Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Nghiên cứu thử nghiệm một số loại thảo dược có tác dụng kháng khuẩn trên một số loài vi khuẩn phân lập được từ tôm sú giống (Penaeus monodon) nuôi ở Phú Hải - Phú Vang - Thừa Thiên Huế”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 55 trang )

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành nuôi trồng thủy sản trong những năm gần đây đã có những bước phát
triển mạnh mẽ và đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia, hàng năm đóng
góp một phần rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Theo số liệu đã công bố của
Cục Thống kê, GDP của ngành Thủy sản giai đoạn 1995-2003 tăng từ 6.664 tỷ đồng lên
24.125 tỷ đồng. Đến năm 2003, đã đưa vào sử dụng 612.778 ha diện tích nước lợ, mặn
và 254.835 ha nước ngọt để nuôi trồng thủy sản. Trong đó, đối tượng nuôi chủ lực là
tôm với diện tích 580.465 ha. Nuôi trồng thủy sản đang góp phần nâng cao thu nhập cho
người dân, giúp cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo... đồng thời cũng đã giải quyết
việc làm cho không ít người lao động.[6], [26]
Thừa Thiên Huế là một tỉnh duyên hải miền Trung có nghề nuôi trồng thủy sản
phát triển từ rất lâu đời. Trong đó, Phú Vang là huyện có nhiều lợi thế về nuôi trồng
thủy sản, huyện có 19 xã và 1 thị trấn, trong đó có 13 xã, 1 thị trấn ven biển, đầm phá
với diện tích 20.635 ha, chiếm 73,6% diện tích đất tự nhiên. Huyện có trên 35 km chiều
dài bờ biển, có cửa biển Thuận An và nhiều đầm phá như Đầm Sam, Đầm Chuồn, Đầm
Thanh Lam, Đầm Hà Trung, Đầm Thủy Tú nằm trong hệ thống phá Tam Giang - Cầu
Hai với diện tích trên 6.800 ha mặt nước. Đây là tiềm năng lớn để phát triển đánh bắt và
nuôi trồng, là lợi thế để phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn. Tổng diện tích nuôi trồng
năm 2009 của huyện là 2.125,7 ha; tổng sản lượng 2.843,4 tấn; tổng giá trị đạt hơn 155
tỷ đồng.(IMOLA, 2006)
Chính sự phát triển mạnh mẽ này đã cho ra đời hàng loạt các trang trại nuôi
chuyên canh, thâm canh... và sự chuyển đổi phương thức nuôi từ quảng canh, quảng
canh cải tiến sang bán thâm canh, thâm canh làm cho nhu cầu về tôm giống rất cao và
cấp thiết, đặc biệt là tôm sú giống.
Mặc dù đã sinh sản nhân tạo thành công loài này từ lâu với số lượng hàng năm
rất lớn.[10], [11], [12] Song tôm sú giống thường bị rất nhiều bệnh do vi khuẩn, nấm
hay kí sinh trùng gây nên.[7], [14] Để phòng và trị bệnh cho tôm giống người ta sử dụng
kháng sinh hay hóa chất. Tuy nhiên do việc sử dụng không đúng cách và quá liều các
loại thuốc kháng sinh đã gây nên hiện tượng kháng thuốc làm cho việc chữa trị không
có hiệu quả hoặc rất thấp. Vì vậy xu hướng mới hiện nay của thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng là sử dụng những chế phẩm sinh học, thảo dược có nguồn gốc từ thiên


- 1 -
nhiên có tác dụng trị được bệnh cho vật nuôi đồng thời đảm bảo an toàn thực phẩm lẫn
môi trường.[18], [19], [25], [29], [33]
Trên cơ sở đó, được sự đồng ý của Khoa Thủy sản, Bộ Môn Ngư Y cùng Giáo
viên hướng dẫn, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu thử nghiệm một số loại thảo
dược có tác dụng kháng khuẩn trên một số loài vi khuẩn phân lập được từ tôm sú
giống (Penaeus monodon) nuôi ở Phú Hải - Phú Vang - Thừa Thiên Huế”
Đề tài thực hiện nhằm mục tiêu:
- Phân lập, định danh một số chủng vi khuẩn gây bệnh trên tôm sú giống
(Penaeus monodon).
- Thử nghiệm một số thảo dược có khả năng phòng trị bệnh vi khuẩn trên tôm sú
giống (Penaeus monodon).
- Làm quen với công tác nghiên cứu khoa học.
- 2 -
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Giới thiệu chung về đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Tôm sú (Penaeus monodon)
2.1.1.1. Hệ thống phân loại
Phân loại theo hệ thống phân loại của
Holthuis, LB 1980.
Ngành: Anthropoda
Lớp giáp xác: Crustacea
Bộ mười chân: Decapoda
Bộ phụ bơi lội: Natantia
Phân bộ tôm he: Penaeidea
Tổng bộ tôm he: Penaeoidea
Họ tôm he: Penaeidae
Giống tôm he: Penaeus
Loài tôm sú: Penaeus monodon
Tên tiếng Anh: Giant Tiger Shrimp

Black Tiger Shrimp
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo
Chuỷ: nằm ngang, phần cuối hơi dày và hơi cong lên, dài đến cuối cuống râu I.
Mép trên có 7- 8 răng, mép dưới có 2- 3 răng, phần sau gờ chuỷ có rãnh giữa.[1]
Vỏ đầu ngực: gờ sau chuỷ hầu như kéo dài đến mép sau vỏ đầu chuỷ, gờ bên
chuỷ thấp, kéo dài đến phía dưới gai trên dạ dày. Gờ gan rõ thẳng.[1]
Phần bụng: từ giữa đốt bụng thứ IV đến cuối đốt VI có gờ lưng. Đốt đuôi dài
hơn đốt VI, không có gai bên.[1]
Các chi: gai cuống râu I kéo dài đến giữa đốt thứ I, nhánh phụ trong đến
hoặcvượt quá đốt I cuống râu I. Sợi ngọn râu I ngắn, sợi ngọn dưới bằng khoảng 2/3 vỏ
đầu ngực, sợi cong trên ngắn hơn sợi cong dưới.[1]
Thelycum: nằm ở giữa đôi chân bò IV, vôi hoá, viền quanh có nhiều lông cứng.
Túi nhận tinh dạng đĩa, chiều rộng lớn hơn chiều dài, mép rãnh giữa dày hình thành
môi.[1]
- 3 -
Hình 2.1: Tôm sú
Penaeus monodon
Petasma: u đỉnh phiến lưng giữa nhỏ, phiến bên tương đối rộng và vượt quá
đỉnh phiến giữa, đỉnh tròn có gai nhỏ.[1]
Màu sắc: thân có màu nâu nhạt, các vân ngang màu vàng, chân bơi màu cam
nhạt, viền lông màu hồng.[1]
Kích thước: là loài có kích thước và khối lượng lớn nhất trong họ tôm he, con
lớn nhất đạt kích thước 320 mm, nặng 380g.[1]
2.1.1.3. Phân bố
Theo địa lí:
- Trên thế giới: Trung Quốc, Thái Lan, Úc, Ấn Độ…..
- Ở Việt Nam: có mặt hầu hết các vùng biển, nhưng nhiều nhất là ở ven biển
miền Trung.[1]
Theo môi trường sống:
- Tôm sú thích hợp với môi trường sống với các yếu tố :

