Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "LUẬT TỤC Ê ĐÊ: NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA PHÁP LÝ " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.97 KB, 17 trang )

LUẬT TỤC Ê ĐÊ: NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN
HÓA PHÁP LÝ
VŨ THỊ BÍCH HƯỜNG
ThS.Giảng viên ĐH Luật TP.HCM
Trình độ văn hóa nói chung và văn hóa pháp lý nói
riêng không chỉ phản ánh bản sắc văn hóa mà còn
phản ánh khả năng nhận thức và trình độ phát triển
của một dân tộc. Ở nước ta hiện nay, bên cạnh hệ
thống pháp luật thực định đang ngày càng được hoàn
thiện vẫn còn tồn tại luật tục của các buôn làng người
thiểu số, mà giá trị hiện thực của nó trong việc đảm
bảo sự ổn định các quan hệ xã hội trong một cộng
đồng người là điều không thể phủ nhận. Nếu hệ thống
pháp luật thực định phản ánh trình độ văn hóa pháp
lý của một cộng đồng người sinh sống trên lãnh thổ
của một quốc gia thống nhất, thì luật tục lại phản ánh
văn hóa pháp lý của một dân tộc – một bộ phận hợp
thành khối dân cư thống nhất ấy. Trong bài viết này,
chúng tôi nêu một số suy nghĩ về luật tục Ê Đê nhìn
từ góc độ văn hóa pháp lý.
Ê Đê là cộng đồng người thống nhất về ý thức dân
tộc, ngôn ngữ và văn hóa, là một dân tộc thiểu số bản
địa ở Đaklak có trình độ phát triển và nền văn hóa
tiêu biểu cho Đakalk. Trong các bản trường ca, nổi
bật nhất là trường ca Đam San, cũng như trong đời
sống hàng ngày, người Ê Đê đã khắc họa nên những
trang sử hào hùng của dân tộc mình trong việc đánh
giặc, đuổi cướp giữ buôn làng, giữ bến nước của ông
bà, cha mẹ. Từ lâu, người Ê Đê đã sống quần cư
trong những ngôi nhà dài. Mỗi nhà dài gồm nhiều gia
đình, nhiều hộ, cùng là anh chị em ruột một dòng họ


với nhau theo chế độ mẫu hệ. Hôn nhân cư trú bên
vợ, con cái sinh ra mang họ mẹ. Đứng đầu đại gia
đình là Khoa sang, đó là người đàn bà cao tuổi và có
uy tín nhất, đứng ra trông nom tài sản, hướng dẫn sản
xuất, điều hòa quan hệ giữa các thành viên, thay mặt
đại gia đình quan hệ với xã hội. Một dòng họ nhỏ có
thể cư trú trong một ngôi nhà dài. Một dòng họ lớn
gồm nhiều nhà dài. Nhiều dòng họ làm thành một
Buôn – cộng đồng tiêu biểu cho toàn xã hội.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã hội Ê Đê
vẫn đang ở vào giai đoạn tan rã của công xã nguyên
thủy. Tuy đã bắt đầu có sự phân hóa giàu nghèo,
nhưng trong xã hội, các quan hệ sở hữu tập thể, của
dòng họ và của cả buôn còn chi phối sâu sắc. Hình
thức sản xuất chủ yếu là săn bắn, hái lượm, nương
rẫy. Công cụ sản xuất thô sơ với chiếc xà gạc, cái cây
chọc lỗ, tra hạt… nền sản xuất mang tính chất khép
kín tự cung tự cấp. Hình thức trao đổi, phân phối sản
phẩm chủ yếu bằng hiện vật, mang tính bình quân.
Với lối sống du canh du cư, đốt rừng làm rẫy, việc
no, đói phụ thuộc phần lớn vào tự nhiên và xem đó
như là sự ban phát của tự nhiên. Vì thế, trong xã hội
Ê Đê cổ truyền, đời sống hiện thực của con người gắn
chặt với tín ngưỡng tâm linh. Họ tin vào lực lượng
siêu nhiên, các vị thần ở 3 tầng thế giới: Trời, mặt đất
và trong lòng đất, và đặt ra hàng loạt những lễ thức
cầu xin sự trợ giúp của các đấng thần linh để đạt
được những ước nguyện của mình: mùa màng tươi
tốt, tránh được hoạn nạn, buôn làng có nhiều niềm
vui và hạnh phúc.

