Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Cần sớm xây dựng khung pháp lý về hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm trên THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.82 KB, 15 trang )

Cần sớm xây dựng khung pháp lý về hoạt động
của tổ chức định mức tín nhiệm trên
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
LÊ VŨ NAM
Tiến sĩ, Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. HCM
Ở các nước phát triển định mức tín nhiệm đối các
chứng khoan nợ là một hoạt động không thể thiếu
được trên thị trường tài chính nói chung và thị trường
chứng khoán nói riêng. Thực tế cho thấy, các nhà đầu
tư đặc biệt là các nhà đầu tư là tổ chức khi quyết định
lựa chọn một chứng khoán nợ để đầu tư thường tìm
hiểu những thông tin cần thiết liên quan đến đối
tượng đầu tư nhằm xác định mức rủi ro có thể xảy ra
đối với hoạt động đầu tư của mình. Chính vì vậy, nhu
cầu xếp hạng tín nhiệm đối với các chứng khoán nợ
đã trở nên bức thiết và có ý nghĩa lớn đối với nhà đầu
tư, tổ chức phát hành và thị trường. Bởi lẽ, định mức
tín nhiệm là việc định lượng các rủi ro về tài chính
của các đợt phát hành chứng khoán nợ hoặc bản thân
các tổ chức phát hành chúng, trên cơ sở đó đưa ra
nhận định về mức độ rủi ro tín dụng của các đợt phát
hành cũng như khả năng hoàn vốn và thanh toán lãi
suất của các tổ chức phát hành. Như vậy, có thể thấy
rằng hoạt động xếp hạng, định mức tín nhiệm góp
phần rất lớn trong việc tạo ra một môi trường đầu tư
minh bạch, công khai và lành mạnh, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư khi tham gia đầu tư
vào các chứng khoán nợ – một lượng hàng hóa đáng
kể của thị trường chứng khoán.
Hiện nay, trên thị trường giao dịch tập trung ở Việt
Nam các chứng khoán nợ được niêm yết giao dịch


còn rất ít, chưa đa dạng chỉ gồm một số trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam phát hành đợt I và II năm 2000. Tuy
nhiên, việc giao dịch của các loại hàng hoá này chỉ
diễn ra lẻ tẻ do lãi suất chưa hấp dẫn. Chủ trương đa
dạng hóa các hình thức huy động vốn của Đảng và
Nhà nước ta chắc chắn sẽ là động lực để các loại
chứng khoán nợ phát triển. Từ đó nảy sinh nhu cầu
hình thành những tổ chức chuyên xếp hạng các công
cụ nợ này cũng như bản thân công ty phát hành
chúng. Do đó, vấn đề xây dựng một môi trường pháp
lý thông thoáng cho việc hình thành và hoạt động của
tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay là hết sức cấp bách. Một mặt nhằm tới
mục tiêu thúc đẩy thị trường trái phiếu và thị trường
tiền tệ phát triển, mặt khác là để bổ sung một chủ thể
không thể thiếu được của thị trường chứng khoán
Việt Nam.
Việc sớm ban hành những văn bản điều chỉnh hoạt
động của tổ chức định mức tín nhiệm còn xuất phát
từ nhiệm vụ, vai trò và chức năng quan trọng của tổ
chức này đối với thị trường tiền tệ nói chung và thị
trường chứng khoán nói riêng:
Thứ nhất, việc xếp hạng tín nhiệm cung cấp những
thông tin liên quan đến tổ chức phát hành. Dựa vào
thông tin đó nhà đầu tư đánh giá mức độ rủi ro và lợi
nhuận yêu cầu để đưa ra quyết định đầu tư hợp lý;
Thứ hai, việc xác định hệ số tín nhiệm giúp tổ chức
phát hành thuận lợi hơn trong vấn đề huy động vốn
với chi phí thấp. Thông qua những chỉ số đánh giá

