Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường có điều tiết-
nền kinh tế thị trưuờng có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có
nghĩa là, nền kinh tế nước ta chịu sự điều tiết của thị trường và chịu sự điều tiết của nhà nước (sự quản
lý của Nhà nước). Sự quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam là sự cần thiết khách quan, vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, phải khắc phục những hạn chế của việc điều tiết của thị trường, bảo đảm thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội đã đề ra.
Sự điều tiết của thị trường đối với sự phát triển kinh tế thật kỳ diệu nhưng vẫn có những hạn chế cục bộ.
Ví dụ như về mặt phát triển hài hoà của xã hội, thì bộc lộ tính hạn chế sự điều tiết của thị trường.
Thị trường không phải là nơi có thể đạt được sự hài hoà trong việc phân phối thu nhập xã hội, trong việc
nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội, trong việc phát triển kinh tế xã hội giữa các vùng… Cùng với việc
đó, thị trường cũng không khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, những mặt trái của nền
kinh tế thị trường đã nêu ở trên. Tất cả điều đó không phù hợp và cản trờ việc thực hiện đầy đủ những
mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đã đề ra. Cho nên trong quá trình vận hành kinh tế, sự quản lý nhà
nước đối với kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết để khắc phục những hạn
chế, bổ sung chỗ hổng của sự điều tiết của trhị trường, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Đó
cũng là thực hiện nhiệm vụ hàng đầu của quàn lý nhà nước về kinh tế.
Thứ hai: Bằng quyền lực, chính sách và sức mạnh kinh tế của mình. Nhà nước phải giải quyết những
mâu thuẫn lợi ích kinh tế phố biến, thường xuyên và cơ bản trong nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình hoạt động kinh tế, con người có mối quan hệ với nhau. Lợi ích kinh tế là biểu hiện cụ thể
của mối quan hệ đó. Mọi thứ mà con người phấn đấu đền liên quan đến lợi ích của mình. Trong nền kinh
tế thị trường, mọi đối tác đều hướng tới lợi ích kinh tế riêng của mình. Nhưng, khối lượng kinh tế thì có
hạn và không thể chia đều cho mọi người, nếu xẩy ra sự tranh giành về lợi ích và từ đó phát sinh ra
những mâu thuẫn về lợi ích. Trong nền kinh tế thị trường có những loại mâu thuẫn cơ bản sau đây:
- Mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp với nhau trên thương trường.
- Mâu thuẫn giữa chủ và thợ trong các doanh nghiệp
- Mâu thuẫn giữa người sản xuất kinh doanh với toàn thể cộng đồng trong việc sử dụng tài nguyên và
môi trường, không tính đến lợi ích chung trong việc họ cung ứng những hàng hoá và dịch vụ kém chất
lượng, đe doạ sức khoẻ cộng đồng: trong việc xâm hại trật tự, an toàn xã hội, đe doạ an ninh quốc gia vì
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Ngoài ra, còn nhiều mâu thuẫn khác nữa như mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa cá nhân; công dân với
Nhà nước, giữa các địa phương với nhau, giữa các ngành, các cấp với nhau trong quá trình hoạt động
kinh tế của đất nước.
- Những mâu thuẫn này có tính phổ biến, thường xuyên và có tính căn bản vì liên quan đến quyền lợi “về
sống-chết của con người”. đến sự ổn định kinh tế-xã hội. Chỉ có nhà nước mới có thể giải quyết được
các mâu thuãn đó, điều hoà lợi ích của các bên.
Thứ ba, tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tế
Để thực hiện bất kỳ một hoạt động nào cũng phải giải đáp các câu hỏi: Có muốn làm không? Có biết làm
không? Có phương tiện để thực hiện không? Có hoàn cảnh để làm không? Nghĩa là, cần có những điều
kiện chủ quan và khách quan tương ứng. Nói cụ thể và để hiểu, làm kinh tế nhất là làm giầu phải có ít
nhất các điều kiên: ý chí làm giàu, trí thức làm giàu, phương tiện sản xuất kinh doanh và môi trường kinh
doanh. Không phải công dân nào cũng có đủ các điều kiện trên để tiến hành làm kinh tế, làm giàu. Sự
can thiệp của nhà nước rất cần thiết trong việc hỗ trợ công dân có những điều kiệncần thiết thực hiện sự
nghiệp kinh tế.