Tính chất nền sản xuất, thiết chế gia đình, tín ngưỡng
đã hình thành nên bản sắc văn hóa của người Ê Đê,
trong đó có văn hóa pháp lý được thể hiện trong luật
tục của họ1.
Mặc dù cuộc sống còn hoang sơ, nhưng sự hình thành
luật tục của người Ê Đê đã phản ánh nhu cầu khách
quan là: cần quản lý, phối hợp và điều chỉnh những
mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng để
duy trì sự tồn tại và phát triển. Trong quá trình đó,
luật tục đã dần dần được hình thành từ những kinh
nghiệm được chắt lọc qua cuộc sống của nhiều thế
hệ, góp phần tạo nên các giá trị văn hóa tinh thần
truyền thống của dân tộc, cụ thể hóa các chuẩn mực
đạo đức, pháp lý theo quan niệm của người Ê Đê.
* Về cơ cấu của luật tục: Dựa vào 236 điều của luật
tục đã được L. Sabatier2 sắp xếp thành 11 chương ta
thấy: Nếu so sánh với một số bộ luật của các quốc gia
phương Đông và phương Tây thời kỳ cổ đại khi
những nước này mới thoát ra khỏi xã hội Công xã thị
tộc như: Luật Hammurabi (Lưỡng Hà), Luật Manu
(Ấn Độ), Luật 12 bảng (La Mã), thì Luật tục của
người Ê Đê có những điểm tương đồng. Đó là không
có sự phân định rõ ràng giữa các quy phạm điều
chỉnh những quan hệ dân sự và những hành vi phạm
tội. Điều này xuất phát từ một thực tế là do trình độ
sản xuất thấp kém nên những quan hệ dân sự trong
cộng đồng người Ê Đê còn rất mờ nhạt, đặc biệt là
quan hệ trao đổi hàng hóa (mua bán, vay mượn), chỉ
được quy định trong 6 điều, từ điều 186 đến điều 191
với nội dung rất đơn giản. Số lượng điều luật chiếm

nhiều nhất và cũng chặt chẽ nhất là những điều luật
quy định về Hôn nhân và gia đình (54 điều), đó là
nhóm quan hệ xã hội rường cột nhất chi phối đời
sống của từng cá nhân trong cộng đồng. Có thể thấy
rằng, luật tục đã rất xem trọng yếu tố con người trong
mối tương quan với thế giới tự nhiên, với cộng đồng
và tín ngưỡng. Thứ đến là vấn đề sở hữu tài sản, được
quy định trong 38 điều, nhưng đó là tài sản của gia
đình mẫu hệ. Mọi của cải trong gia đình đều thuộc
quyền quản lý của mẹ hay người đại diện cho mẹ là
chị cả. Việc thừa kế tài sản cũng được tính theo dòng
mẹ. Một phần của cải của người chồng đã chết cũng
phải đem trả về cho mẹ hay chị em gái của anh ta
(điều 182). Nhóm những điều luật chiếm vị trí thứ 3
về số lượng với 33 điều quy định mối quan hệ giữa
người đứng đầu buôn với các thành viên, nhằm đảm
bảo kỷ cương, đảm bảo quyền dân chủ, bình đẳng
trong quan hệ cộng đồng buôn làng.
* Về nội dung của luật tục Ê Đê: Như các tác giả
trong quá trình nghiên cứu và sưu tầm luật tục đã
nhận định: Luật tục ở mức độ nào đó chỉ mới bó hẹp
trong phạm vi một buôn3. Nhưng luật tục Ê Đê đã đề
cập đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau của đời sống,
từ sản xuất, tổ chức xã hội và quan hệ cộng đồng, gia
đình và quan hệ gia đình, quan hệ nam nữ đến lễ
nghi, tín ngưỡng…
Luật tục đã phản ánh tư duy duy lý dân gian của
người Ê Đê trong quá trình tồn tại và phát triển.
Những khuôn khổ, cách thức sống được đặt ra không
đơn thuần là sự nhận thức cảm tính mà đã được định