của tổ chức xếp hạng tín nhiệm đưa ra, nhà đầu tư sẽ
có điều kiện tiếp cận với những thông tin về tổ chức
phát hành. Đặc biệt, khi những tổ chức phát hành
được đánh giá là có uy tín có thể phát hành trái phiếu
với lãi suất thấp hơn mà vẫn thu hút được nhà đầu tư.
Nói một cách khác, hoạt động của tổ chức định mức
tín nhiệm sẽ góp phần làm tăng thêm lòng tin của nhà
đầu tư và uy tín của tổ chức phát hành, điều mà thị
trường chứng khoán Việt Nam rất cần trong giai đoạn
hiện nay;
Thứ ba, việc xác định hệ số tín nhiệm thúc đẩy tổ
chức phát hành có trách nhiệm hơn đối với nhà đầu
tư. Đánh giá mức tín nhiệm luôn là công việc liên
quan chặt chẽ với uy tín của tổ chức phát hành, điều
đó thúc đẩy người phát hành thực hiện tốt hơn các
cam kết thanh toán tiền lãi và gốc cho nhà đầu tư.
Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho sự
hình thành và hoạt động hiệu quả của tổ chức định
mức tín nhiệm với tư cách là một chủ thể độc lập trên
thị trường chứng khoán Việt Nam, trước tiên phải
mang tính chất tiền đề, là những cơ sở pháp lý cơ bản
nhất để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong
lĩnh vực định mức tín nhiệm, đồng thời định ra hướng
đi đúng cho các hành vi xử sự của cá nhân, tổ chức
liên quan trong khuôn khổ mà pháp luật quy định.
Mặt khác, phải có sự dung hòa tính chất hấp dẫn về
mặt kinh tế và tính an toàn pháp lý của hoạt động
này. Có như vậy thì sự điều chỉnh của pháp luật mới
có hiệu quả và thúc đẩy hoạt động định mức tín
nhiệm nói riêng và hoạt động của thị trường chứng

khoán nói chung phát triển. Chiến lược xây dựng này
vừa đáp ứng yêu cầu từng giai đoạn phát triển của thị
trường, vừa phải thích hợp với sự phát triển lâu dài
của hoạt động định mức tín nhiệm. Từ quan điểm
này, chúng tôi đề nghị những nội dung cụ thể cần
thực hiện khi triển khai xây dựng khung pháp lý cho
hoạt động này như sau:
1. Ban hành Luật chứng khoán Việt Nam:
Thực tế cho thấy, những nước có thị trường chứng
khoán phát triển trên thế giới là những nước có hệ
thống pháp luật khá hoàn chỉnh. Các quan hệ phát
sinh từ hoạt động chứng khoán và thị trường chứng
khoán của các nước này đều được điều chỉnh bởi các
luật liên quan. Đối với Việt Nam, do tính chất đặc thù
của nền kinh tế và những điều kiện khác mà Đảng và
Nhà nước ta chủ trương xây dựng thị trường chứng
khoán trong giai đoạn đầu với quy mô hạn chế nhằm
mục đích thử nghiệm sự vận hành của thể chế tài
chính bậc cao này trong điều kiện thực tế của Việt
Nam. Với quy mô và mục đích nêu trên, văn bản
pháp quy có hiệu lực pháp lý cao nhất chi phối trực
tiếp các hoạt động trên thị trường chứng khoán ở
nước ta trong giai đoạn hiện thời chỉ dừng lại ở mức
Nghị định. Hiện nay, khung pháp lý điều chỉnh các
hoạt động tại đây bao gồm Nghị định 48 của Chính
phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán, một
số các văn bản mang tính chất hướng dẫn khác trong
các lĩnh vực thanh tra, giám sát, phát hành, giao dịch
chứng khoán, công bố thông tin, niêm yết, và xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và

