sở vật chất là tính
thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Trong bất kỳ trường hợp nào ý thức cũng chỉ là sự phản ánh thế
giới vật chất và sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh và sáng tạo trong khuôn khổ của
sự phản ánh.
c)Ý nghóa phương pháp luận:
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực
tế khách quan và lấy nó làm căn cứ, cơ sở cho việc hoạch đònh mọi chủ trương, chính sách.
Lênin đã nhấn mạnh:” Không được lấy ý muốn chủ quan của mình là chính sách, không được
lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược của cách mạng. Nếu chỉ xuất phát
từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc bệnh
chủ quan duy ý chí”.
Thực tế ở Việt Nam trước thời lỳ đổi mới chúng ta cũng phạm phải sai lầm chủ quan duy ý
chí. Tại Đại hội Đảng CSVN đã rút ra bài học:” Đảng đã phạm phải sai lầm duy ý chí, vi phạm
quy luật khách quan” và Đại hội VII rút ra bài học:” Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải

xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
14
Đến Đại hội IX, một trong những bài học rút ra sau 15 năm tiến hành đổi mới là đổi mới phải
phù hợp với thực tiễn và luôn luôn sáng tạo.
- Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, tính tích cực, chủ động trong hoạt động cải tạo
thế giới khách quan của con người. Vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải là ở chỗ nó
trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức đúng đắn thế giới khách quan.
Từ đó hình thành ở con người mục đích, phương hướng, ý chí, phương pháp… (Bổ sung) … Con
người càng phản ánh chính xác, đầy đủ thế giới khách quan thì hoạt động cải tạo thế giới khách
quan của họ càng có hiệu quả. Vì vậy phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai
trò nhân tố con người là vấn đề có ý nghóa quyết đònh đến sự thành công hay thất bại của sự
nghiệp cách mạng.
Tại Đại hội VIII, Đảng CSVN đã khẳng đònh:” Trong thời kỳ đổi mới phải lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển mạnh và bền vững”.
Đến Đại hội IX, Đảng CSVN một lần nữa khẳng đònh:” Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức
mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát huy nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản để phát triển XH, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
-Cần chống quan điểm, xu hướng coi thường thực tế để rơi vào chủ nghóa duy tâm, duy ý chí;
mặt khác cần chống khuynh hướng giáo điều, thụ động, chờ đợi rơi vào chủ nghóa bảo thủ.
Câu 8: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và ý nghóa phương pháp luận của vấn đề này?
a)Nguyên lý về mối liên hệ:
- Liên hệ là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự tác động ảnh hưởng
lẫn nhau, ràng buộc, chế ước nhau, quy đònh và chuyển hóa cho nhau của các sự vật trong thế
giới khách quan.
Cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật là tính thống nhất vật chất của thế giới, các sự vật
hiện tượng dù khác nhau, đa dạng đến mấy thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau
của một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi.
Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng mang tính phổ biến thể hiện qua những điểm sau :
+ Nếu xét về mặt không gian: mỗi một sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể riêng biệt, song

chúng tồn tại không phải trong một trạng thái biệt lập tách rời tuyệt đối với các sự vật khác.
Trong hiện thực khách quan không có sự vật, hiện tượng nào cô lập, không nhận tác động và
không tác động đến sự vật khác. Ngược lại, các sự vật vừa tách biệt nhau vừa phụ thuộc nhau, đó
chính là hai mặt của một quá trình tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
ngen đã khẳng đònh:” Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống,
một tập hợp gồm các tập thể khăng khít với nhau, việc các vật thể ấy đều có mối liên hệ qua lại
với nhau đã có nghóa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự
vận động”.
+ Nếu xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng : các yếu tố, các bộ
phận cấu thành nên một sự vật nào đó đều tồn tại trong một tổ chức nhất đònh, đều được sắp xếp
theo một trật tự nhất đònh. Các bộ phận đó không thể tồn tại trong một trạng thái hỗn độn hoặc
hoàn toàn tách rời nhau không có liên hệ với nhau. Giữa các bộ phận, các yếu tố đó có mối liên
hệ, trong đó mỗi bộ phận, mỗi yếu tố vừa đảm trách phần việc của mình vừa tạo điều kiện cho
những bộ phận khác. Do vậy, sự biến đổi của một bộ phận nào đó trong cấu trúc của sự vật sẽ
gây ảnh hưởng đến những bộ phận khác cũng như đối với toàn bộ chỉnh thể sự vật.
+ Nếu xét về mặt thời gian: mỗi một sự vật, hiện tượng nói riêng và cả thế giới nói chung
trong quá trình tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua những giai đoạn, những thời kỳ khác
15
nhau, thể hiện rõ nhất là giai đoạn phát sinh, giai đoạn phát triển, giai đoạn suy tàn và giai đoạn
chuyển hóa thành cái khác. Các giai đoạn, các thời kỳ đó có mối liên hệ không tách rời nhau mà
làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này lại là điểm mở đầu cho giai đoạn tiếp sau.
Như vậy giữa quá khứ, hiện tại và tương lai có mối liên hệ với nhau. có sự chuẩn bò cho nhau.
- Mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được thể hiện rất phong phú, rất đa dạng.
Khi nghiên cứu về hiện thực khách quan có thể phân chia chúng ra thành từng loại khác nhau tùy
theo tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu…. Khái quát
lại có những mối liên hệ chính phổ biến sau đây:
+Mối liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài.
+Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu.
+Mối liên hệ chung và riêng.
+Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp.

+Mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ bản chất và không bản chất.
Trong đó, những mối liên hệ ở bên trong, trực tiếp, bản chất, tất nhiên là những mối liên hệ
quan trọng giữ vai trò quyết đònh đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Triết học Mác xít cũng đồng thời chỉ rõ rằng : các loại liên hệ khác nhau có khả năng chuyển
hóa cho nhau, thay đổi vò trí cho nhau. Điều này tùy thuộc vào sự thay đổi phạm vi bao quát của
việc nghiên cứu hoặc do kết quả vận động của chính bản thân hiện thực đó.
Xét trên tất cả các phương diện ở đâu, khi nào các SVHT cũng có mối liên hệ với nhau.
SVHT tồn tại trong các mối liên hệ đó. Vì vậy triết học Mác khẳng đònh mối liên hệ đó có tính
phổ biến.
b)Ý nghóa phương pháp luận:
-Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng ta rút ra
quan điểm toàn diện trong nhận thức các sự vật cũng như trong hoạt động thực tiễn. Yêu cầu của
quan điểm toàn diện bao gồm :
+Về mặt nhận thức: cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng nào đó đặt trong mối quan hệ với các
sự vật, hiện tương khác; Phát hiện ra những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, bộ phận, thuộc
tính, các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật đó. Lênin khẳng đònh:” Muốn thật sự hiểu
được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và quan hệ
gián tiếp của sự vật đó”.
Để nhận thức đúng về sự vật còn đòi hỏi phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực
tiễn của con người, ứng với mỗi thời kỳ, mỗi thế hệ con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được
một số lượng hữu hạn mối liên hệ. Vì vậy tri thức đạt được về sự vật chỉ là tương đối, không đầy
đủ và cần được bổ sung thêm. Mặt khác, cần phải biết phân loại, đánh giá chính xác tính chất,
vai trò, ý nghóa của mỗi loại liên hệ đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật.
+ Về mặt hoạt động thực tiễn : để cải tạo được sự vật cần phải làm biến đổi những mối liên hệ
của sự vật đó với các sự vật khác, đặc biệt là mối liên hệ bên trong, trực tiếp, bản chất. Cần phải
xây dựng kế hoạch tổng thể và phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương pháp, phương tiện
khác nhau để tác động. Mặt khác, quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi cần phải kết hợp chặt chẽ
chính sách dàn đều và chính sách có trọng điểm, vừa chú ý giải quyết cái tổng thể vừa biết lựa
chọn vấn đề trung tâm, trọng tâm để giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải quyết các vấn đề

khác.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Đảng CSVN xác đònh: đổi mới toàn diện, mọi mặt đời
sống XH trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế.
16
Tại Đại hội Đảng lầ thứ VIII, Đảng CSVN đã khẳng đònh:” Xét trên tổng thể Đảng ta đã bắt
đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trò trong việc hoạch đònh đường lối đối nội và
đối ngoại, không có sự đối nội đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song Đảng ta đã đúng khi
tập trung trước hết và việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng
kinh tế- XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn đònh chính trò, xây
dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo điều kiện để đổi mới các mặt khác của đời sống
XH”.
Câu 9 :Nguyên lý về sự phát triển và ý nghóa phương pháp luận
1) Nội dung nguyên lý:
*Khái niệm : Phát triển là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để khái quát quá
trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn.
- Phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động, không phải mọi sự vận động đều là phát
triển mà chỉ có quá trình vận động nào làm nảy sinh những tính quy đònh mới cao hơn về chất,
qua đó làm tăng cường tính phức tạp của sự vật, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại của
sự vật cùng những chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn mới gọi là phát triển.
- Trong hiện thực khách quan, sự phát triển được thực hiện khác nhau tùy thuộc vào hình thức
tồn tại cụ thể của các dạng vật chất. Đối với giới hữu cơ sự phát triển thể hiện ở khả năng thích
nghi của cơ thể, khả năng tiến hóa của cơ thể, khả năng ngày càng hoàn thiện, quá trình trao đổi
chất giữa cơ thể với môi trường.
Đối với XH, sự phát triển thể hiện ở năng lực chinh phục giới tự nhiên cải tạo XH, nâng cao
đời sống mọi mặt của con người, mức độ, trình độ giải phóng con người, những điều kiện để con
người phát triển toàn diện những phẩm chất, năng lực vốn có của mình.
Đối với tư duy, sự phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, đầy đủ
hơn, chính xác hơn đối với thế giới xung quanh và XH.
- Sự phát triển được thực hiện theo con đường quanh co phức tạp, trong đó có thể bao hàm cả