hình bằng những lý lẽ được coi như chân lý mà ai
cũng phải nghe theo, không còn sự lựa chọn nào
khác. Ví dụ như: Trong gia đình con cái phải nghe
theo lời cha mẹ, ngoài cộng đồng mỗi thành viên phải
nghe theo lời của trưởng buôn, ai làm trái với điều ấy
phải đưa ra xét xử, đó là quy tắc. Những lý lẽ đưa ra
để thuyết phục người ta cần phải xử sự theo quy tắc
đó là:
“Có cây đa thì phải hỏi cây đa, có cây sung thì phải
hỏi cây sung, có mẹ cha thì phải hỏi mẹ cha.
Kẻ như lưỡi dao lại muốn dày hơn sống dao, là một
trẻ nít lại muốn khôn ngoan hơn người lớn; có mẹ, có
cha mà không hỏi mẹ cha.
Có cây đa đầu suối, có cây sung đầu làng, người
trông nom dân làng mà không hỏi.
Hắn đi rừng lấy củi mà không hỏi cha, đi suối lấy
nước mà chẳng nói với mẹ; bán cái này, mua cái nọ
mà không hỏi các ông già bà cả.
Như vậy là có chuyện sai lầm phải đưa ra xét xử
(Điều 27).
Những lý lẽ ấy đã được bắt nguồn từ chính cuộc sống
hiện thực mà con người không thể phủ nhận, tạo cho
họ niềm tin và dẫn dắt họ trong cuộc sống.
Xuyên suốt 236 điều trong luật tục là tính cộng đồng
với tinh thần bình đẳng, dân chủ, bác ái. Dù là việc
xảy ra trong một gia đình, một dòng họ như: kết hôn,
sinh tử… mọi người vẫn ghé vai gánh vác xem như
đó là công việc chung. Cho đến những việc như sửa
sang bến nước, tế lễ thần linh hoặc hệ trọng hơn như
bảo vệ an ninh cho buôn làng, các chủ hộ đều được

chủ làng, chủ bến nước mời tới bàn bạc và đóng góp.
Trẻ mồ côi, người thiếu ăn, bệnh hoạn, đều được mọi
người nâng đỡ, chở che. Lối sống dân chủ, bác ái ấy
đã gắn bó con người lại với nhau, mỗi người, mỗi nhà
đều tự coi là một thành viên không thể rời xa cộng
đống. Luật tục đã quy định rất rõ trách nhiệm của
mỗi cá nhân, của cá nhân với cộng đồng, đồng thời
cũng nêu rõ trách nhiệm của thân tộc đối với mỗi
thành viên trong dòng họ, nhằm mục đích tạo nên sự
bình đẳng giữa các thành viên. Không có sự phân
biệt, ưu đãi tầng lớp trên, hoặc ngược đãi tầng lớp
dưới trong mọi lĩnh vực của đời sống buôn làng.
* Về cơ chế điều chỉnh của luật tục: Luật tục được
hình thành và tồn tại trong đời sống của người Ê Đê
đã đáp ứng được nhu cầu khách quan mà bất kỳ một
cộng đồng người nào, một thiết chế xã hội nào cũng
cần đến, đó là nhu cầu về quản lý. Nhưng do phương
thức sản xuất còn ở trình độ thấp nên nhu cầu quản lý
cũng như tính chất của hoạt động quản lý còn khá
đơn giản, vì thế nên luật tục có cơ chế điều chỉnh
riêng của nó. Bằng nhiều cách thức như: giáo dục,
răn đe, xử phạt, luật tục đã tác động đến nhận thức và
hành vi của các thành viên trong cộng đồng, tạo nên
một trật tự cần thiết cho các hoạt động chung như: tổ
chức sản xuất, bảo vệ buôn làng… và bảo vệ lợi ích
của từng cá nhân, từng dòng họ. Nhưng vượt lên trên
các phương pháp cụ thể ấy là nguyên tắc tự quản kết
hợp với những quan niệm về tín ngưỡng.
Cuộc sống của người Ê Đê gắn bó chặt chẽ với thế
giới tự nhiên, chan hòa với thế giới tự nhiên. Họ lấy