+ Nhiệt độ: 20 – 30
o
C.
+ Độ mặn: tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển, ở giai đoạn trưởng thành độ
mặn 15 – 25%

là tốt nhất.
+ DO: 4 – 7mg/l.
+ pH: 7.5 – 8.5.
2.1.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng qua các giai đoạn
Trong tự nhiên nhu cầu dinh dưỡng của tôm sú thay đổi qua từng giai đoạn phát
triển. Cụ thể:
Giai đoạn ấu trùng
Giai đoạn Nauplius: Ở nhiệt độ 28 -30
o
C trứng sẽ nở sau 12 -14h. Ở giai đoạn
này Nau chủ yếu tự dưỡng bằng noãn hoàng.[1], [29]
Giai đoạn Zoea: Bắt đầu lấy thức ăn từ bên ngoài, thức ăn chủ yếu ở giai đoạn
này là các loài tảo, bao gồm: tảo khuê (Skeletonema costatum, Chaetoceros sp), tảo lục
(Chlorella), tảo lam (Spirulina), ngoài ra còn có ấu trùng của các loài động vật thân
mềm.[1], [29]
Giai đoạn Mysis: Thức ăn chủ yếu là Nauplius của Artemia, trùng bánh xe, luân
trùng, và một số loài tảo (tảo khuê, tảo lục).[1], [29]
- 4 -
Giai đoạn Postlarvae: Thức ăn chủ yếu là các loài động vật phù du như: artemia, ấu
trùng hai mảnh vở, nauplius của Copepoda.[1], [29]
Cuối giai đoạn này chúng chuyển dần sang ăn thức ăn của loài (mùn bã hữu cơ có
chứa xác động vật, động vật phù du cỡ nhỏ).[1], [29]
Giai đoạn tôm trưởng thành: Ở giai đoạn này tôm chuyển sang sống đáy và ăn các
loại mùn bã hữu cơ, tảo, động vật phù du, giun nhiều tơ, giáp xác…[1], [29]

2.1.1.5. Đặc điểm sinh trưởng
2.1.1.6.
Đặc điểm sinh sản
Bộ phận sinh dục (nằm dưới bụng)
Tôm sú thuộc loại dị hình phái tính, con cái có kích thước to hơn con đực. Khi
tôm trưởng thành, phân biệt rõ đực, cái thông qua cơ quan sinh dục phụ bên ngoài.
- Con đực: cơ quan sinh dục chính của con đực nằm ở phía trong phần đầu ngực,
bên ngoài có cơ quan giao phối phụ nằm ở nhánh ngoài đôi chân ngực thứ 2, lỗ sinh dục
đực mở ra hốc háng đôi chân ngực thứ 5. Tinh trùng thuộc dạng chứa trong túi.[1], [29]
- Con cái: Buồng trứng nằm dọc theo mặt lưng phía trên, hai ống dẫn trứng mở ra
ở khớp háng đôi chân ngực thứ 3. Bộ phận chứa túi tinh gồm 2 tấm phồng lên ở đôi
chân ngực thứ 4 và thứ 5 dưới bụng tôm.[1], [29]
2.1.2. Một số loại vi khuẩn thường gặp ở tôm sú giống
- Vi khuẩn Vibrio spp thuộc họ Vibrionaceae
- 5 -
Hình 2.2: Vòng đời của tôm sú (Penaeus monodon)
Giống Vibrio thuộc họ Vibrionaceae, thuộc
loại Gram âm. Hình que thẳng hoặc hơi uốn cong,
kích thước 0,3 - 0,5 x 1,4 - 2,6 µm.[20], 29], [30],
[31], [32], [33]
Trong vòng đời không có sự hình thành
bào tử, chuyển động nhờ tiên mao mảnh. Tất cả
đều thuộc loại yếm khí tuỳ tiện và hầu hết là oxy
hoá và lên men trong môi trường O/F Glucose.
[20], 29], [30], [31], [32], [33]
TCBS (Thiosulphate Citrat Bile Salt agar) là môi trường chọn lọc của Vibrio.
Hầu hết các loài đều phát triển trong môi trường nước biển cơ bản, ion Na
+
kích thích
cho sự phát triển của tất cả các loài Vibrio và đối với nhiều loài là nhu cầu tuyệt đối,

chúng sẽ không phát triển nếu như trong môi trường không có muối (NaCl), không sinh
H
2
S, mẫn cảm với Vibriostat 2,4 diamino -6,7, diisopropyl pteridine phosphate.[20],
29], [30], [31], [32], [33]
Theo Lightner và cộng sự (1995), trong thành phẩn Vibrio tổng số ở ao nuôi tôm
sú thì hai chủng Vibrio harveyi và Vibrio parahaemolyticus chiếm ưu thế. Đây là hai
chủng có khả năng gây ra hiện tượng phát sáng trong nước.
Đa số Vibrio sống trong môi trường nước, đặc biệt là nước biển và cửa sông, liên
quan đến các động vật biển, một số là tác nhân gây bệnh cho người và động vật biển
như V.alginolyticus, V.anguillarium, V.ordalii, V.samonicida, V.parahaemolyticus, V.
harvey, V.vulnificus… Chúng thường gây bệnh nặng cho động vật thuỷ sản khi cơ thể
vật chủ có sức đề kháng yếu (Bùi Quang Tề, 1998).
2.1.3. Một số thảo dược được sử dụng phổ biến trong phòng trị bệnh thủy sản
2.1.3.1. Tỏi (Allium sativum L)
- 6 -
Hình 2.3: Vibrio spp
Tỏi có nguồn gốc từ Trung Á, hiện nay được trồng khắp thế giới để làm gia vị.
Tỏi cũng là một dược liệu được biết từ lâu, hiện nay trong y học hiện đại đang khai thác
để sử dụng.[2], [3], [4], [5], [8], [19]
Thành phần chủ yếu là chất alicin (C
6
H
10
OS
2
) có khả năng diệt khuẩn mạnh, ở
động vật thủy sản nó có tác dụng rất tốt với các vi khuẩn gam (-). Trong tỏi tươi không
có chất alicin nó chỉ được hình thành khi tỏi đã được phơi khô. Trong tỏi tươi có chứa
aliin dưới tác dụng alinase có trong tỏi để tạo thành alicin.[2], [3], [4], [5], [6], [8], [16],

[19]
2.1.3.2. Chó đẻ răng cưa (Phyllanthus urinaria L)
Chúng là các loài cỏ dại mọc quanh năm, cao
thường 30cm, thân gần như nhẵn, mọc thẳng đứng
mang cành, thường có màu đỏ nâu. Lá mọc so le,
lưỡng bộ trong như lá kép, phiến lá thuôn, dài 5 -
15mm, rộng 2 - 5mm, đầu nhọn hay hơi tù, mép
nguyên thủy như hơi có răng cưa rất nhỏ, mặt dưới
lá màu xanh lơ, không cuống. Hoa mọc ở kẽ lá, nhỏ,
màu đỏ nâu, đơn tính, hoa đực, hoa cái cùng gốc,
đực ở đầu cành, cái ở dưới. Hoa không có cuống
hoặc có cuống rất ngắn. Cây chó đẻ răng cưa mọc hoang khắp nơi ở nước ta. Thành
phần hoá học: Chúng chứa chất Phyllanthin (C24H34O6), Niranthin (C
24
H
32
O
7
),
Nirtetralin (C
24
H
30
O
7
), Phylteralin (C
24
H
34
O

6
), Hypophyllathin (C
24
H
30
O
7
). Đây là những
chất có tính kháng vi sinh vật rất cao.[2], [3], [4], [5], [8], [19].
2.1.3.3. Rau diếp cá (Houttuynia cordata Thumb)
Rau diếp cá còn có tên là giấp cá, cây lá giấp
hoặc ngư tinh thảo, tên khoa học là Houttuynia
cordata Thumb, mọc chủ yếu tại các nước châu Á,
từ Ấn Độ đến Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan... Ở
nước ta, diếp cá mọc hoang khắp nơi, thường ở các
vùng đất ẩm, được trồng làm rau ăn hoặc dùng làm
thuốc. Theo nghiên cứu của y khoa hiện đại, trong
cây diếp cá có chất decanoyl-acetaldehyd mang tính
kháng sinh. Loại rau này có tác dụng kháng khuẩn như ức chế tụ cầu vàng, liên cầu, phế
cầu, trực khuẩn bạch hầu, e.coli, trực khuẩn lỵ, xoắn khuẩn leptospira. Diếp cá còn diệt
ký sinh trùng và nấm. Một nghiên cứu tại Viện đại học Y dược Toyama, Nhật Bản, đã
cho thấy tác dụng chống oxy hóa của 12 loại dược thảo và hợp chất được chiết xuất từ
- 7 -
chúng. Diếp cá là một trong 4 chất có tác dụng chống oxy hóa mạnh nhất. Hợp chất
quercetin của diếp cá loại trừ được các gốc tự do "cứng đầu" nhất.[2], [3], [4], [5], [6],
[8], [19]
2.1.3.4. Cây thuốc cá (Derris spp)
Dùng cây thuốc cá để diệt cá tạp trong ao, đầm
nuôi tôm: lấy rễ cây đập giập nát để ra chất nhựa
trắng, sau đó đem ngâm nước, lấy nước đó té đều