những bước thụt lùi tương đối chúng ta có thể hình dung con đường cho sự phát triển không phải
theo đường thẳng tấp mà theo đường xoắn ốc.
Lênin đã nhấn mạnh:” Nếu hình dung sự phát triển lòch sử và thế giới như một con đường
thẳng tấp, không có những bước quanh co, những sự thụt lùi đôi khi ra xa so với xu hướng chủ
đạo là không biện chứng, không thực tế”.
Sai lầm của quan điểm siêu hình về vấn đề này là ở chỗ đã xem sự phát triển chỉ là sự tăng
lên hay giảm đi thuần túy về mặt lượng mà không có sự thay đổi về chất. Sự phát triển đơn giản
chỉ diễn ra như một quá trình thẳng tấp không có những bước quanh co, thụt lùi.
*Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do những mâu thuẫn giữa các
mặt đối lập ở bên trong sự vật quy đònh; Phát triển là kết quả của quá trình tích lũy về lượng dẫn
tới sự thay đổi về chất của cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập của sự phủ đònh của cái mới đối
với cái cũ. Triết học Mácxít nhấn mạnh : phát triển là quá trình tự thân phát triển, nó mang tính
khách quan, mang tính độc lập với ý thức con người. Sai lầm của chủ nghóa duy tâm về vấn đề
này là ở chỗ đã đi tìm nguồn gốc của sự phát triển ở những lực lượng siêu tự nhiên hay ở trong ý
thức con người. Còn quan điểm của chủ nghóa duy vật siêu hình lại cho rằng nguồn gốc của sự
phát triển là do sự tác động từ bên ngoài vào. Lênin đã khái quát :” Hai quan niệm cơ bản về sự
phát triển : sự phát triển coi như giảm đi và tăng lên như là lặp lại và sự phát triển coi như là
thống nhất của các mặt đối lập. Quan điểm thứ hai là sinh động, chỉ có quan điểm thứ hai mới
17
cho ta chìa khóa của sự tự vận động của tất thảy mọi cái đang tồn tại, chỉ có nó mới cho ta chìa
khóa của những bước nhảy vọt của sự gián đoạn của tính “tiệm tiến” , của sự chuyển hóa thành
mặt đối lập của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”.
- Sự phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, XH và tư duy. Xét trong
phạm vi hẹp và ở trong trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên, đi xuống, vòng tròn,
nhưng xét trong tổng thể không gian rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hường chủ đạo. Khái
quát tình hình đó triết học Mác-Lênin đã khẳng đònh: Phát triển là khuynh hướng chung của mọi
sự vận động của các sự vật , hiện tượng.
2) Ý nghóa phương pháp luận :
- Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta nhận thức được rằng muốn thật sự nắm
bắt được bản chất sự vật hiện tượng, nắm bắt được khuynh hướng vận động của chúng thì cần

phải xây dựng quan điểm vận động và phát triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ. Yêu cầu cơ
bản của quan điểm đó là : khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động và
phát triển. Lênin đã khẳng đònh:” Lôgic biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát
triển, trong sự tự vận động, trong sự biến đổi của nó”.
- Nghiên cứu sự vật, hiện tượng không chỉ với tư cách là cái đang tồn tại mà cần phải nắm
được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó, dự báo sự xuất hiện của nhân tố mới, cái
mới, chuẩn bò những điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của cái mới.
- Cần có thái độ lạc quan, tin tưởng vào sự chiến thắng tất yếu của cái mới đồng thời phải có
nhận thức rõ quá trình phát triển là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Chiến thắng của cái
mới đối với cái cũ là rất khó khăn, phức tạp thậm chí còn có những thất bại tạm thời.
- Để có một sự phát triển trong hiện thực cần có quá trình tích lũy về lượng, một sự chuẩn bò
cho những bước nhảy vọt nhằm thay đổi về chất qua những lần phủ đònh. Mặt khác, cần biết phát
hiện ra mâu thuẫn và tổ chức để các mâu thuẫn đó được giải quyết.
- Cần đấu tranh khắc phục và chống lại mọi biểu hiện của trì trệ, bảo thủ, không dám đổi mới
để phát triển đồng thời phải chống thái độ nóng vội, chủ quan muốn đốt cháy giai đoạn.
-N/C mối liên hệ phổ biến và sự phát triển đòi hỏi phải xây dựng và quán triệt quan điểm lòch
sử- cụ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn với một số yêu cầu sau:
+Khi nhận thức và tác động vào sự vật cần chú ý đến điều kiện hoàn cảnh cụ thể, môi trường
cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
+Đối với mỗi SVHT hay vấn đề cụ thể khác nhau, cần có những biện pháp, giải pháp khác
nhau để giải quyết chúng một cách khác nhau.
+trong mỗi thời kỳ lòch sử khác nhau, điều kiện hoàn cảnh đã thay đổi thì phải kòp thời điều
chỉnh, bổ sung biện pháp, giải pháp cho phù hợp.
+Cần nhận thức sâu sắc bản chất và linh hồn sống của chủ nghóa Mác đó là: “Phân tích cụ thể
mỗi tình hình cụ thể để đề ra chủ trương chính sách cụ thể cho mỗi lónh vực, mỗi vấn đề cụ thể”
từ đó vận dụng vào công tác của bản thân.
Câu 10: Thế nào là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ? Liên hệ với cuộc đấu
tranh chống tiêu cực và vai trò của người thi hành pháp luật ?
a)Vò trí, ý nghóa của quy luật:
- Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.