Thứ tư, tính giai cấp trong kinh tế và bản chất giai cấp của nhà nước
Nhà nước hình thành từ khi xã hội có giai cấp. Nhà nước bao giừ cũng đại diện lợi ích của giai cấp thống
trị nhất định trong đó có lợi ích kinh tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đại diện cho lợi ích dân tộc
và nhân dân, Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội
do Nhà nước ta xác định và quản lý chỉ đạo là nhằm cuối cùng đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho
nhân dân. Tuy vây, trong nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với nước ngoài, không phải lúc nào lợi
ích kinh tế của các bên cũng luôn luôn nhất trí. Vì vậy, xuất hiện xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh
trong quá trình hoạt động kinh tế trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối.
Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế. Nhà nước ta phải thể hiện bản chất giai cấp của mình để bảo
vệ lợi ích của dân tộc và của nhân dân ta. Chỉ có Nhà nước mới có thể làm được điều đó. Như vậy là,
trong quá trình phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã thể hiện bản chất giai cấp của mình.
Bốn lý do chủ yếu trên đây chính là sự cần thiết khách quan của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3/ Trình bày nội dung quản lý nhà nước về tài chính – tiền tệ
Trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng, tài chính tiền tệ là điều kiện tiền đề của mọi hoạt động trong
đời sống kinh tế xã hội. Nó trực tiếp chi phối đến các hoạt động khác từ sản xuất đời sống đến quản lý
nhà nước. Để tài chính tiền tệ tác động đến các hoạt động trong đời sống kinh tế xã hội theo mục tiêu và
bản chất của chế độ, đòi hỏi nhà nước, trong thực hiện chức năng tổ chức và quản lý mọi hoạt động của
xã hội cần chủ động tác động vào tài chính cũng như sử dụng tài chính là công cụ để quản lý xã hội. Đó
là đòi hỏi khách quan của bất kỳ chế độ xã hội nào, đặc biệt là trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Vai trò
quản lý nhà nước đối với tài chính tiền tệ là một tất yếu khách quan được thể hiện qua hai khía cạnh:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của tài chính tiền tệ đối với mọi hoạt động trong đời sống kinh tế xã hội
Tài chính tiền tệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Nó tác động và chi phối mọi mặt hoạt
động trong xã hội, quan hệ tài chính tiền tệ, thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, thể hiện bản chất của Nhà
nước, của chế độ và phục vụ nhà nước. Do vây, đòi hỏi nhà nước phải trực tiếp can thiệp, chi phối các
quan hệ tài chính tiền tệ nhằm làm cho các quan hệ tài chính trong nền kinh tế: một mặt được thực hiện
theo yêu cầu của quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ và tín dụng ngân hàng… phù hợp với điều
kiện của đất nước; mặt khác phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà nước trong từng
thời kỳ. Đó là yêu cầu mang tính khách quan xuất phát từ chức năng nhiệm vụ quản lý của Nhà nước.
Thứ hai, xuất phát từ vai trò tài chính của Nhà nước
Điều này được thể hiện: Nhà nước sử dụng tài chính tiền tệ là công cụ quan trọng trong quản lý xã hội
nói chung và quản lý nền kinh tế nói riêng.
Nhà nước là người tổ chức và quản lý mọi hoạt động của xã hội, của nền kinh tế quốc dân. Một trong
những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của Nhà nước là tài chính tiền tệ. Vai trò to lớn của
Nhà nước về tài chính tiền tệ được thể hiện qua các điếm sau:
- Một là: Nhà nước định ra các luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định về tài chính, chính sách về
ngân sách, về thuế, về tín dụng, tiền tệ…. Các luật, chính sách này không những bắt buộc các doanh
nghiệp và dân cư phải tuân thủ, phải theo, mà còn tạo điều kiện, môi trường để các doanh nghiệp hoạt
động.