xuống ao, hoặc ngâm xuống ao với liều lượng 3-5kg
rễ tươi/1.000m
2
ao ở mức nước 15-20cm.[2], [3], [5],
[8]
.2.1.3.5. Cây xoan (Melia azedarach)
Cây xoan có tên khoa học: Melia azedarach L. còn
có tên là Xoan ta, Sầu đông, Sầu đâu.
Lá, vỏ, quả, rễ đều có thể làm thuốc sát trùng.
Dùng lá xoan để diệt trùng mỏ neo, trùng bánh xe ở cá
đều mang lại hiệu quả cao. Dùng lá xoan bón lót
xuống ao trước khi thả cá, lấy lá xoan non bó thành
từng bó, ngâm trong ao cá đang bị bệnh trùng mỏ neo, trùng bánh xe. Nên ngâm ở đầu
nguồn nước hoặc 4 góc ao với lượng 150 - 200kg cành, lá xoan /1.000m
2
ao có mức
nước 1,5 - 2m hoặc 20-25kg lá xoan/lồng cá 8m
2
.[2], [3], [4], [5], [8], [16], [19]
2.1.3.6. Cây thàn mát (Milletia ichthyochtona Drake)
Quả khi già hạt có chứa 30 - 40% dầu và chất
gây độc (như rotenon, sapotoxin) đối với cá. Có thể
dùng hạt thàn mát để diệt cá tạp trong ao nuôi tôm.
[14], [21]
Cách dùng: nghiền nát hạt rồi hoà vào nước,
dùng nước đó tưới đều lên ao; hoặc đập nát cho vào
bao tải ngâm ở ao, tác dụng chậm hơn. Liều lượng cứ
0,5-1kg hạt dùng cho một ao 1.000m2 ở mức nước 15-
20cm.[2], [3], [4], [5], [8], [19]
.

- 8 -
2.1.3.7. Cây sở (Cammellia sasanqua)
Sở là cây ép lấy dầu, bã làm thành bánh (khô dầu
sở) có chứa chất saponozit gây độc làm chết cá và có tác
dụng diệt khuẩn. Khô dầu sở có tác dụng để cải tạo ao
đầm nuôi tôm. Khi dùng, cần nghiền nát khô dầu sở rồi
rải xuống ao, hay ngâm trong nước.[3], [4], [5], [8], [16]
2.1.3.8. Cây bồ hòn (Sapindus mukorossi Gaetrn)
Quả bồ hòn có nhân, hạt rất độc. Người nuôi cá,
tôm dùng hạt để diệt cá tạp khi cải tạo ao đầm. Khi
dùng, giã hạt thật nhỏ, hoà tan với nước, dùng nước này
té đều khắp ao với liều lượng 0,5 - 1kg hạt/1.000m2 ao
có mức nước 15 - 20cm.[3], [4], [5], [8], [19]
2.1.3.9. Cây thầu dầu tía (Ricinus communis L)
Lá thầu dầu có chất đắng, dùng để chữa bệnh
loét mang, đốm đỏ cho cá rất hiệu quả: lấy lá thầu dầu
bó thành từng bó ngâm xuống ao với lượng 250-300kg
lá thầu dầu/ha ao, với mức nước sâu.[3], [4], [5], [8],
[16]
2.1.3.10. Cây nghể (Polygonum hydropipe L)
Nghể là cây có vị cay nóng, hắc. Dùng cây này
chữa bệnh viêm ruột, loét mang cho cá trắm cỏ, rô phi,
có hiệu quả nhất đối với cá giống: lấy thân cây và lá
băm nhỏ, nấu kỹ lấy nước, sau đó trộn với thức ăn cho
cá ăn, với liều lượng 3kg thân lá nghể tươi/100kg cá
giống, cho cá ăn liên tục từ 3-6 ngày. Cũng có thể dùng
lá nghể khô xay thành bột trộn với thức ăn cho cá, 1-2kg
nghể khô/100kg cá giống.[3], [4], [5], [8], [19]
2.1.3.11. Cây rau sam (Portulacaoler acea L)
- 9 -

Dùng rau sam để chữa bệnh viêm ruột do vi khuẩn đối với cá trắm cỏ. Khi dùng,
rửa sạch rau rồi vô trùng bằng nước muối 3%, rải rau trong khung nổi ở ao hoặc trong
lồng cá, mỗi ngày cho ăn một lần, liên tục trong 6 ngày với
liều lượng 1,5-3kg rau sam/100kg cá. Đối với cá giống cần
băm nhỏ rau, rắc đều trên mặt ao hoặc trong lồng cá.[3],
[4], [5], [8]
2.1.3.12. Cây tía đỏ (Ricinus communis L)
Cây tía đỏ thường được dùng để chữa bệnh đường
ruột cho động vật thuỷ sản. Khi dùng lấy thân và lá cây
băm nhỏ, nấu kỹ, lấy nước trộn với thức ăn tinh rồi cho ăn lượng 0,2-0,5kg lá/kg thức
ăn, cho ăn liên tục trong 3-5 ngày.[3], [4], [5], [8], [16]
2.1.3.13. Cây hoàn ngọc (Pseuderanthemum palatiferum)
Cây hoàn ngọc còn có nhiều tên gọi khác như xuân
hoa, tú linh, con khỉ, nhật nguyệt... Kết quả kiểm tra độc
tính cấp của dịch chiết lá Hoàn Ngọc khô dùng làm trà tại
Viện Kiểm nghiệm, Bộ Y tế cho thấy lá Hoàn Ngọc
không độc và có tác dụng kháng khuẩn đối với vi khuẩn
gram âm và gram dương ở đường tiêu hóa và kháng nấm.
2.1.3.14. Cây khế (Averrhoa carambola L)
Cây khế có tên khoa học Averrhoa carambola L.
Vào thế kỷ thứ 12 Averhoes là một thầy thuốc kiêm triết
gia Ả rập đã phát hiện cây khế là một dược liệu quý nên
khế đã mang tên của ông. Tên Hán là ngũ liễm tử, ngũ lăng
tử (quả cắt ngang có 5 cánh như ngôi sao, có tính năng thu
vào).
Cây khế có nhiều tác dung dược lý như: Chữa dị ứng do tiếp xúc với sơn ta, rửa
vết thương lở loét, chữa nước ăn chân, cảm cúm, sốt, đau mình, hắt hơi sổ mũi, ho, chữa
phong nhiệt mẩn ngứa mày đay, viêm họng , cảm nắng, khát nước, nhức đầu...
2.1.3.15. Cây ổi (Psidium guajava)
Tên khoa học của ổi là Psidium guajava L., trong dân gian còn có tên phan thạch