- Quy luật này được đánh giá là hạt nhân của phép biện chứng bởi lẽ nó vạch ra nguồn gốc,
động lực bên trong của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng.
- Việc nắm vững nội dung của quy luật này là cơ sở, điều kiện để có thể nhận thức được tất cả
những phạm trù, nguyên lý và những quy luật khác của phép biện chứng.
18
- Lênin khẳng đònh: “Có thể đònh nghóa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống
nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng”.
b) Nội dung chủ yếu của quy luật:
Các khái niệm:
- Mặt đối lập là một phạm trù của phép biện chứng dùng để chỉ những mặt có những đặc
điểm, những thuộc tính, những tính quy đònh có khuynh hướng vận động biến đổi trái ngược nhau
tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xh và tư duy.
* Chú ý: Mặt đối lập đương nhiên bao hàm trong đó sự khác nhau song không phải mọi sự
khác nhau đều có thể trở thành mặt đối lập mà chỉ có sự khác nhau nào có khuynh hướng vận
động, phát triển trái chiều nhau thì mới trở thành những mặt đối lập.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ tác động qua lại với nhau, tạo thành mâu thuẫn biện
chứng và mâu thuẫn này tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên xã hội và tư
duy.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa
các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập thể hiện:
+Hai mặt đối lập gắn bó chặt chẽ với nhau cùng tồn tại trong một sự vật, không thể tách rời
+Giữa hai mặt đối lập tuy khác nhau, đối chọi nhau nhưng giữa chúng bao giờ cũng có những
nhân tố giống nhau, đồng nhất với nhau. Vì vậy sự thống nhất giữa hai mặt đối lập còn bao hàm
cả sự đồng nhất của các mặt đó. Chính nhờ vào những nhân tố giống nhau và đồng nhất với nhau
của những mặt đối lập mà trong sự triển khai, sự vận động của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó
các mặt đối lập có thể chuyển hóa cho nhau.
+Sự thống nhất của các mặt đối lập còn được biểu hiện ở sự tác động ngang nhau giữa chúng
khi mà thế và lực mỗi mặt đối lập chưa đủû mạnh để chiếm thế áp đảo, chi phối và chuyển hóa
sang mặt kia. Đây chính là trạng thái cân bằng giữa các mặt đối lập.

Nội dung
-Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ đònh lẫn
nhau giữa các mặt đó.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng tùy thuộc vào tính chất
của các mặt đối lập cũng như mối quan hệ qua lại giữa chúng, phụ thuộc vào lónh vực tồn tại của
các mặt đối lập, vào điều kiện mà trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng, phụ htuộc vào
môi trường, điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh. Vì vậy, không nên hiểu đơn giản đấu
tranh chỉ còn là sự thủ tiêu lẫn nhau. Thực ra sự thủ tiêu lẫn nhau chỉ là một trong nhiều hình
thức đấu tranh, chẳng hạn như sự ảnh hưởng làm biến đổi lẫn nhau, cải tạo nhau, chế ước, thúc
đẩy và chuyển hóa cho nhau.
- Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với trạng thái đứng im, ổn đònh tạm thời của sự vật; còn sự
đấu tranh có quan hệ gắn bó với trạng thái vận động, phát triển của sự vật. Do đó, sự thống nhất
của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời, thoáng qua, có điều kiện, còn đấu tranh giữa chúng
mới là tuyệt đối, cũng như sự vận động, phát triển là tuyệt đối Lênin đã từng khẳng đònh : “Sự
thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện tạm thời, thoáng qua, tương đối, sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”
Thống nhất của các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn biện chứng ở trong sự vật và làm cho sự
vật đó có một sự ổn đònh tương đối nhất đònh, đó chính là điều kiện cho đấu tranh, là môi trường
thuận lợi để triển khai cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Như vậy thống nhất làm cho sự vật là
19
chính nó, phân biệt nó với sự vật khác, còn đấu tranh làm cho sự vật dần biến đổi, chuyển hoá
thành cái khác.
Bản thân các mặt đối lập đã chứa đựng trong nó những đặc điểm, những tính chất có khuynh
hướng vận động trái chiều nhau. Do đó, sự cân bằng hay sự tác động ngang bằng nhau giữa
chúng chỉ là tạm thời trong điều kiện, thời điểm nhất đònh. Khi hai mặt đó xung đột với nhau gay
gắt mâu thuẫn giữa chúng trở nên căng thẳng thì nhất đònh đến lúc nào đó chúng sẽ chuyển hóa
cho nhau. Kết quả là sự thống nhất cũ bò phá hủy, mâu thuẫn cũ được giải quyết, sự thống nhất
mới được thiết lập cùng mâu thuẫn mới và cuộc đấu tranh giữa hai mặt đối lập lại tiếp tục diễn
ra.

