Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.39 KB, 6 trang )

Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
1. Nguồn gốc của ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là
sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống
có tổ chức cao là bộ óc con người.
Bộ óc con ng*ười hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến
hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức
tạp, gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này
tạo nên nhiều mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền
và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ
với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện
và không điều kiện.
Hoạt động ý thức con ngư*ời diễn ra trên cơ sở hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc ngư*ời. Sự phụ thuộc của ý
thức vào hoạt động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị
tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Ý thức là
chức năng của bộ óc người, là hình ảnh tinh thần phản ánh
thế giới khách quan; như*ng ý thức không diễn ra ở đâu
khác ngoài hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc ng*ười.
Ng*ược lại, chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức ra khỏi hoạt
động của bộ óc, thần bí hoá hiện t*ượng tâm lý, ý thức.
Còn chủ nghĩa duy vật tầm thư*ờng lại đồng nhất vật chất
với ý thức.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động
của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì
cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng
vật chất. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ
thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất


khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất,
thuộc tính phản ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp đến
cao với nhiều hình thức khác nhau.
- Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở
giới vô sinh, thể hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
- Phản ánh sinh học trong giới hữu sinh cũng có nhiều hình
thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới
sinh vật:
+ Tính kích thích: Thể hiện ở thực vật, động vật bậc thấp,
đã có sự chọn lọc trước những tác động của môi trường.
+ Tính cảm ứng: Thể hiện ở động vật bậc cao có hệ thần
kinh, xuất hiện do những tác động từ bên ngoài lên cơ thể
động vật và cơ thể phản ứng lại. Nó hoàn thiện hơn tính
kích thích, đ*ược thực hiện trên cơ sở các quá trình thần
kinh điều khiển mối liên hệ giữa cơ thể với môi tr*ường
thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện.
+ Tâm lý động vật: Là hình thức cao nhất trong giới động
vật gắn liền với các quá trình hình thành các phản xạ có
điều kiện, thông qua các cảm giác, tri giác, biểu t*ượng ở
động vật có hệ thần kinh trung ương.
- Phản ánh ý thức: Gắn liền với quá trình chuyển hoá từ
vượn thành ng*ười. Đó là hình thức phản ánh mới, đặc
trưng của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc
con ngư*ời.
Như* vậy, sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con
ngư*ời là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b. Nguồn gốc xã hội
Để ý thức có thể ra đời, những nguồn gốc tự nhiên là rất
cần thiết nhưng chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra

đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của
lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
- Lao động đem lại cho con ngư*ời dáng đi thẳng đứng,
giải phóng 2 tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã
thực sự có ý nghĩa quyết định đối với quá trình chuyển hoá
từ vư*ợn thành ngư*ời, từ tâm lý động vật thành ý thức.
Việc chế tạo ra công cụ lao động có ý nghĩa to lớn là con
ngư*ời đã có ý thức về mục đích của hoạt động biến đổi thế
giới.
- Trong quá trình lao động, con ngư*ời tác động vào các
đối tư*ợng hiện thực, làm chúng bộc lộ những đặc tính và
quy luật vận động của mình qua những hiện tượng nhất
định. Những hiện tượng đó tác động vào bộ óc con ngư*ời
gây nên những cảm giác, tri giác, biểu tượng. Nhưng quá
trình hình thành ý thức không phải là do tác động thuần túy
tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc con người,
mà chủ yếu là do hoạt động lao động chủ động của con
người cải tạo thế giới khách quan nên ý thức bao giờ cũng
là ý thức của con ng*ười hoạt động xã hội. Quá trình lao
động của con ngư*ời tác động vào thế giới đã làm cho ý
thức không ngừng phát triển, mở rộng hiểu biết của con
ng*ười về những thuộc tính mới của sự vật. Từ đó, năng
lực tư* duy trừu t*ượng của con ngư*ời dần dần hình thành
và phát triển.
- Lao động ngay từ đầu đã liên kết con ngư*ời lại với nhau
trong mối liên hệ tất yếu, khách quan. Mối liên hệ đó không
ngừng được củng cố và phát triển đến mức làm nảy sinh ở
họ một nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó",
tức là ph*ương tiện vật chất để biểu đạt sự vật và các quan
hệ của chúng. Đó là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín

hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Theo Mác, ngôn ngữ là
cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư
tưởng; không có ngôn ngữ thì con người không thể có ý
thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định
sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn
xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các
quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện
tượng xã hội.
2. Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ
óc con ngư*ời, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác
động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược
lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới,
do nhu cầu của việc con ngư*ời cải biến giới tự nhiên quyết
định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động. Vì
vậy, ý thức là cái vật chất đ*ược đem chuyển vào trong
đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú.
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức
mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái không có
trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về tương lai,
có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả
thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính
khái quát cao.
Tuy nhiên, sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh,
bởi vì ý thức bao giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.
- Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về

bản chất là có tính xã hội.
3. Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất
phức tạp bao gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với
nhau. Có thể chia cấu trúc của ý thức theo hai chiều:
a. Theo chiều ngang: Bao gồm các yếu tố như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý chí , trong đó tri thức là yếu tố cơ
bản, cốt lõi.
b. Theo chiều dọc: Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm
thức, vô thức.
4. Vai trò tác dụng của ý thức. Ý nghĩa phương pháp
luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Khi thừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập với ý
thức, quyết định ý thức thì sự nhận thức thế giới không thể
xuất phát từ ý thức con ng*ười, mà phải xuất phát từ thế
giới khách quan. Trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng
và hành động theo các quy luật khách quan.
Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn
chủ quan của mình làm chính sách, lấy ý chí áp đặt cho
thực tế vì nh*ư vậy sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật đồng thời vạch rõ sự tác động
trở lại vô cùng to lớn của ý thức đối với vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con ng*ười. Quan hệ giữa vật chất
và ý thức là quan hệ hai chiều. Không thấy điều đó sẽ rơi
vào quan niệm duy vật tầm thư*ờng và bệnh bảo thủ, trì trệ
trong nhận thức và hành động.
Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con
ngư*ời, vì ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi đ*ược gì
trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện tư tư*ởng phải
sử dụng lực lượng thực tiễn. Nghĩa là con ngư*ời muốn

thực hiện quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng
đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và phư*ơng
pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ
đạo hoạt động của con ngư*ời, có thể quyết định làm cho
con ngư*ời hành động đúng hay sai, thành công hay thất
bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định. Do
đó, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới
khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả. Vì vậy,
phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy
vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới
khách quan.

×