lựu, thu quả, kê thỉ quả, phan nhẫm, bạt tử, lãm bạt, phan quỷ tử...
Đa số các nghiên cứu khoa học và dược học được thực hiện tại các viện khảo
cứu, các đại học tại Nam Mỹ. Tại Á Châu, Thái Lan là quốc gia chú trọng nhiều nhất về
- 10 -
dược tính của ổi. Nhiều bộ phận của loại cây này như búp non, lá non, quả, vỏ rễ và vỏ
thân... đã được dùng để làm thuốc.
- 11 -
2.1.3.16. Củ riềng (Alpinia galanga)
Riềng còn gọi là cao lương khương, tiểu
lương khương, phong khương. Cây riềng mọc
hoang và được trồng để làm gia vị và làm thuốc,
thu hoạch quanh năm nhưng tốt nhất vào mùa thu,
mùa đông, đầu mùa xuân trước khi có mưa phùn
để dễ phơi, sấy khô.
Riềng được dùng cả trong y học hiện đại và y học cổ truyền để làm thuốc kích
thích tiêu hóa, giúp ăn ngon, chữa đầy hơi, các chứng đau bụng do lạnh, bụng đầy
trướng, nôn mửa, tiêu chảy. Riềng có tác dụng chữa khi bị sốt rét do hàn hoặc sốt rét,
sốt nóng, đau răng, các chứng trúng gió, làm ấm tỳ vị, đi lỵ lâu ngày, thổ tả, chuột rút.
2.1.3.17. Cây cau (Areca catechu)
Chất arecolin trong hạt cau có tác dụng oxy
hoá protein của tế bào kí sinh trùng làm tê liệt thần
kinh của giun sán, làm tê liệt cả cơ trơn làm giun
sán không bám vào thành ruột được nên dễ bị đẩy
ra ngoài Dùng hạt cau với liều lượng 4g hạt cau/
1kg cá/ 1 ngày, cho ăn trong 3 ngày để trị giun
tròn kí sinh trong ruột cá trê (Spinitectus clariasi).
2.2. Hiện trạng nghề sản xuất giống tôm sú ở nước ta
Đầu năm 1974 với sự giúp đỡ của FAO và Viện nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản
nước lợ Hải Phòng, trại tôm giống Quy Nhơn đã cho đẻ thành công trên đối tượng
P.merguiensis và P.monodon (Nguyễn Trọng Nho, 1990).[29], [30], [32]

Năm 1981- 1982 được sự giúp đỡ của FAO nghiên cứu thủy sản nước lợ Hải
Phòng, trại tôm giống Quy Nhơn đã cho đẻ thành công trên đối tượng P.merguiensis và
P.monodon.[29], [30], [31], [32], [33]
Năm 1983 trại thực nghiệm Cửu Bé, trường Đại Học Thủy sản Nha Trang đã cho
đẻ thành công đối tượng P.merguiensis và P.monodon.[29], [30], [32]
Đến năm 1986 cả nước sản xuất được 3,3 triệu Postlarvae của các loài tôm he và
đã xây dựng các trại có quy mô lớn như: Bãi Cháy, Kim Quý…[29], [30], [31], [32]
Năm 1989 cả nước có 28 trại sản xuất tôm giống và sản xuất được 20 triệu
Postlarvae/năm, đến năm 1994 cả nước có 49 trại, sản xuất được 200 triệu
Postlarvae/năm chủ yếu là tôm sú (Bài giảng sản xuất tôm sú, Tôn Thất Chất, 2002).
- 12 -
Tiếp đó phong trào sản xuất giống tôm sú đã phát triển và lan rộng khắp các tỉnh ven
biển miền Trung như: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Ninh Thuận…[29], [30], [31], [32]
Theo Phan Lương Tâm (1994) hầu hết sản xuất giống tôm sú xây dựng không
theo quy hoạch, mật độ trại giống có nơi dày đặc. Trong từng trại sản xuất giống không
xây dựng đúng theo quy trình kỹ thuật, không có hệ thống xử lý nước thải, nước thải xả
trực tiếp ra biển làm gia tăng sự nhiễm bệnh và mầm bệnh trong nguồn nước biển. Tính
bình quân tỷ lệ cảm nhiễm MBV của đàn tôm giống 46,48%, nhưng tôm giống ở Nha
Trang tỷ lệ cảm nhiễm khá cao 70- 100%. Ở Bà Rịa Vũng Tàu tỷ lệ cảm nhiễm thấp hơn
5,55- 31,59%. Các nguyên nhân chủ yếu dẫn tới chất lượng tôm giống kém là: tôm bố
mẹ có chất lượng kém, cắt mắt cho đẻ nhiều lần, trong sản xuất giống sử dụng nhiều
loại hóa chất và thuốc kháng sinh để xử lý tôm bố mẹ, tôm bột và tôm giống. Do đó dẫn
tới tôm giống sản xuất ra có chất lượng thấp, một trong các nguyên nhân tôm nuôi bị
bệnh, giảm hiệu quả kinh tế trong nuôi tôm thịt.[29], [30], [31], [32]
2.3. Tình hình nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế
Hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai với diện tích 22.000 ha nên Thừa Thiên
Huế rất có điều kiện để phát triển nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng.
[23], [24], [25], [26], [27], [29] Ngay từ những năm 89, 90 của thập niên trước, người
dân Thừa Thiên Huế đã chắn phá, đắp đập, vây lưới nuôi tôm. Tại thời điểm này cho
đến hết năm 1997 môi trường đầm phá hầu như chưa chịu tác động xấu nào, chất lượng

nguồn nước còn chưa bị ô nhiễm, diện tích nuôi tôm chưa đáng kể, hình thức nuôi chủ
yếu là quảng canh đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi tôm.(IMOLA, 2006)
Nhưng đến năm 1998 - 1999, dịch bệnh xảy ra tràn lan, môi trường ô nhiễm trầm trọng,
làm cho nghề nuôi tôm điêu đứng và bắt đầu gặp khó khăn. Tuy nhiên cơn lũ lịch sử
năm 1999 đã giúp cải tạo môi trường cho vùng nuôi tôm tỉnh Thừa Thiên Huế.[29], [30]
Cũng trong thời gian này giá tôm thế giới tăng đột biến, cùng với sự khuyến khích của
chính quyền địa phương, nghị quyết 09 của Chính phủ cho phép chuyển đổi diện tích
hoang hóa, nhiễm mặn, trồng lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản đã làm cho
người dân khắp các huyện mở rộng diện tích nuôi tôm, do đó từ năm 2000 - 2003 diện
tích nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế tăng rất nhanh. Năm 2000 diện tích nuôi tôm đạt
2.021ha, chiếm khoảng 66,77% diện tích nuôi trồng thủy sản. Năm 2003 các trị số
tương ứng là 3.875ha, chiếm khoảng 80,45%; tăng 207,46% so với năm 2000.[26]
Cùng với sự gia tăng về diện tích, nghề nuôi tôm vùng đầm phá đã không ngừng
áp dụng kỹ thuật, những hình thức nuôi tiến bộ nên năng suất tôm nuôi tăng khá, từ
0,208 tấn/ha ở năm 1998 lên 0,858 tấn/ha ở năm 2003, tương ứng tăng 412,5%. Từ đó
sản lượng tôm nuôi tăng, năm 2003 đạt 9.149 tấn, tăng 11,66 lần so với năm 1998. Đây
- 13 -
chính là nguồn nguyên liệu tôm cho chế biến, xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.[29], [30],
[33]
Nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh đã góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn vùng đầm phá theo hướng tích cực: từng bước chuyển dịch từ khai
thác sông đầm và sản xuất nông nghiệp năng suất thấp sang nuôi trồng thuỷ sản có giá
trị và hiệu quả cao. Nuôi trồng thuỷ sản đã góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho
hơn 6.000 người, trong đó có hơn 120 hộ vạn đò được định cư và giao quyền sử dụng
mặt nước.[26]
Các huyện Phú Vang, Phú Lộc phát triển nuôi tôm nhanh hơn các huyện khác.
Vùng đầm phá huyện Phú Lộc tăng diện tích bình quân hàng năm 41,192%/năm với sản
lượng tăng 109,84%/năm trong thời gian trên. Phong Điền không mở rộng diện tích
nuôi tôm, nhưng lại đầu tư thâm canh nên sản lượng tôm nuôi ở năm 2003 tăng 9,67 lần
so với năm 1998.(Nguyễn Tài Phúc, 2005)