từ tự nhiên những sản vật phục vụ cho nhu cầu của
mình. Dựa vào mặt trời, mặt trăng để định đơn vị thời
gian: Ngày đêm (mặt trời), tháng (mặt trăng), năm
(mùa rẫy, mùa hoa, mùa chim bay về và bay đi). Tuy
vậy, con người vẫn thấy bất lực trước thiên nhiên, vũ
trụ bao la. Những tai họa cứ bất thần ập đến, tàn phá
cây trồng, giết hại người và gia súc… con người trở
nên nhỏ bé, yếu ớt và họ tìm chỗ dựa tinh thần bằng
việc tưởng tượng ra các vị thần linh, và tin rằng chỉ
có các vị thần ấy mới có sức mạnh hơn con người.
Thần Aê Điê là thần tối cao trông coi cả 3 thế giới:
tầng trời, mặt đất và tầng dưới đất; các thần thời tiết:
Yang Liê (bão tố), Yang Briêng (thần tai nạn)… mỗi
thần đều có tác động nhất định đến con người. Mùa
màng bị tàn phá là do sự trừng phạt của thần ác đối
với con người. Khi được mùa là do thần thiện ưu ái
với con người. Và để các vị thần vừa lòng mà ra tay
giúp đỡ, hay ngưng lại sự trừng phạt, con người phải
tổ chức những lễ nghi cầu khấn, suy tôn. Sự gắn bó
con người với các vị thần linh đã hình thành nên cơ
chế tự điều chỉnh, con người cảm thấy có một lực
lượng vô hình luôn kiểm tra, theo dõi và uốn nắn
hành vi của họ. Vì thế mà mỗi cá nhân, mỗi gia đình,
dòng họ đều tự răn mình và giáo dục các thành viên
khác điều chỉnh hành vi theo quy định của luật tục,
ngăn chặn những hành vi làm thương tổn đến lợi ích
của người khác và của cộng đồng, hướng con người
tới các điều thiện. Khi các cá nhân không tự điều
chỉnh và có sự vi phạm luật tục hoặc có những mâu
thuẫn, xung đột với nhau mà không tự giải quyết

được thì sẽ có sự can thiệp của cộng đồng bằng một
thiết chế có tính quyền lực – Tòa án phong tục. Trong
mỗi buôn Ê Đê đều có những Khoa phat kđi – là
người am hiểu và thông thuộc luật tục, có uy tín trong
buôn làng (thường là các già làng) – đứng ra giải
quyết các mâu thuẫn, xung đột. Trong xử kiện, Khoa
phat kđi đọc luật tục (bằng văn vần) và sử dụng các
biện pháp của nghi thức cổ truyền, rồi sau đó phán xử
như một ông chánh án được tín nhiệm tuyệt đối. Khi
mỗi bên nguyên, bên bị đã được xét xử xong, bao giờ
cũng kèm theo một nghi lễ nhằm chấm dứt những thù
oán giữa các bên với sự chứng giám của các vị thần
linh và dân chúng. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là,
những điều ghi trong luật tục cũng như cách giải
quyết của tòa án phong tục chủ yếu là hòa giải, giáo
dục hơn là kết tội, trừng phạt. Ngay cả khi một người
bị quy tội thì biện pháp trừng phạt thực chất vẫn là
một hình thức hòa giải, giáo dục. Hiện nay, Tòa án
phong tục chỉ còn có ở những vùng xa các đô thị, xa
các trục lộ giao thông chính. Những nơi không còn
tòa án phong tục thì thay vào đó là nhóm, tổ hòa giải
để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột xảy ra trong
buôn trên cơ sở luật tục, mà biện pháp chính vẫn là
hòa giải, giáo dục, răn đe. Chỉ khi nào Tổ hòa giải
không xử lý được thì vụ việc mới được chuyển lên
Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh. Sự vận hành như
vậy của luật tục vào đời sống xã hội thật đơn giản.
Nó khác với cơ chế điều chỉnh p của Nhà nước được
kết hợp bởi nhiều yếu tố và quy trình pháp lý khá
phức tạp. Nhưng chính từ cơ chế điều chỉnh đơn giản