Tính tuyệt đối của cuộc đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động, tự thân phát triển của thế
giới vật chất.
Thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện để các mặt đối lập triển khai cuộc đấu tranh giữa
chúng. Sự thống nhất tạo điều kiện để sự vật thể hiện nó đang còn là nó, phân biệt nó với cái
khác. Còn đấu tranh giải quyết mâu thuẫn làm cho sự vật chuyển hóa thành cái khác, sự vật cũ
mất đi, sự vật mới ra đời.
Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự kết hợp giữa tính ổn đònh và tính thay đổi, thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy đònh tính ổn đònh và tính thay đổi của sự vật. Vì vậy,
Triết học ML khẳng đònh : “Mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động, phát triển, là xung
lực của sự sống.
Tóm lại: thực chất của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là mọi sự vật,
hiện tượng đều chứa đựng những mặt, khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong
bản thân mình. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự
vận động và phát triển dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
c)Liên hệ:
- Cuộc đấu tranh chống tiêu cực hiện nay thực chất là cuộc đấu tranh để giải quyết những mâu
thuẫn giữa các mặt, yếu tố tích cực, cách mạng và khoa học với những mặt, những yếu tố, những
nhân tố tiêu cực, phản cách mạng, không khoa học nhằm đem lại thắng lợi cho cái tích cực. Qua
đó thúc đẩy sự phát triển của XH Việt Nam theo mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghóa
XH, dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
- Cuộc đấu tranh chống tiêu cực mang tính phức tạp và diễn ra trên mọi lónh vực của đời sống
XH. Chúng ta phải vừa đấu tranh xóa bỏ những tàn dư của XH cũ để lại vừa đấu tranh với những
hiện tượng tiêu cực mới nảy sinh trong xã hội hiện nay, vừa đấu tranh chống lại sự xâm nhập
cùng âm mưu phá hoại của các thế lực thù đòch vừa phải đấu tranh chống lại tác động, mặt trái
của cơ chế thò trường…. Mặt tiêu cực bao gồm tất cả những gì là đối lập với tích cực. Vì vậy đối
tượng của cuộc đấu tranh là rất rộng, từ những hiện tượng tội phạm, tệ nạn XH đến những hành
vi, hành động cản trở sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đi ngược lại nền văn hóa dân tộc
và đi ngược lại lợi ích quốc gia, tiến bộ xã hội.
Điều quan trọng trong cuộc đấu tranh là phải nghiên cứu tìm hiểu sự phát sinh, tồn tại, sự mở
rộng của những mặt tiêu cực, đánh giá đúng đặc điểm, tính chất của mỗi hiện tượng tiêu cực và

trên từng lónh vực. Từ đó tìm ra phương thức, biện pháp, phương tiện bố trí lực lượng giải quyết
mâu thuẫn và cần linh hoạt trong việc sử dụng, kết hợp đồng bộ các biện pháp để giải quyết mâu
thuẫn, từ giáo dục thuyết phục, cảm hóa đến trừng phạt cưỡng bức; từ hành chính đến pháp luật.
*Vai trò của người cán bộ công an: (tự nghiên cứu)
20
Câu 11: Mâu thuẫn là gì? Nêu các loại mâu thuẫn. Vận dụng lý luận này để phân tích mâu
thuẫn cơ bản trên thế giới và ở nước ta hiện nay. Phương thức giải quyết mâu thuẫn ở Việt Nam.
1/ Mâu thuẫn là gì?
Mâu thuẫn là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự thống nhất và đấu
tranh của hai mặt đối lập trong một chỉnh thể tạo thành sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại trong tất cả các sự vật từ
phát sinh, phát triển đến chuyển hóa của sự vật, hiện tượng, thuộc tất cả các lónh vực từ tự nhiên
đến xã hội đến tư duy. Tuy nhiên, ở mỗi sự vật khác nhau, mỗi lónh vực khác nhau, mỗi giai đoạn
khác nhau thì mâu thuẫn thể hiện dưới những hình thức khác nhau. Tính đa dạng, phong phú của
mâu thuẫn được quy đònh một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện
mà trong đó diễn ra sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập được triển khai bởi trình độ tổ chức
của hệ thống vật chất mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
2/ Các loại mâu thuẫn:
Tùy theo góc độ nghiên cứu, đánh giá thì mâu thuẫn được phân chia thành những dạng chính
sau đây:
a/ Nếu căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập đối với một sự vật thì mâu thuẫn được chia
thành hai loại: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn bên trong: là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập trong
cùng một sự vật.
- Mâu thuẫn bên ngoài: là sự tác động qua lại giữa sự vật này với sự vật khác.
Thực ra sự phân chia mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối tùy thuộc
vào phạm vi xem xét cụ thể. Cùng trong một mâu thuẫn thì trong phạm vi này là mâu thuẫn bên
trong , nhưng trong một phạm vi khác lại trở thành mâu thuẫn bên ngoài. (Chẳng hạn xem xét ở
Việt Nam thì mâu thuẫn trong nước là mâu thuẫn bên trong; nhưng đặt Việt Nam trong phạm vi
với TG thì mâu thuẫn đó là mâu thuẫn bên ngoài).