Song song với việc mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản, nhiều loài giống thuỷ
sản đã được du nhập, thuần dưỡng và phát triển trên khắp vùng đầm phá ven biển và các
vùng ao hồ toàn tỉnh, góp phần từng bước tạo nên bộ giống thủy sản hoàn chỉnh cho
người nuôi, các tiến bộ trong nuôi trồng thuỷ sản được triển khai và chuyển giao cho
hầu hết các địa phương qua chương trình khuyến ngư, nhờ vậy giúp cho người dân chủ
động và mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất. Về con giống thuỷ sản, từ chủ yếu mua
con giống từ các tỉnh, đến nay các cơ sở sản xuất giống trong tỉnh đã đủ khả năng sản
xuất giống tôm cá chủ động và đáp ứng phần lớn nhu cầu nuôi cho người dân.[24], [25],
[26]
Về công tác giống, năm 2009 toàn tỉnh có 9 trại tôm giống được đưa vào sản
xuất với lượng giống là 65,2 triệu con trong đó 22 triệu tôm rảo đạt 23,78% nhu cầu
giống tôm sú và đạt 9,07% nhu cầu giống tôm nuôi của toàn tỉnh. Công tác dịch vụ
giống cung cấp 22 triệu tôm sú và 7 triệu tôm chân trắng. Bên cạnh đó trung tâm giống
nước ngọt cấp 1 cũng đã sản xuất được 20 triệu con cá bột các loại (trắm, chép, mè, rô
phi). Và đã cung cấp: 5,2 triệu cá hương; 1,3 triệu cá giống cấp 1 và 0,5 triệu cá giống
cấp 2 cho nhu cầu 36 triệu con cá giống các loại trên địa bàn tỉnh.[23]
- 14 -
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp giống thả các huyện và thành phố Huế
STT Huyện
Trong đó giống các loại
Tôm sú
(triệu)
Chân
trắng
(triệu)
Cá nước
lợ
(triệu)
Cua giống Cá nước
ngọt các

loại
(triệu)
Tự
nhiên
(tấn)
Nhân
tạo
(con)
1 Phú Vang 165,53 51 33,42 33,2 - 6,4
2 Phú Lộc 120,9 20,5 13,27 3 - 6,168
3
Quảng
Điền
61,42 20 4,014 2,278 - 1,72
4 Phong Điền 0,5 300 0,01 - 7,5
5 Hương Trà 18,32 0 2,344 3,73 89.000 3,545
6 Nam Đông - - - - - 1,81
7 A Lưới - - - - - 2
8
Hương
Thuỷ
- - - - - 6,704
9 TP Huế - - - - - 0,2
Tổng cộng 366,67 391,5 53,054 42,208 89.000 36,047
(Nguồn: Sở Nông Nghiệp và PTNT tỉnh Thừa Thiên Huế, 2009)
Năm 2009, tổng diện tích thả nuôi toàn tỉnh đạt 5705,54 ha bằng 102,79 % so với
cùng kỳ năm 2008. Cụ thể như sau:
- 15 -
- 16 -
Bảng 2.3. Diện tích nuôi nước ngọt theo huyện

TT Tên huyện
Tổng diện
tích (ha)
DT đã thả
nuôi ( ha)
Số lồng Thực
hiện
(lồng)
Số lượng
giống thả
(triệu)
1 Phong Điền 373 372 445 7,5
2 Quảng Điền 71,24 128,4 875 1,72
3 Hương Trà 113,5 113,5 350 3,545
4 Phú Vang 210 179,7 154 6,4
5 Phú Lộc 300 300 300 6,168
6 TP Huế 9,2 9,2 - 0,2
7 Hương Thuỷ 488,1 488,1 146 6,704
8 Nam Đông 64 60,5 30 1,81
9 A Lưới 209,6 218,5 - 2
Tổng Cộng 1.838,64 1.869,9 2300 36,047
(Nguồn: Sở Nông Nghiệp và PTNT tỉnh Thừa Thiên Huế, 2009)
Nhìn chung năm 2009 là năm nuôi tôm được mùa so với 3 năm trở lại đây, dịch
bệnh thấp, năng suất đạt khá, giá cả cũng khá hơn, mặc dù vậy lợi nhuận và hiệu quả
của người nuôi vẫn không cao.
2.4. Tình hình nghiên cứu bệnh trên thế giới và Việt Nam
2.4.1. Tình hình nghiên cứu bệnh
2.4.1.1. Trên thế giới
Trong những năm gần đây, nuôi trồng thủy sản đã có những bước tiến vượt bậc
về cả diện tích lẫn năng suất nuôi trồng đã đạt được, tuy nhiên hiện nay chúng ta đang

phải đối mặt với những thách thức từ môi trường, dịch bệnh tràn lan, gây thiệt hại lớn
cho người nuôi.[17], [19], [27]
Năm 1992, Trung Quốc là một nước có sản lượng tôm lớn nhất thế giới 150.000
tấn nhưng đến năm 1993 lại bị thiệt hại nặng nề do dịch bệnh và đã làm sản lượng giảm
50% so với năm 1992. Trên thế giới, năng suất tôm sú giảm chỉ còn 639.000 (giảm 12%
- 17 -
so với năm 1992). Năm 1996, tổng diện tích nuôi tôm trên thế giới là 1.372.800 ha tăng
20,5% so với năm 1995 nhưng năng suất chỉ đạt 693000 tấn giảm 2,5% so với năm
1995 do dịch bệnh virus bùng phát trên toàn thế giới.[19], [25]
Năm 1998, chỉ tính riêng Trung Quốc thất thoát gần 1tỷ USD do dịch bệnh xảy
ra trên tôm. Ở Thái Lan thiệt hại do bệnh ước tính khoảng 40% tổng năng suất (70.000
tấn) tương đương 500 triệu USD. Những cuộc điều tra cấp nông hộ ở 16 nước ở Châu
Á cho thấy rằng bệnh và các vấn đề liên quan đến môi trường gây thất thoát cho sản
lượng nuôi thuỷ sản trên 3 tỷ USD/năm.[19]
Tình hình dịch bệnh đã trở thành một mối đe doạ đối với sự phát triển của nghề
nuôi tôm, trước nguy cơ này các nhà khoa học, nhà sản xuất đã đầu tư tiền bạc thời gian
để nhằm hạn chế dịch bệnh và tìm ra những loại thuốc đặc hiệu những phương pháp
nuôi mới, nuôi sinh thái để ngành nuôi tôm ngày càng phát triển một cách bền vững
hơn.[7], [27]
2.4.1.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, nghề nuôi tôm cũng đã phát triển khá lâu nhưng thực sự phát triển
mạnh trong những năm gần đây. Do những lợi nhuận mang lại từ con tôm sú
(P.monodon) và do ưu đãi của thiên nhiên nên nghề nuôi tôm sú phát triển mạnh mẽ
trong cả nước đặc biệt ở miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long.[17], [19]
Năm 1990, ở Việt Nam có 187.000 ha mặt nước nuôi tôm với sản lượng đạt
được là 31.000 tấn. Đến năm 1995, diện tích nuôi tăng lên 260.000 ha và sản lượng đạt
được là 52.000 tấn. Nhưng mặt trái của sự phát triển nhanh chóng và không có quy
hoạch là dịch bệnh bùng phát ở nhiều nơi. Năm 1994, dịch bệnh bùng phát tại Đồng
bằng sông Cửu Long: Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Long An, Nha Trang… gây thiệt
hại hàng chục tỷ đồng cho bà con nuôi tôm.[17], [18], [19]

Năm 1996, tại các tỉnh miền Nam (từ Phú Yên đến Cà Mau) dịch bệnh đã xảy ra
trên 84.917 ha, trong đó nuôi quảng canh: 52.017 ha, quảng canh cải tiến: 29.011 ha,
bán thâm canh: 3.829 ha, tổng thiệt hại lên đến hàng chục tỷ đồng. Các tỉnh bị dịch bệnh
nặng như Cà Mau hơn 70.000 ha, Kiên Giang hơn 4.000 ha, Bến Tre hơn 3.000 ha.[9],
[18]
- 18 -
Bảng 2.4. Thiệt hại do bệnh tôm gây ra ở các tỉnh miền Nam năm 1996
Địa phương
Diện tích bị bệnh (ha) Sản
lượng
Giá trị
kinh tế (tỷ
Quảng
canh
QCCT
Bán
thâm
canh
Thâm
canh
Phú Yên 104 2,06
Khánh Hoà 20 10 16 0,1
Vũng Tàu 150 246 1,5
Tp Hồ Chí Minh 1.000 640 340 500 25
Tiền Giang 66,2 25,6 23,5 0,358
Bến Tre 1.017 2.035 110 179,2 20
Trà Vinh 3.000 800 23,006
Sóc Trăng 750 1.875 2,063
Minh Hải 50.000 20.000 1.200 205
Kiên Giang 4.000 700 15