thị trường chứng khoán Tuy nhiên, để thị trường
nhanh chóng ổn định và phát triển, đáp ứng được các
yêu cầu của nền kinh tế, thì việc sớm tiến hành xây
dựng và ban hành Luật chứng khoán là một điều tối
cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Quốc
hội Khóa X của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã đưa Luật Chứng khoán vào chương trình xây
dựng luật của Quốc hội và Ủy ban chứng khoán nhà
nước là cơ quan được giao làm đầu mối để tiến hành
xây dựng văn bản luật quan trọng này. Những quy
định trong Luật Chứng khoán nên thể hiện sự khái
quát, bao trùm về hoạt động chứng khoán và thị
trường chứng khoán, còn những quan hệ cụ thể phát
sinh sẽ được điều chỉnh trực tiếp bởi các văn bản
hướng dẫn dưới luật. Như vậy có thể thấy rằng, Luật
Chứng khoán sẽ đặt nền tảng pháp lý cơ bản cho các
hoạt động trên thị trường chứng khoán, trong đó có
hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm. Chúng tôi
đề nghị, trong Luật này cần có một chương (hoặc
phần) quy định về những vấn đề chung nhất trong
hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm như: khái
niệm, địa vị pháp lý, nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của tổ chức định mức tín nhiệm
2. Ban hành Nghị định của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm:
Bên cạnh việc quy định những điều khoản chung nhất
cho hoạt động định mức tín nhiệm trong Luật Chứng
khoán, Chính phủ cần ban hành Nghị định để điều
chỉnh chi tiết các quan hệ pháp luật phát sinh trong
lĩnh vực này. Cùng với quá trình phát triển của thị

trường chứng khoán, không loại trừ khả năng sẽ ban
hành Luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức định
mức tín nhiệm trên cơ sở tổng hợp, đúc kết những
kinh nghiệm từ thực tế thi hành Nghị định này và nhu
cầu phát triển của thị trường chứng khoán… Mặc dù
hoạt động định mức tín nhiệm của nhiều nước trên
thế giới như Mỹ, Thái Lan, Malaysia, Nhật Bản đều
được chi phối bởi các luật liên quan, nhưng trong
điều kiện của Việt Nam hiện nay, thì các quan hệ này
nên được điều chỉnh bằng Nghị định là hợp lý. Quan
điểm này xuất phát từ lý do chủ yếu là, quan hệ định
mức tín nhiệm là một hoạt động hoàn toàn mới đối
với nước ta, các nhà làm luật khó có thể dự liệu hết
những quan hệ phát sinh cũng như tính chất phức tạp
của nó. Vì vậy, nếu ban hành luật thì việc sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với thực tế trong quá trình thực thi
sẽ khó khăn hơn do những thủ tục lập pháp phức tạp
hơn. Trong khi đó, Nghị định do Chính phủ ban hành
vừa đảm bảo hiệu lực pháp lý đủ mạnh để điều chỉnh
các hoạt động liên quan đến định mức tín nhiệm, vừa
có thể được sửa đổi, bổ sung một cách kịp thời do thủ
tục lập pháp đơn giản hơn nhiều so với luật. Theo
chúng tôi, trong Nghị định tương lai về tổ chức và
hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm cần có
những quy định cụ thể đối với các vấn đề sau:
· Loại hình tổ chức và hoạt động của tổ chức định
mức tín nhiệm;
· Điều kiện, trình tự thành lập và thủ tục cấp phép
hoạt động đối với tổ chức định mức tín nhiệm;
· Điều kiện, trình tự, thủ tục cấp và các vấn đề liên