ấy của luật tục mà các thành viên trong cộng đồng
gắn bó với nhau hơn và đó là cơ sở xã hội làm cho
luật tục tồn tại lâu dài.
* Về ngôn ngữ diễn đạt: Trong văn học dân gian
truyền thống của người Ê Đê, lời nói vần Duê là một
hình thức ngôn từ đặc biệt và phổ biến trong văn
chương truyền miệng Ê Đê như tục ngữ, truyện cổ,
trường ca, thần thoại, dân ca. Lời nói vần là sự chắt
lọc tinh túy từ những tri thức, kinh nghiệm dân gian.
Trong giao tiếp, người ta vẫn thường xen vào những
câu nói vần như để làm chuẩn mực đối chiếu xã hội.
Trong luật tục, những câu nói vần được gọi là Duê
Kđi. Nó giống như khẩu ngữ hàng ngày với cách nói
ví von, so sánh, hình tượng nhưng cũng rất cụ thể,
cách dùng ngoa ngữ để khẳng định điều muốn nói.
Nhưng Duê Kđi có tính chất thiêng liêng hơn vì được
coi như những câu nói của ông bà tổ tiên, của các
thần linh đã để lại cho con cháu.
Ví dụ như để trừng phạt những kẻ có hành vi bịa đặt,
vu cáo cho người khác về những điều không có thực,
luật tục đã mô tả hành vi đó như sau:
“Hắn bịa chuyện vu khống cả kẻ sang, người giàu.
Hắn nói, họ như một cây gạo đã rỗng ruột, như một
cái cối đã thủng đáy trong khi chẳng có tí gì như vậy
cả.
Có những chàng trai trong làng, những cô gái ngây
thơ, những người Mnông, người Bih chất phác thật
thà, đã bị hắn đổ cho là đã đi vào bụi vào bờ (lén lút)
ăn thịt bò, thịt trâu (đã đánh cắp)…”
Có thể thấy, ngôn ngữ trong luật tục hầu hết là thứ

ngôn ngữ giàu hình ảnh cụ thể, sinh động. Những
hình ảnh ấy vừa cô đọng, sâu sắc, vừa giản dị, dễ
nhớ, dễ lưu truyền làm cho người nghe, người đọc có
thể hình dung và nhận thức bằng trực giác mà không
cần đến một sự giải thích nào khác. Với ngôn ngữ ấy,
Luật tục đã phản ánh thế giới tự nhiên và đời sống
của con người rất cụ thể, được các thành viên trong
cộng đồng tiếp nhận và lưu giữ dễ dàng.
Mặc dù luật tục Ê Đê mới chỉ đề cập đến những quan
hệ xã hội trong phạm vi hẹp của một cộng đồng
người mà phương thức sản xuất chưa phát triển,
nhưng nó đã khẳng định sự tồn tại của một cộng đồng
người có tổ chức, có kỷ cương mà những khuôn mẫu
ấy đã vượt lên trên những tập quán thông thường.
Nghiên cứu văn hóa pháp lý của luật tục nói chung và
luật tục Ê Đê nói riêng phần nào giúp chúng ta tìm
được cơ chế thích hợp cho việc áp dụng pháp luật
thực định vào đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số,
đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN trong điều kiện
nước ta hiện nay, khi các vùng dân cư vẫn còn sự
khác biệt về kinh tế và văn hóa.

×