Khi đã xác đònh chính xác đâu là mâu thuẫn bên trong và bên ngoài thì mâu thuẫn bên trong
bao giờ cũng có vai trò quyết đònh trực tiếp đối với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng. Đương nhiên việc giải quyết mâu thuẫn bên trong – bên ngoài có quan hệ với nhau; giải
quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.
b/ Nếu căn cứ vào ý nghóa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật thì mâu thuẫn
được chia thành 2 loại: mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản ( mâu thuẫn quá trình ).
- Mâu thuẫn cơ bản: là mâu thuẫn quy đònh bản chất của sự vật, quy đònh sự phát triển ở tất cả
các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật; và nếu mâu thuẫn này
được giải quyết thì SVHT sẽ thay đổi căn bản về chất.
- Mâu thuẫn không cơ bản: là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự
vật, không quy đònh bản chất của SVHT. Nó quy đònh sự vận động, phát triển một mặt nào đó
của sự vật. Mâu thuẫn này nảy sinh hay được giải quyết cũng không làm cho SVHT thay đổi căn
bản về chất.
c/ Nếu căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật trong một giai
đoạn nhất đònh thì mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu ( mâu
thuẫn giai đoạn ).
- Mâu thuẫn chủ yếu: là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất đònh của
sự vật. Nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó và việc giải quyết nó sẽ tạo điều kiện
21
để giải quyết những mâu thuẫn khác ở trong cùng một giai đoạn, từ đó chuyển sang một giai
đoạn mới.
- Mâu thuẫn thứ yếu: là những mâu thuẫn ra đời, tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó
của sự vật nhưng không đóng vai trò quyết đònh và nó bò mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Việc giải
quyết mâu thuẫn này góp phần từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
 Chú ý: Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó
mâu thuẫn chủ yếu là hình thức nổi bật của mâu thuẫn cơ bản trong một giai đoạn nhất đònh nào
đó. Việc giải quyết những mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện cần thiết để từng bước giải quyết
mâu thuẫn cơ bản.
( Mâu thuẫn cơ bản ở Việt Nam là CNTB và CNXH. Mâu thuẫn chủ yếu là từng giai đoạn
được xác đònh cụ thể, từ đó giải quyết mâu thuẫn này để đạt đến giải quyết mâu thuẫn cơ bản )

d/ Nếu căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích trong xã hội thì các mâu thuẫn xh được
chia thành 2 loại: mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
- Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu
hướng xh có lợi ích cơ bản đối lập nhau (như mâu thuẫn giữa đòa chủ với nông dân, giữa tư sản
với công nhân).
- Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa những lực lượng, những khuynh hướng xh có
lợi ích cơ bản là thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời
( lao động trí óc - lao động chân tay, lao động nông thôn – thành thò, công nhân và nông dân ); vì
vậy có chính sách giải quyết để kéo xích lại gần nhau với khoảng cách giữa các lực lượng. Nếu
không có chính sách phù hợp thì sẽ biến thành mâu thuẫn đối kháng ( Điều này cần hết sức tránh
)
( Ví dụ : Sự kiện ở Thái Bình và sự kiện ở Tây nguyên. Ở Thái Bình : mâu thuẫn không đối
kháng nên không sử dụng quân đội. Ở Tây nguyên : mâu thuẫn đối kháng nên sử dụng lực lượng
quân đội).
Cần chú ý 2 mâu thuẫn này chỉ xuất hiện trong thế giới loài người kể từ khi có sự phân chia
giai cấp. Và việc xác đònh rõ mâu thuẫn trong xã hội là cực kỳ quan trọng trong việc lựa chọn
những biện pháp, phương pháp khác nhau để giải quyết mâu thuẫn đó.
3/ Mâu thuẫn cơ bản trên thế giới và ở nước ta hiện nay:
a/ Trên thế giới hiện có 4 mâu thuẫn sau:
- Mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB: đây là mâu thuẫn cơ bản bao trùm và xuyên suốt thời đại
quá độ lên CNXH trên phạm vi TG, được mở đầu bằng thắng lợi của cuộc cách mạng tháng
Mười Nga.
- Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác. Mâu
thuẫn này tồn tại ở trong lòng tất cả các nước tư bản (mâu thuẫn bên trong).
- Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc đòa và phụ thuộc với chủ nghóa thực dân và chủ nghóa đế
quốc. Hiện nay, mâu thuẫn này đang dần chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển
với các nước đế quốc phát triển.
- Mâu thuẫn giữa các nước TBCN, các nước Đế quốc với nhau. Đây là mâu thuẫn bên trong
của CNTB trong việc giành giật thò trường.
* Tại Đại hội IX Đảng ta đã xác đònh: “Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới

những hình thức và những mức độ khác nhau, thậm chí sâu sắc hơn. Đấu tranh giai cấp và dân
tộc tiếp tục diễn ra gay gắt. CNTB hiện đại không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có,
22
đặc biệt là mâu thuẩn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Mâu thuẩn giữa các nước tư bản chủ nghóa phát triển và các
nước đang phát triển. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh CNXH trên
thế giới từ những bài học thành công và thất bại, cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các
dân tộc có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới theo quy luật tiến hoá của lòch sử ,
loài người nhất đònh sẽ tiến tới CNXH”.
b/ Ở Việt Nam :
Hiện nay con đường đi lên của nước ta sự quá độ lên chủ nghóa xã hội bỏ qua chế độ TBCN.
Vì vậy mâu thuẫn giữa chủ nghóa tư bản và CNXH trên thế giới được biểu hiện ở Việt Nam là
mâu thuẫn giữa hai khả năng phát triển: hoặc là phát triển thành CNTB hoặc là đi lên CNXH.
Đấu tranh giải quyết mâu thuẫn này được thể hiện thành cuộc đấu tranh giữa hai con đường
nhằm mục tiêu đem lại thắng lợi cho CNXH. Đặc biệt khi chúng ta chủ trương xây dựng nần kinh
tế nhiều thành phần, mâu thuẫn cơ bản ở VN có thể nói là MT cơ bản ở VN là MT giữa CNTB
với tư cách là xu thế phát triển của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có sự tác động của các thế
lực phản động trong và ngoài nước với một bên là xu hướng XHCN đang được hình thành và
từng bước thể hiện trong quá trình đi lên từ một cơ sở KTXH còn thấp.
Phương hướng giải quyết MT đó là tiến đấu tranh giai cấp theo nội dung ĐH9 đã xác đònh:
“Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH- HĐH theo đònh hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước
nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất công, đấu tranh ngăn
chặn ,khắc phục tư tưởng và những hành động tiêu cực sai trái. Đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù đòch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta
thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”
Tại đại hội IX của Đảng, vấn đề đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn tạo động lực cho sự phát
triển tiếp tục thêû hiện quy đònh về mâu thuẫn đồng thời cụ thể hoá thành những mâu thuẫn sau
đây :
- Loại mâu thuẫn biểu hiện dưới trạng thái kinh tế kém phát triển với yêu cầu xây dựng một
xã hội dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.

- Mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường XHCN và TBCN. Mâu thuẫn này phát
sinh từ hai mặt, hai khuynh hướng đối lập : Một mặt từ quá trình cải tạo xây dựng CNXH trên
các mặt kinh tế, chính trò, văn hoá tạo thành khuynh hướng XHCN. Mặt khác bắt nguồn từ nền
sản xuất nhỏ, từ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thò trường làm nảy sinh
những nhân tố đôí lập, khuynh hướng tự phát đi lên tư bản.
- Loại mâu thuẩn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với các thế lực cản trở con đường
phát triển của nước ta theo mục tiêu đó ( thế lực thù đich trong và ngoài nước, vấn đề tội phạm
tề nan tham nhũng-thế giới xét Việt Nam là một trong số các nước có nạn tham nhũng nặng
nhất).
- Loại mâu thuẩn giữa mặt nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH.
Loại mâu thuẩn này xuất từ yêu cầu nhận thức những quy luật những điều kiện khả năng khách
quan với một bên là trình độ năng lực, nhận thức và hoạt động thực tiễn của đảng, của nhà nước
trong quá trình lãnh đạo Loại mâu thuẫn này thể hiện trong tư tưởng, lý luận, tổ chức, lãnh đạo
chỉ đạo của nhà nước.
4/ Hình thức giải quyết mâu thuẫn ở Việt Nam :
Trong cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có thể và cần thiết sử dụng kết hợp linh hoạt các
hình thức đấu tranh, kết hợp đối đầu và đối thoại hợp tác và cạnh tranh, mềm dẻo về sách lược,
cứng rắn lập trường về chính trò và quân sự, kinh tế và ngoại giao, bỏ qua và kế thừa
23
Câu 12 : Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng và thay đổi về chất . Ý nghóa
phương pháp luận của quy luật này
a) Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật nói lên cách thức của sự
vận động và phát triển thông qua sự tác động qua lại giữa chất và lượng của sự vật.
- Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy đònh khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính của sự vật làm cho sự vật nào đó là nó mà
không phải là cái khác.
+ Mỗi một sự vật có nhiều thuộc tính và mỗi một thuộc tính lại có đặc trưng riêng của mình.
Vì vậy mỗi một thuộc tính lại trở thành một chất và như thế sự vật không phải chỉ có một chất
mà là có nhiều chất. Tuy nhiên, ở trong mỗi sự vật có những thuộc tính cơ bản và những thuộc