- Hai là: Nhà nước bỏ vốn đầu tư vào các doanh nghiệp quan trọng của mình, các khu vực công
cộng, các kết cấu hạ tầng. Những nguồn tài chính to lớn đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau, không chỉ
tạo môi trường, hành lang cho các doanh nghiệp hoạt động, mà còn tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại cho các ngành mới, khu vực mới, có tầm quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Ba là: Nhà nước cũng là nguồn cung ứng các nguồn vốn cho đất nước, Nhà nước là người quyết
định phát hành tiền tệ, kiểm soát các hoạt động tín dụng và phân phối tín dụng. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, hoạt động của các doanh nghiệp không thể thiếu nguồn vốn tín dụng, không thể không chịu tác
động của lưu thông tiền tệ, của sự cung ứng tài chính của Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước còn trợ giá, bù
lỗ, quy định giá…
- Bốn là: Nhà nước chi tiêu bằng vốn ngân sách sẽ trở thành là người mua hàng lớn nhất của đất
nước. Những khoản chi của ngân sách nhà nước tạo thành một sức mạnh bằng tiền to lớn và đòi hỏi
những hàng hoá, dịch vụ đa dạng, phức tạp tạo ra thị trường to lớn cho việc tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ
của các doanh nghiệp. Trong bất cứ hình thái xã hội nào, sức mua do chi tiêu ngân sách nhà nước tạo ra
là sức mua lớn nhất trên thị trường và đó là lực lượng tiêu thụ lớn nhất.
- Năm là: Nhà nước với tư cách là người có quyền lực, thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát tài chính
đối với các hoạt động kinh tế, xã hội, trong đó có hoạt động tài chính của các doanh nghiệp. Những việc
kinh doanh phạm pháp, bê bối về tài chính của các doanh nghiệp được nhà nước xử lý theo pháp luật,
bảo đảm cho các doanh nghiệp hoạt động theo yêu cầu của nền kinh tế và đời sống của nhân dân.
Các vấn đề tài chính trên tầm vĩ mô đó chỉ có Nhà nước mới có khả năng chi phối, tác động đến mọi hoạt
động trong đời sống kinh tế xã hội. Qua đó, Nhà nước vừa bắt buộc vừa tạo điều kiện cho các hoạt động
trong nền kinh tế phát triển.
Từ những vấn đề trên có thể khẳng định rằng, trong bất kỳ xã hội nào, đặc biệt là nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta: Nhà nước quản lý tài chính tiền tệ là tất
yếu khách quan, đồng thời cũng là đòi hỏi khách quan xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta.
4/ Trình bày nội dung quản lý nhà nước về kinh tế
Việc quản lý nhà nước (QLNN) về kinh tế bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
Những nội dung và phương pháp cụ thể của việc tổ chức bộ máy quản lý nhà nước nói chung, bộ máy
QLNN về kinh tế nói riêng, đã có các chuyên đề, môn học khác trình bày.
2. Xây dựng phương hướng, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Cụ thể
là:
- Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
- Xây dựng hệ thống chính sách, tư tưởng chiến lược để chỉ đạo việc thực hiện các mục tiêu đó.
3. Xây dựng pháp luật kinh tế
3.1. Tầm quan trọng của việc xây dựng pháp luật trong hệ thống các hoạt động QLNN về kinh tế. Hoạt
động này có tác dụng:
- Tạo cơ sở để công dân làm kinh tế.
- Pháp luật và thể chế là điều kiện tối cần thiết cho một hoạt động kinh tế- xã hội.