Tổng 52.017 29.011
3.829,
6
5.219 284,08
Năm 1997, theo ước tính của Nguyễn Việt Thắng (Báo cáo nghiên cứu khoa học)
tỉnh Bến Tre bị thiệt hại nặng nề nhất với 20% tôm thả bị chết, Trà Vinh với hơn 15% tôm
thả bị chết. Cũng trong thời gian này dịch bệnh bùng phát nghiêm trọng ở các tỉnh miền
Trung, đặc biệt vào tháng 2 - 3. Tổng số diện tích bị dịch bệnh chiếm khoảng 80% tổng
diện tích nuôi trồng gây thiệt hại lớn cho các tỉnh miền Trung.[29], [30].
Báo cáo kết quả Nuôi trồng thủy sản năm 2003 của ngành đã đưa ra vài con số:
cả nước có 546.757 ha nuôi tôm nước lợ thương phẩm, trong đó diện tích bị bệnh
khoảng 30.083 ha. Riêng các tỉnh thành ven biển từ Ðà Nẵng đến Kiên Giang có tới
29.200 ha nuôi tôm bị chết, chiếm 97,06% diện tích có tôm bị chết trong cả nước. Các
bệnh xảy ra với tôm chủ yếu là đốm trắng (WSSV), bệnh MBV (Monodon Baculovirus),
bệnh do vi khuẩn vibrio, bệnh do ký sinh trùng, gần đây xuất hiện thêm bệnh phân
trắng, teo gan ở một vài nơi. Tại các tỉnh Bắc Trung Bộ, theo báo cáo của Viện nghiên
- 19 -
cứu Nuôi trồng thủy sản I cho thấy: Thanh Hóa có hơn 40% diện tích nuôi tôm bị nhiễm
virut đốm trắng, tập trung ở vùng nuôi tôm công nghiệp như Khu công nghiệp Hoằng
Phụ, với 70/110 ha nuôi tôm bị nhiễm bệnh. Nghệ An có 47,8% diện tích nuôi tôm
nhiễm virus đốm trắng; 30,4% bệnh MBV; 54,5% bệnh đầu vàng. Ở Hà Tĩnh, trong số
150 ha nuôi tôm bị bệnh, có 67 ha nhiễm bệnh virus đốm trắng, trong đó 27 ha có tôm
nuôi chết hoàn toàn. Ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, cũng có từ
xấp xỉ trăm ha cho tới vài trăm ha nuôi tôm bị bệnh.[26], [27]
Tại các tỉnh miền Trung, Nam Trung Bộ, theo Phòng bệnh học thủy sản -Trung
tâm nghiên cứu Thủy sản III, Khánh Hòa có tỷ lệ diện tích nuôi tôm bị bệnh thấp nhất
14,3%, cao nhất ở Ninh Thuận 52,4%. Tỷ lệ nhiễm virus đốm trắng ở tôm nuôi tại khu
vực này tuy có giảm nhưng bệnh phân trắng, teo gan lại xảy ra hầu hết ở các vùng nuôi
trọng điểm như Ninh Hải, Phan Rang, Ninh Phước có những nơi lên tới 90-95% tôm bị
nhiễm bệnh.[26], [27]

Theo kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II, tại các tỉnh
Nam Bộ tỷ lệ nhiễm bệnh virus đốm trắng trên mẫu tôm ở ao nuôi quảng canh cải tiến
chiếm tới 56%, 50% tôm nhiễm bệnh MBV. Bệnh virus đốm trắng gây chết tôm hàng
loạt, tác hại lớn đến năng suất, sản lượng tôm của khu vực.[26], [27]
Năm 2007, dịch bệnh đã bùng phát trên hơn 30 ha ao nuôi tôm trên cát ở huyện
Phù Mỹ (Bình Định). Tôm chết chủ yếu ở giai đoạn 30 - 40 ngày nuôi gây tổn thất hàng
chục tỉ đồng. Năm 2005, vùng nuôi tôm trên cát trọng điểm tỉnh Bình Định tập trung tại
hai xã Mỹ An, Mỹ Thắng (Phù Mỹ) cũng xảy ra dịch bệnh.[29], [30]
Những tháng đầu năm 2008, một số tỉnh nuôi tôm ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
như: Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau bị thiệt hại nặng do tôm chết hàng loạt.
Nghiêm trọng nhất tại Cà Mau có khoảng 34.000 ha tôm bị nhiễm bệnh, thiệt hại từ 10%
đến 70%. Việc tăng trưởng quá nhanh chóng về diện tích nuôi tôm đã nảy sinh nhiều bất
cập về ô nhiễm, kiểm soát dịch bệnh, chất lượng sản phẩm dẫn đến thiệt hại không nhỏ
về kinh tế cũng như môi trường.[29], [30]
2.4.1.3. Tại Thừa Thiên Huế
Năm 2007, diện tích nuôi tôm của Thừa Thiên Huế khoảng 3.712,1 ha. Ở vụ nuôi
này thời tiết diễn biến phức tạp, nắng nóng kéo dài xen giữa có 3 đợt gió mùa kèm theo
mưa dẫn đến nhiệt độ, các yếu tố môi trường biến động quá cao rất bất lợi cho sự phát
triển tôm nuôi. Qua kiểm tra cho thấy tôm bị nhiễm virus đốm trắng ở các vùng Quảng
An, Quảng Phước huyện Quảng Điền. Sau đó dịch bệnh lây lan trên diện rộng ở các xã
thuộc huyện Phú Lộc, Phú Vang. Theo thống kê diện tích tôm bệnh: Khoảng 1.052,98
ha chiếm tỷ lệ 36,91% tổng diện tích nuôi, tăng 31,28% so với năm 2006. Huyện Phú
- 20 -
Lộc có diện tích nuôi tôm lớn nhất với 900 ha, cũng là huyện thiệt hại nặng nhất với 600 ha
bị bệnh, chiếm tỷ lệ 66,67% tổng diện tích nuôi. Trong đó bệnh đốm trắng trên 138,83 ha
chiếm tỷ lệ 11,07% tổng diện tích nuôi, các bệnh vi khuẩn khác trên 166,7 ha chiếm tỷ lệ
14,37%. Huyện Phong Điền thiệt hại thứ hai, với 22,9 ha nhiễm bệnh, chiếm 39,76%.
Trong đó bệnh đốm trắng xảy ra với tỷ lệ rất cao, trên 21 ha, chiếm 38,02%. Hai huyện Phú
Vang và Quảng Điền cũng bị thiệt hại nặng, với tỉ lệ xấp xỉ 26%. Bệnh đốm trắng ở Phú
Vang chiếm 11,9 %, bệnh vi khuẩn khác chiếm 14,37%. Tỷ lệ này ở Quảng Điền là 25,46%

và 0,12%. Huyện Hương Trà có diện tích nuôi tôm thấp nhất với 276 ha, đồng thời tỷ lệ
xảy ra bệnh thấp nhất với 4,5 ha chiếm tỷ lệ 1,63%. Đặc biệt ở Hương Trà bệnh đốm trắng
hầu như không xảy ra.[24]
Trong báo cáo tình hình sản xuất nông nghiệp của Sở Nông nghiệp, tính đến
ngày 27/11/2008 toàn tỉnh có 112,1 ha nuôi tôm thẻ chân trắng đạt sản lượng 1.208,9
triệu tấn với diện tích bị bệnh 4 ha chiếm 1,28% diện tích nuôi. Diện tích nuôi tôm sú
lớn hơn với 3609,2 ha đạt sản lượng 2560,35 triệu tấn, trong đó diện tích bị bệnh
khoảng 166,05 ha chiếm 4,62%. Qua thống kê cho thấy tỷ lệ bị bệnh của tôm sú cao hơn
tôm thẻ chân trắng. Điều này chứng tỏ tôm thẻ có sức đề kháng, thích nghi với môi
trường tốt hơn tôm sú. Năm 2008, tình hình thời tiết diễn biến ít bất lợi, người nuôi đã
có kế hoạch phòng bệnh nên tỷ lệ bị bệnh giảm đáng kể so với năm 2007.[24]
Năm 2009, tình hình dịch bệnh trên tôm sú vẫn diễn biến phức tạp, dịch bệnh đã
xảy trên 4 huyện nuôi trồng thuỷ sản trọng điểm của tỉnh, cao điểm từ tháng 4 đến tháng
5 với tổng diện tích dịch bệnh là 158,6ha (trong đó bệnh đốm trắng 58,5ha; bệnh khác
100,1ha). Mặc dù dịch bệnh xảy ra trên diện rộng, nhưng do có sự can thiệp và xử lý kịp
thời nên diện tích dịch bệnh giảm hơn so với năm 2008 (175,267ha). Đây là năm mà
diện tích tôm bị bệnh thấp nhất trong vòng 5 năm kể từ năm 2005-2009.[23]
Bảng 2.5. Tình hình dịch bệnh năm 2009
STT Huyện
Tổng
diện
tích bị
bệnh
Tổng
diện tích
nuôi tôm
Tỷ lệ %
so với
diện tích
thả nuôi