tính không cơ bản, tổng hợp những thuộc tính cơ bản sẽ tạo nên chất cơ bản của sự vật. Đó là
loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy đònh sự tồn tại hay không tồn tại của bản thân sự
vật.
+ Chất của sự vật không chỉ được xác đònh bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn bởi cấu
trúc, phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật. Khi các phương thức liên kết này
thay đổi thì chất của sự vật cũng có sự thay đổi theo.
- Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy đònh vốn có của sự vật biểu thò về mặt
số lượng, quy mô, trình độ, nhòp điệu … của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như của các
thuộc tính của nó.
+ Lượng thường biểu thò kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều,
trình độ cao hay thấp, tốc độ nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt …trong hiện thực khách
quan. Lượng thường được diễn tả bằng những con số cụ thể chính xác tuy nhiên cũng có lượng
được biểu thò dưới dạng trừu tượng và khái quát, như trình độ nhận thức, tri thức khoa học ở một
con người hay ý thức trách nhiệm của công dân. Trong trường hợp đó, lượng chỉ có thể nhận
thức được thông qua sự khái quát hoá, trừu tượng hoá. Ví dụ, phong trào bảo vệ ANTQ diễn ra
sâu rộng…
+ Cũng có những lượng là nhân tố quy đònh ở bên trong sự vật nhưng có lượng chỉ nói lên
nhân tố bên ngoài. Vì vậy sự biểu thò về lượng là rất phong phú, phức tạp. Mặt khác chất và
lượng là hai mặt quy đònh lẫn nhau không thể tách rời, một chất nhất đònh của sự vật bao giờ
cũng có một lượng tương ứng với nó, thể hiện nó. Mỗi sự vật có nhiều chất do đó cũng có nhiều
lượng.
b) Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất :
Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt này không đứng
im mà luôn vận động, thay đổi, giữa chúng thường xuyên vận động, ảnh hưởng lẫn nhau. Tốc độ
của sự vận động của chúng là không đồng đều nhau, trong đó lượng biến đổi nhanh hơn, thường
xuyên hơn nhưng không phải một sự biến đổi nào về lượng cũng ngay lập tức làm chất của SV
thay đổi. Quá trình đó được triết học gọi là độ.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ 1 khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng
chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Độ thể hiện sự thống nhất giữa lượng và chất của
sự vật. Trong độ nhất đònh, sự vật còn là nó chưa biến thành cái khác. Tuy nhiên, sự thống nhất

này không tồn tại mãi mãi. So với chất, lượng thường xuyên biến đổi, quá trình này diễn ra một
cách tiệm tiến theo cách thức tăng dần hay giảm dần. Khi sự thay đổi đó đạt đến 1 giới hạn, 1
trình độ nhất đònh thì sẽ làm cho chất thay đổi. Điểm giới hạn cuối cùng của sự thống nhất giữa
chất và lượng là điểm nút.
24
Điểm nút là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã
đủ làm thay đổi vể chất của sự vật. Chất của sự vật được thay đổi do lượng của nó đã đạt đến
giới hạn điểm nút và sự thay đổi về chất được thực hiện thông qua những bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để sự chuyển hóa về chất của sự vật do những thay
đổi về lượng từ trước đó gây ra. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chất cũng đều thực hiện thông
qua bước nhảy, đó là sự đứt đoạn trong tính liên tục, sự nhảy vọt trong tiệm tiến, trong xã hội đó
là là cuộc CM trong quá trình tiến hoá. Đó là sự cần thiết của sự phát triển, là tiền đề của sự liên
tục và sự liên tục chỉ là những kế tiếp của hàng loạt gián đoạn. Lênin đã chỉ rõ:” Tính tiệm tiến
mà không có bước nhảy vọt thì không giải thích được gì cả”.
Sự thay đổi về chất của sự vật diễn ra hết sức đa dạng với nhiều hình thức bước nhảy khác
nhau tuỳ thuộc vào tính chất của bản thân sự vật, những mâu thuẫn vốn có trong bản thân nó và
tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh mà ở đó bước nhảy được thực hiện.
Triết học ML khái quát và đưa ra những hình thức chủ yếu sau đây của bước nhảy :
- Nếu dựa trên nhòp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật thì có thể phân chia bước
nhảy thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong thời gian ngắn làm thay đổi chất của
toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từng bước bằng cách tích luỹ dần những
nhân tố của chất mới và loại bỏ dần những nhân tố của chất cũ.
- Nếu căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy có thể phân chia thành bước nhảy toàn bộ và
bước nhảy cục bộ.
Bước nhảy toàn bộ là loại bước nhảy làm thay đổi về chất ở tất cả các mặt, các yếu tố cấu
thành sự vật.
Bước nhảy cục bộ là loại bước nhảy là thay đổi chất của những mặt, những yếu tố riêng lẻ
của sự vật.

* Chú ý : đối với các sự vật phức tạp về tính chất, về cấu trúc … thì bước nhảy thường diễn ra
bằng con đường từ những bước nhảy cục bộ đến toàn bộ.
- Khi xem xét sự thay đổi về chất của xã hội thì sự thay đổi đó được phân chia thành thay đổi
có tính cách mạng và thay đổi có tính tiến hóa.
Cách mạng là sự thay đổi mà trong đó chất của sự vật biến đổi cân căn bản mà không phụ
thuộc vào hình thức biến đổi của nó.
Tiến hóa là sự thay đổi về lượng cùng với những biến đổi về chất không căn bản của sự vật.
* Nội dung chủ yếu của quy luật:
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn
khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy. Chất
mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới và quá trình đó diễn ra liên tục làm cho sự
vật không ngừng biến đổi, phát triển.
c)Ý nghóa của quy luật :
-Về mặt nhận thức: để có tri thức đầy đủ về sự vật phải nhận thức cả hai mặt chất và lượng
của nó, phải hiểu đúng đắn vò trí, vai trò và ý nghóa của mỗi sự thay đổi về lượng cũng như về
chất đối với sự phát triển của sự vật
-Trong hoạt động thực tiễn cần phải biết tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy
luật.
25

×