3.2. Các loại pháp luật kinh tế cần được xây dựng
Hệ thống pháp luật kinh tế gồm rất nhiều loại. Về tổng thể, hệ thống đó bao gồm hai loại chính sau:
- Hệ thống pháp luật theo chủ thể hoạt động kinh tế như Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã,
Luật doanh nghiệp tư nhân và công ty,v.v… Loại hình pháp luật này thực chất là Luật tổ chức các đơn vị
kinh tế, theo đó, sân chơi kinh tế được xác định trước các loại chủ thể tham gia cuộc chơi do Nhà nước
làm trọng tài.
- Hệ thống pháp luật theo khách thể như Luật Tài nguyên môi trường, được Nhà nước đặt ra cho mọi
thành viên trong xã hội, trong đó chủ yếu là các doanh nhân, có tham gia vào việc sử dụng các yếu tố
nhân tài, vật lực và tác động vào môi trường thiên nhiên.
4. Tổ chức hệ thống các doanh nghiệp
4.1. Tổ chức và không ngừng hoàn thiện tổ chức hệ thống doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với yêu
cầu của từng giai đoạn phát triển của đất nước, bao gồm;
- Đánh giá hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hiện có, xác định những mặt tốt, mặt xấu của hệ
thống hiện hành.
- Loại bỏ các mặt yếu kém bằng phương thức thích hợp: cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê, giao,vv…
- Tổ chức xây dựng mới các DNNN cần thiết.
- Củng cố các DNNN hiện còn cần tiếp tục duy trì nhưng yếu kém về mặt này, mặt khác, nâng cấp để các
DNNN này ngang tầm vị trí được giao.
4.2. Xúc tiến các hoạt động pháp lý và hỗ trợ để các đơn vị kinh tế dân doanh ra đời
- Thực hiện các mặt về pháp luật cho các hoạt động của doanh nhân trên thương trường: xét duyệt, cấp
phép đầu tư, kinh doanh,vv…
- Thực hiện các hoạt động hỗ trợ về tư pháp, thông tin, phương tiện,vv…
5. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước
- Xây dựng quy hoạch, thiết kế tổng thể, thực hiện các dự án phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng của nền
kinh tế.
- Tổ chức việc xây dựng
- Quản lý, khai thác, sử dụng
6. Kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các đơn vị kinh tế
- Kiểm tra việc tuân thủ pháp luật kinh doanh.
- Kiểm tra việc tuân thủ pháp luật lao động, tài nguyên, môi trường.
- Kiểm tra việc tuân thủ phápluật về tài chính, kế toán, thống kê, vv…
- Kiểm tra chất lượng sản phẩm.
7. Thực hiện và bảo vệ lợi ích của xã hội , của nhà nước và của công dân
7.1. Các loại lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội chịu sự ảnh hưởng của hoạt động kinh tế mà Nhà nước có
nhiệm vụ thực hiện và bảo vệ
- Phần vốn của Nhà nước trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Các khoản được thu của Nhà nước vào ngân sách nhà nước từ các hoạt động kinh tế của công dân.
7.2. Nội dung bảo vệ bao gồm
- Tổ chức bảo vệ công sản.
- Thực hiện việc thu thuế, phí, các khỏan lợi ích khác.
Trình bày nội dung quản lý nhà nước về tài chính – tiền tệ
I. Quản lý và điều hành ngân sách nhà nước
- NSNN là nguồn tài chính tập trung quan trọng nhất trong hệ thống tài chính quốc gia.
NSNN là tiềm lực tài chính, là sức mạnh về mặt tài chính của nhà nước. Quản lý và
điều hành NSNN có tác dụng chi phối trực tiếp đến các hoạt động tài chính khác trong
nền kinh tế quốc dân.
- NSNN được quản lý và điều hành theo Luật NSNN được Quốc hội nước CHXHCNVN
thông qua ngày 30/3/1996. Theo đó, những nội dung chủ yếu về quản lý và điều hành
ngân sách nhà nước bao gồm:
1/ NSNN được quản lý và điều hành theo chế độ kế hoạch hoá thống nhất từ trung
ương đến cơ sở. Mọi sự thu chi của NSNN đều được thể hiện qua kế hoạch thống nhất
từ trung ương đến cơ sở. Kế hoạch ngân sách do Quốc hội thông qua hàng năm.