quan đến giấy phép hành nghề đối với nhân viên
nghiệp vụ của tổ chức định mức tín nhiệm;
· Cơ cấu sở hữu của tổ chức định mức tín nhiệm;
· Nguyên tắc hoạt động của tổ chức định mức tín
nhiệm;
· Phạm vi hoạt động và đối tượng xếp hạng của tổ
chức định mức tín nhiệm;
· Quyền và nghĩa vụ của tổ chức định mức tín nhiệm;
· Vấn đề công bố thông tin của tổ chức định mức tín
nhiệm;
· Chế độ tài chính, kế toán của tổ chức định mức tín
nhiệm;
· Việc thanh tra, giám sát các hoạt động của tổ chức
định mức tín nhiệm;
Ngoài ra, trong Nghị định nói trên cần phải dành một
chương (hoặc phần) để pháp điển hoá các khái niệm,
các quy định về hoạt động định mức tín nhiệm. Cần
chú ý rằng đây là lĩnh vực mới đối với các doanh
nghiệp và công chúng Việt Nam, cho nên đòi hỏi việc
giải thích các thuật ngữ, khái niệm phải ngắn gọn, dễ
hiểu và đầy đủ phù hợp với tư duy và trình độ hiểu
biết của quảng đại công chúng, tránh cầu kỳ, rườm rà,
khó hiểu. Việc ban hành kịp thời những văn bản
hướng dẫn thực hiện Nghị định như Quy chế, Thông
tư…cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Có thể xem
đây là những điều kiện cơ bản để các quy định của
Nghị định đi vào cuộc sống.
3. Đồng bộ hóa các quy định pháp luật liên quan đến
hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm:
Để tạo ra một khung pháp lý hoàn chỉnh cho việc

hình thành và hoạt động hiệu quả của tổ chức định
mức tín nhiệm tại Việt Nam không thể chỉ giới hạn
trong khuôn khổ xây dựng những văn bản pháp quy
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trực tiếp trong lĩnh
vực này, mà phải có sự đồng bộ hoá các quy định
pháp luật liên quan đến chúng. Trước hết, đó là pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán nói
chung. Chúng ta thấy rằng, hoạt động của tổ chức
định mức tín nhiệm có quan hệ chặt chẽ với lợi ích
của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư cũng như
toàn bộ thị trường chứng khoán. Từ đó, cần dự liệu
khả năng phát sinh các quan hệ và xung đột lợi ích để
chỉnh sửa kịp thời những quy định về công bố thông
tin, giao dịch nội gián, xử phạt vi phạm hành chính,
thanh tra, giám sát Đối với pháp luật về tài chính,
tiền tệ cần có những quy định để khuyến khích tạo ra
nhiều loại giấy tờ có giá có thể trao đổi mua, bán trên
thị trường, hình thành các quy định chuyên biệt về kế
toán, kiểm toán áp dụng cho tổ chức định mức tín
nhiệm, các quy định về thuế, đặc biệt là các quy định
ưu đãi về thuế đối với hoạt động của doanh nghiệp
được xếp hạng hoặc có chứng khoán được xếp hạng
nói chung và đối với tổ chức định mức tín nhiệm nói
riêng. Đối với pháp luật dân sự và kinh tế có thể xem
xét bổ sung thêm trong các loại hình hợp đồng kinh
tế, dân sự đang tồn tại những quy định về hợp đồng
định mức tín nhiệm. Theo đó, quy định rõ chế độ
kinh tế, quyền và nghĩa vụ các bên, trách nhiệm khi
một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ phát sinh. Song song đó, Pháp

lệnh hiện hành về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
cần bổ sung những quy định thừa nhận các tranh chấp
phát sinh từ hoạt động định mức tín nhiệm là các
tranh chấp về kinh tế và thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa kinh tế hoặc Trọng tài kinh tế.
Như vậy, qua trình bày trên, khung pháp lý cho sự
hình thành và hoạt động của tổ chức định mức tín
nhiệm tại Việt Nam sẽ bao gồm việc ban hành Luật
về Chứng khoán, Nghị định của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm
kết hợp đồng thời với việc đồng bộ hoá các quy định
pháp luật có liên quan đến hoạt động này. Hướng xây
dựng như vậy, một mặt đáp ứng được những nhu cầu
thực tế của việc hình thành một khung pháp lý hoạt
động định mưc tín nhiệm, đảm bảo được tính đồng bộ
với các ngành luật có liên quan, mặt khác vẫn tuân
thủ đúng các nguyên tắc lập pháp để tạo điều kiện
thực thi có hiệu quả.

×