Phân ra các loại bệnh
Bệnh đốm
trắng
Bệnh khác
Diện
tích
Tỷ lệ
(%)
Diện
tích
Tỷ lệ
(%)
1 Phú Vang 62,01 1932,73 3,21 23,38 1,21 38,63 2,00
2 Phú Lộc 34,34 886,53 3,87 18,95 2,14 15,4 1,74
3 Hương Trà 6,8 240,90 2,82 1,7 0,71 5,1 2,12
4 Quảng Điền 42,41 644,95 6,58 18,42 2,86 28,29 4,39
5 Phong Điền 8,65 130,53 6,63 0,8 0,61 7,85 6,01
Tổng 154,21 3835,64 4,02 63,25 1,65 95,27 2,48
- 21 -
2.4.2. Tình hình nghiên cứu bệnh vi khuẩn
2.4.2.1. Trên thế giới
Cuối thế kỉ XIX, một số tác giả đã xuất bản cuốn sách: “Hướng dẫn dịch bệnh
cá” nhưng cơ bản vẫn là mô tả những triệu chứng lâm sàng. Sang đầu thế kỷ XX, các
nhà khoa học trên thế giới đã bắt đầu nghiên cứu và viết sách hướng dẫn các bệnh cá.
Năm 1904, Bruno Hofer người Đức viết cuốn sách “Tác nhân gây bệnh ở cá”
(Father of Fish Pathology). Năm 1929, Viện sĩ V.A.Dogiel thuộc viện Hàn lâm khoa học
Liên Xô cũ là người có công lớn đóng góp vào công trình nghiên cứu ký sinh trùng cho
cá, năm 1939 ông viết tiếp cuốn sách “Bệnh vi khuẩn của cá” (Bacterial Diseases Of
Fish). Từ đó công tác nghiên cứu bệnh thủy sản ngày càng phát triển.
Đến đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khi nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển

mạnh, đặc biệt là nghề nuôi tôm ở các nước Châu Á-Thái Bình Dương từ đó dịch bệnh
tôm xảy ra gắn liền với nghề nuôi tôm. Đến nay người ta đã phát hiện rất nhiều loài là
tác nhân gây bệnh cho động vật thuỷ sản như: bệnh virus cá đã phân lập được 60 loài
virus, bệnh virus ở nhuyễn thể có 12 loài thuộc 8 họ, bệnh virus ở giáp xác có 14 loài ở
tôm và 3 loài ở cua thuộc 5 họ, trong đó gặp nhiều nhất là 7 bệnh Baculovirus. Người ta
cũng đã phân lập được hàng trăm loài vi khuẩn thuộc 9 họ, trong đó có một số nhóm vi
khuẩn điển hình: Aeromonas spp, Pseudomonas spp, Vibrio spp,...
Đến năm 1996 đã có trên 30 loại bệnh khác nhau trên tôm được nghiên cứu.
Sakata, (1990), Kusuda và cộng sự (1986) ... đã nghiên cứu nghiên cứu một số tác nhân
gây bệnh trên tôm và đưa ra kết quả có một số loài vi khuẩn thuộc họ Vibrionaceae là
tác nhân gây bệnh trên tôm he và cá biển, các loài vi khuẩn này tồn tại phổ biến trong
nước biển.
2.4.2.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam bệnh thuỷ sản được nghiên cứu chậm hơn so với các nước trên thế
giới. Việc nghiên cứu bệnh thuỷ sản ở nước ta bắt đầu từ những năm của thập niên 60
và ngày càng được chú trọng. Hàng loạt các công trình khoa học được công bố. Năm
1967, ở nước ta đã phát hiện 120 loài ký sinh trùng gây bệnh, trong đó có 42 loài mang
tên Hà Ký (Hà Ký, 1967). Từ năm 1980 trở lại đây nhiều công trình nghiên cứu vi
khuẩn, virus được công bố góp phần thúc đẩy nghề nuôi cá ngày càng ổn định và phát
triển.[10], [13]
Lúc này nghề nuôi tôm đã bắt đầu được chú trọng tại Việt Nam, đi cùng với sự
phát triển của nghề nuôi thì dịch bệnh cũng phát sinh làm giảm năng suất của người nuôi.
Năm 1985, các nhà khoa học, các chuyên gia về thuỷ sản bắt đầu nghiên cứu và đi sâu
21
vào lĩnh vực bệnh tôm, tuy còn non trẻ, nhưng do nhu cầu của thực tiễn, nên chỉ trong một
thời gian ngắn hàng loạt công trình nghiên cứu bệnh tôm đã được công bố và áp dụng
rộng rãi vào thực tiễn sản xuất, đem lại hiệu quả cao cho nghề nuôi.[29], [30]
Năm 1991, khi nghiên cứu một số bệnh phổ biến trên tôm sú nuôi tại Khánh Hòa,
Nguyễn Trọng Nho và cộng sự đã thông báo một số dấu hiệu bệnh lý thường gặp khi
tôm bị bệnh do vi khuẩn gây ra. Tuy nhiên tác giả vẫn chưa đi sâu vào nghiên cứu về tác

nhân gây bệnh và chưa đề ra được các biện pháp phòng trị, nghiên cứu chỉ mới đưa ra
những thông tin cho việc phát hiện bệnh. Năm 1994, Đỗ Thị Hoà và cộng tác viên, công
bố đề tài “Nghiên cứu một số bệnh do tác nhân vi khuẩn, nấm, nguyên sinh động vật
và giun tròn”, nhóm tác giả đã thông báo 8 loại bệnh khác nhau do các tác nhân là vi
sinh vật gây bệnh cho tôm sú: virus, vi khuẩn, ... Ngoài ra, tác giả còn thông báo một số
bệnh do các tác nhân vô cơ gây ra như: bệnh dị hình, bệnh cong thân, bệnh tôm chết do
nhiệt độ cao. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh nhóm vi khuẩn Vibrio là nhóm vi khuẩn gây ra
một số bệnh có tác hại lớn cho tôm như: phát sáng, đỏ dọc thân, mềm vỏ, đen mang...
[7], [14]
Năm 1997, khi dịch bệnh tôm gây chết hàng loạt ở đồng bằng sông Cửu Long,
Nguyễn Việt Thắng và cộng tác viên đã nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu nguyên nhân tôm
chết ở đồng bằng sông Cửu Long”. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Việt Thắng
(1997) cho thấy vi khuẩn hiển diện khá cao trên tổng số mẫu thu xét nghiệm, nhiều loại
Vibrio xuất hiện với tần số lớn, 2/3 xã điều tra cho thấy hiện tượng nhiễm khuẩn
(Pycnozec nhân), chiếm tỷ lệ 80-100%. Bên cạnh tác nhân virus, vi khuẩn cũng là một
tác nhân khá nguy hại khác cho tôm nuôi nếu đàn tôm bị nhiễm khuẩn với cường độ cao
và số lượng lớn.[15], [16]
Năm 1996, Đỗ Thị Hoà cùng cộng tác viên đi sâu vào nghiên cứu các tác nhân
gây bệnh trên tôm sú ở khu vực Nam Trung Bộ đã phát hiện: virus, vi khuẩn, protozoa
cảm nhiễm trên tôm, kết quả này đã mở ra nhiều triển vọng cho nghề nuôi tôm tại Việt
Nam.[13]
Gần đây công trình nghiên cứu lớn là đề tài cấp nhà nước mang mã số: KN-04-
12 do Hà Ký đã nghiên cứu được 13 loại bệnh vi khuẩn tôm. Ông đã công bố đầy đủ các
khâu từ phân lập vi khuẩn, tác nhân gây bệnh, dấu hiệu bệnh lý, phân bố và lan truyền,
biện pháp phòng trị với một số bệnh được đi sâu nghiên cứu như: bệnh phát sáng ở ấu
trùng tôm sú, bệnh đỏ dọc thân ở ấu trùng tôm sú, bệnh hoại tử đốm nâu ở tôm càng
xanh, bệnh hoại tử do vi khuẩn gây ra trên cá trê, bệnh xuất huyết ở cá trắm cỏ nuôi
lồng.[6]
22
2.5. Tình hình nghiên cứu và sử dụng các loại thảo dược trong phòng trị bệnh