2/ Thực hiện phân cấp quản lý NSNN phù hợp với sự phân cấp hành chính: cấp trung
ương; cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương); cấp huyện (quận); cấp xã (phường).
Tuy nhiên, việc phân công, phân cấp quản lý NSNN là phân công phân cấp thực hiện
nhiệm vụ kế hoạch thu chi NS cho các cấp trên cơ sở chế độ thống nhất, kế hoạch
thống nhất. Cần thấy rõ phân công phân cấp, không phải là phân chia NS
3/ Quản lý thuế, nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
- Một là: Tiếp tục cải cách và hoàn thiện các sắc luật về thuế theo các tiêu chuẩn cơ
bản và hướng chính sau:
+ Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu
+ Xác định và lựa chọn đúng mục tiêu của thuế: Mục tiêu của thuế chủ yếu chủ yếu là
kích thích, điều tiết kinh tế và tăng thu cho ngân sách nhà nước; không nên đặt ra cho
thuế phải thực hiện một lúc nhiều mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội.
+ Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các tầng lớp
dân cư
+ Đơn giản hoá chính sách thuế: đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục; dễ hiểu, dễ
thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận.
+ Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều tiết thu
nhập của các doanh nghiệp và cá nhân một cách hợp lý, tạo sự công bằng xã hội.
+ Chính sách thuế phải đảm bảo ổn định trong một thời gian dài, tạo khả năng có thể
dự đoán được; tránh tình trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ.
+ Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng có thể kiểm soát được; kiểm soát
của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thuế.
+ Thu hẹp phạm vi miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản của chính sách
kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
+ Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Áp dụng nghiêm minh
hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thuế không có hiệu quả do chi phí
để thu thuế lớn hơn cả số tiền thuế thu được.
- Hai là: Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ chức và dân cư
về các luật thuế và các văn bản dưới luật để họ hiểu rõ, nhận thấy trách nhiệm, nghĩa
vụ của người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt. Tạo điều kiện cho nhân dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra về thuế
- Ba là: Tổ chức chỉ đạo công tác kê khai, đăng ký, xét duyệt đăng ký KD làm cơ sở,
căn cứ pháp lý để thu thuế
- Bốn là: Lập sổ thuế cho từng DN và hộ sản xuất KD tại xã phường, thị trấn. Sổ thuế
được lập và sử dụng trong nhiều năm; hàng năm nếu có thay đổi về chính sách thuế,
căn cứ tính thuế, thì các doanh nghiệp và hộ sản xuất, kinh doanh phải kê khai để điều
chỉnh lại.
- Năm là: Chỉ đạo tổ chức thu thuế và nộp thuế
Chính phủ tổ chức thực hiện các luật thuế. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan đến
các luật thuế, phối hợp với Bộ tài chính ra các văn bản hướng dẫn thi hành hoặc trình
Chính phủ ban hành các văn bản để chỉ đạo thi hành các luật thuế. Chủ tịch UBND cấp
tỉnh tổ chức chỉ đạo công tác thu thuế ở địa phương. Chủ tịch UBND cấp huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ chỉ đạo công tác thu thuế ở địa phương, duyệt sổ
thuế các xã phường, đề nghị cấp trên những vấn đề cần thiết. Chủ tịch UBND cấp xã,
phường, thị trấn có trách nhiệm trực tiếp tổ chức công tác thu thuế ở xã, phường, thị
trấn.
Hệ thống cơ quan thuế là cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát,
tính thuế, thông báo thuế, thu thuế và thực hiện các xử phạt vi phạm luật thuế của
những tổ chức và cá nhân nộp thuế, giúp UBND các cấp về công tác có liên quan đến
trách nhiệm của UBND trong việc thực hiện luật thuế, phối hợp với cơ quan kho bạc
nhà nước trong việc thu nộp thuế vào NSNN
- Sáu là: Tổ chức thanh tra, kiểm tra thực hiện các luật thuế
+ Hệ thống thanh tra nhà nước, thanh tra tài chính, thanh tra thuế có quyền và trách
nhiệm tổ chức công tác thanh tra về thuế.
+ Các cấp chính quyền có trách nhiệm và quyền kiểm tra việc thi hành luật thuế trên cả
hai mặt: kiểm tra những người nộp thuế thi hành nghĩa vụ nộp thuế và kiểm tra tổ chức
thu thuế và cán bộ thuế thi hành luật thuế
- Bảy là: Củng cố và tăng cường lực lượng cán bộ thuế, tổ chức đào tạo và đào
tạo lại cán bộ thuế, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ thuế để nâng cao năng lực và phẩm chất
của đội ngũ này.
4/ Thực hiện quản lý tốt các nguồn chi chủ yếu của NSNN
- Một là: đối với các nguồn chi thường xuyên thực hiện chi hợp lý và hiệu quả trên cơ
sở tiết kiệm chống lãng phí. Chi thường xuyên được thực hiện theo chế độ thống nhất
của nhà nước, trên cơ sở kế hoạch ngân sách nhà nước hàng năm
- Hai là: đối với các khoản chi đầu tư phát triển được thực hiện theo hướng:
+ Dành tỉ lệ thoả đáng cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội.
+ Tập trung vốn cho các công trình trọng điểm, tránh dàn trải
+ Bảo đảm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
+ Nâng cao hiệu quả kinh tế quốc doanh
- Ba là: thực hiện kiểm tra, kiểm soát thường xuyên đối với chi ngân sách. Trong đó
thực hiện chế độ thanh tra, kiểm tra tài chính định kỳ, chế độ kiểm toán thường xuyên
nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hiện tượng tham nhũng, làm trái với quy định
của Nhà nước. Đồng thời qua đó chấn chỉnh chế độ chi ngân sách của Nhà nước cho
phù hợp với tiến trình đổi mới của đất nước và công cuộc cải cách nền hành chính
quốc gia.
Nội dung quản lý NN đối với tài chính DN
- Một là, Nhà nước chủ chương khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thanh phần kinh tế huy
động mọi nguồn lực tài chính đầu tư vào phát triển kinh tế đất nước.
- Hai là, Nhà nước thực hiện quyền quản lý tài nguyên, tài sản công và giao cho các doanh nghiệp
sử dụng trên nguyên tắc phải trả tiền, phải hoàn trả trong thời gian quy định, hoặc nộp tiền sử dụng vốn,
thuế sử dụng tài nguyên…
- Ba là, Nhà nước quản lý tài chính, bằng nguồn vốn đầu tư vào các ngành kinh tế quan trọng, mũi
nhọn, bằng đầu tư phát triển cơ sở hạ tâng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
- Bốn là, Nhà nước tạo môi trường tài chính thuận lợi, thực hiện các chính sách tài chính cởi mở để
khuyến khích các DN phát triển, có doanh lợi thoả đáng và bảo vệ lợi ích chính đáng của DN.
- Năm là, Nhà nước có chính sách hỗ trợ tài chính trong việc khuyến khích SX hàng hoá xuất khẩu,
đổi mới công nghệ, kỹ thuật, sử dụng nhiều lao động, có chính sách hài hoà và tỷ giá phù hợp, chính
sách tín dụnh thông thoáng để tạo điều kiện cho DN có điều kiện hoạt động hiệu quả.
- Sáu là, Nhà nước quản lý giá cả hành hoá, nhằn ổn định thị trường, giá cả.
- Bảy là, Nhà nước buộc các doanh nghiệp phải chấp hành chế độ kế toán, báo cáo tài chính của
Nhà nước.
- Tám là, Nhà nước thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán đối với các doanh nghiệp.
- Chín là, Nhà nước quyết định công bố phá sản doanh nghiệp, thực hiện thanh lý tài sản theo luật
phá sản của Nhà nước.