trên động vật thủy sản
Những hợp chất hóa học, dược học luôn tồn tại những hạn chế hay nói cách khác
chúng có thể gây nên tác dụng phụ đối với sức khỏe người nuôi cũng như người tiêu
dùng các sản phẩm thủy sản. Vì thế, xu hướng tìm về những “sản phẩm xanh”, những
sản phẩm an toàn có nguồn gốc từ thảo dược đang được sử dụng rộng rãi đặc biệt tại các
quốc gia có nền công nghệ kỹ thuật phát triển. Theo định nghĩa của cơ quan Y Tế Thế
Giới, một sản phẩm được coi là dược thảo khi “thành phần chủ yếu gồm một bộ phận
của thảo mộc nằm trên không hay dưới đất, trong hình dạng nguyên thủy hay được chế
biến”.[12], [16], [29], [30], [32], [33]
Hiện nay việc chữa bệnh cho tôm, cá bằng thảo dược đang trở thành xu hướng
của giới nuôi trồng thuỷ sản, khắc phục tình trạng lệ thuộc vào dùng hóa chất, kháng
sinh phòng trị bệnh cho cá nuôi, tiến tới phát triển nuôi theo hướng tạo sản phẩm bảo
đảm an toàn thực phẩm, tiết kiệm kinh tế, dễ thực hiện, bảo vệ môi trường đồng thời
nâng cao sản lượng xuất khẩu theo đúng tiêu chuẩn.[9], [12], [16], [29], [30]
2.5.1. Tình hình nghiên cứu thảo dược trong phòng trị bệnh ở động vật thủy sản trên thế
giới
Theo tài liệu thu thập được cho biết thảo dược được sử dụng sớm nhất ở Ai Cập
từ năm 2000 trước Thiên Chúa, tại Trung Hoa, thảo dược được ghi nhận từ năm 168
trước Thiên Chúa, rồi nó du nhập vào Nhật Bản năm 411 sau Thiên Chúa khiến cho nền
y học thảo dược hiện nay rất phổ thông, phát triển, đồng thời đang được hệ thống hóa.
Hai quốc gia La Mã - Hi Lạp đã dùng thảo dược từ thời Aristole, sách thảo dược của
Dioscorides viết vào thế kỷ thứ nhất sau Thiên Chúa đã thống kê trên 600 vị thuốc cỏ
cây. Tiếp đó nền y học Ayurvedic Ấn Độ cũng dùng thảo dược từ trên năm ngàn năm để
hỗ trợ việc phòng trị bệnh.[21]
Tại các nước châu Âu: Anh, Pháp, đặc biệt Ðức là quốc gia tiến bộ nhất có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học về thảo dược. Tại Đức, một ủy ban gồm nhiều bác sĩ,
dược sĩ, chuyên gia về chất độc đã hoàn thành một tài liệu với trên 400 chuyên đề mô tả
công dụng, tác dụng phụ, phân lượng của nhiều loại thảo dược khác nhau.[29], [30],
[31], [32]
Tại Mỹ, thảo dược rất thông dụng với thổ dân bản xứ. Cơ quan The American

Botanical Council, Austin-Texas, dựa vào hai công trình của Đức và Anh, đã soạn thảo
một tài liệu nói về 26 thảo dược thông dụng. Những năm gần đây, Viện Sức Khỏe Hoa
Kỳ đã thành lập một trung tâm nghiên cứu về thảo dược.[29], [30], [31], [32]
23
.
Năm 1858, nhà bác học Pháp Louis Pasteur đã chứng minh được công dụng diệt
vi khuẩn của tỏi. Năm 1944, nhà hóa học Chester J. Cavallito đã phân tích được hợp
chất Allicin trong tỏi có công dụng như thuốc kháng sinh. Kháng sinh này mạnh bằng
1/5 thuốc Penicillin và 1/10 thuốc Tetraclline, có tác dụng trên nhiều loại vi khuẩn, xua
đuổi hoặc tiêu diệt nhiều sâu bọ, ký sinh trùng, nấm độc. Một nghiên cứu khác tại Brazil
năm 1982 đã chứng minh nước tinh chất của tỏi có thể chữa được nhiều bệnh nhiễm độc
bao tử, do thức ăn có lẫn vi khuẩn, nhất là loại Salmonella. Các nghiên cứu tại Đại học
California ở Davis cũng đưa đến kết luật tương tự. Ngoài ra, tỏi cũng được dùng rất
công hiệu để trị bệnh sán lãi, giun kim, các bệnh nấm ngoài da.[17], [29]
Vào năm 1867, Binz đã chứng minh được quinin rất độc với Paramecium. Quinin
ở nồng độ 1/20.000 làm suy yếu hoạt lực của Paramecium sau 2 phút, làm bất hoạt sau 2
giờ. Từ đó Binz đưa ra vấn đề về khả năng dùng qinin để điều trị các bệnh do
Paramecium gây ra.[17]
Năm 1887, R.Koch đã nghiên cứu chứng minh tính kháng khuẩn của nhiều loại
tinh dầu. Cũng trong thời gian này, Chamberland đã chứng minh rằng nhiều loại tinh
dầu có tính kháng khuẩn, các thí nghiệm này được nhiều người như Cadeae, Mennic,
Bering, Reilling,... tiếp tục nghiên cứu.[29], [30], [32]
Năm 1817 Pelletier, Magendie tách ra được một loại alkaloid có tên emetin.
Rogers, 1912 nhận thấy dung dịch muối chlohydrat emetin 1/10.000 diệt được amip, từ
đó emetin được dùng rộng rãi trong điều trị lỵ cấp tính ở ruột, áp-xe gan do amip. Nhiều
loài cây Holarrhena đã được người dân ấn Độ dùng để chữa sốt rét, lao, chữa lỵ Amip
và Trichomonas, trong số 20 alkaloid chiết suất từ hạt và vỏ cây nhận thấy chất conessin
có tác dụng mạnh với amip, đã được ứng dụng điều trị lỵ amip có kết quả. Holarrhena
antidysenterica đã được Viện Dược Liệu tách chiết được một chế phẩm gọi là “Holanin”
thành phần chủ yếu chứa conessin và các alkaloid khác, có tác dụng điều trị lỵ amip thể

cấp, được xác nhận qua nhiều công trình nghiên cứu lâm sàng.[29], [30]
Năm 1928 B.P. Tokin đã chứng minh nhiều chất bay hơi từ cây xanh có tác dụng
với vi khuẩn được gọi là Phytoncid. Gries (1943), Largralge (1956) chiết xuất từ cây Hồ
đào (Juglals ligra-Juglandaceae) được chất Juglon, đây là một dẫn chất Natoquinon,
chất này có tác dụng với nhiều loại nấm và vi khuẩn có nha bào. Năm 1959 Horak,
Santavi chiết xuất từ Cannabit sativa thuộc họ Cannabinnaceae, được chất
Cannabiriolic, dung dịch 10-15 ug/ml có tác dụng với vi khuẩn lao ở người và một số vi
khuẩn Gram (+), đặc biệt là vi khuẩn kháng lại Penicilin.[17], [30]
24

×