Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Thực trạng kinh doanh không đồng bộ tại nông thông và chính sách của nhà nước về nông thôn pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.7 KB, 22 trang )


1

I. Lời mở đầu
Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô cùng quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là những nước đang phát triển như
nước ta hiện nay. Một đất nước bị chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn
lạc hậu vì vậy mục tiêu chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng
được đó là phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải
công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người dân Việt Nam
sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải ưu tiên phát triển
lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người bởi nguồn lực con
người đóng vai trò quan trọng chủ chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn. Con người sáng tạo ra máy móc quản lý và sử dụng
hợp lý máy móc hiện đại để phục vụ và làm cho cuộc sống con người thoải mái
hơn, thoả mãn các nhu cầu tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để
sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao. Dần dần xoá bỏ mô
hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn kém vừa không hiệu quả thay thế vào đó là những mô
hình sản xuất phù hợp hơn mang lại năng suất cao hơn. Bên cạnh phát triển khoa
học cũng phải chú ý bảo vệ môi trường phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai
từ đó phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, đưa nền kinh tế của đất nước phát
triển đi lên sánh vai cùng các nước trên thế giới. Từng bước đưa Việt Nam trở thành
nước công nghiệp phát triển trong khu vực trên thế giới.
II. Nội dung

2

A. Một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp, hoá hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn
1. Thế nào là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn


Công nghiệp hoá hiện đại hoá và nông thôn được thế giới định nghĩa theo nhiều
cách khác nhau đó chính là một quá trình lâu dài cần được tiến hành theo cách tuần
tự không thể nóng vội, không thể tuỳ tiện. Quá trình này được thực hiện không
nhằm mục đích tự thân mà phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của nông thông cũng
như của cả nước. Nhưng đối với một nước khoa học công nghệ, kinh tế Nhà nước
giữ vait rò chủ đạo thì Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định: công nghiệp hoá là
quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công
nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Khái niệm công nghiệp hoá này được
Đảng ta xác định rộng hơn những quan niệm trước đó bao hàm cả về hoạt động sản
xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, được sử dụng bằng các
phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ
cao. Như vậy công nghiệp hoá mới teo tư tưởng mới không bó hẹp trong phạm vi
trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động
thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Theo tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Hội nghị
Trung ương lần thứ VII công nghiệp hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn, tạo nền

3

tảng cho việc phát triển nhanh, bền vững theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế ở
nông thôn, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là quá trình phức tạp không
đơn giản, vì vậy Đảng và Nhà nước phải đưa ra những chiến lược bước đi cụ thể và
hiệu quả. Bước đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đưa
phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào sử dụng trong nông
nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế lao động thủ công. Nông thôn Việt Nam

luôn mang nặng tính thủ công trong sản xuất nông nghiệp vì vậy để thay đổi tập
quán, cách làm của nông dân là bước đi vô cùng khó, phải thực hiện theo từng bước
đi từ từ chậm chạp. Đưa dần phương pháp sản xuất bằng máy móc để con người dần
tiếp nhận phương pháp sản xuất này.Không thể đột ngột thay thế phương pháp sản
xuất thủ công bằng phương pháp máy móc ngay được như thế sẽ gây ra sự lúng
túng của người sử dụng cũng như người hướng dẫn sử dụng. Người cần sử dụng
máy móc lại không biết cách sử dụng hoặc lúng túng trong cách sử dụng vì vậy gây
nên sự l•ng phí máy móc thiết bị. Sau khi đưa máy móc thiết bị vào sử dụng cũng
cần phải có phương pháp quản lý hiện đại tương ứng với các loại công nghệ và thiết
bị. Máy móc khoa học là những thành tựu sáng tạo của con người, chúng không tự
bảo quản, không chống lại sự hao mòn vì vậy phải có bàn tay con người bảo quản
cho nó. Ngoài ra quản lý, sử dụng máy móc sao cho hợp lý tiết kiệm tiền của, tránh
lãng phí cũng cần phải học, phải có phương pháp khoa học hiện đại. Đó là cả một
quá trình đào tạo chính quy và có quy mô. Nhưng khi có máy móc hiện đại, trang
thiết bị được quản lý tốt mà cơ sở vật chất nghèo không phù hợp thì cũng không có

4

hiệu quả. Vì vậy phải tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc
thiết bị mới vào nông thôn.
Như vậy, công nghiệp hoá nông thôn không có nghĩa là chỉ phát triển công nghiệp ở
nông thôn mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lực lượng sản
xuất dịch vụ và đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn và cả nước nói chung.
Công nghiệp hoá nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hoá nông thôn. Nội
dung chủ yếu là đưa máy móc thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu
công nghiệp, các phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công nghiệp và các lĩnh
vực của sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp hoá nông thôn còn bao hàm cả việc tạo
ra sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm
khai thác triệt để lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm
của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho chúng.

Hiện đại hoá là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cải thiện tổ chức sản xuất và hoàn thiện đời
sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày
càng văn minh, tiến bộ. Hiện đại hoá nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp
hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác của
sản xuất vật chất ở nông thôn mà con bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời
sống văn hoá, tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội hệ thống giáo dục
đào tạo y tế, các dịch vụ phục vụ đời sống khác ở nông thôn.Về bản chất, hiện đại
hoá là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hoá hoàn toàn
không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đẫ tạo dựng trong quá khứ cũng không
có nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn

5

ngay một lúc mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước nâng cao trình độ khoa
học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp lên
ngang tầm với trình độ thế giới.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có liên quan mật thiết với nhau, chúng
tương tác với nhau, sự khácnhau giữa chúng chỉ mang tính tương đối, vì chúng có
nội dung đan xen vào nhau, bổ sung cho nhau để mục đích cuối cùng là đưa kinh tế
nông thôn phát triển đi lên ngang tầm với thế giới.
2. Tại sao phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn
Nước ta đi từ xã hội phong keíen phát triển đi thẳng lên chế độ xã hội chủ nghĩa mà
không qua chế độ tư bản chủ nghĩa vì vậy cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu,
phương thức quản lý lỏng lẻo yếu kém. Nhiệm vụ quan trọng nhất bức thiết được
đặt ra là phải xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa trong đó có
công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Muốn thực
hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên nhất thiết phải tiến hành công nghiệp
hoá tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp.
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối công

nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời gian quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp gắn
với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ
hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc hậu, bình quân ruộng đất

6

thấp, 80% dân cư có mức thu nhập thấp, nghèo đói, sức mua hạn chế nếu không
muốn nói là không thể mua nối hàng hoá cho tiêu dùng.Một đất nước sống dựa chủ
yếu vào nông nghiệp lạchậu, canh tác trên ruộng đất nghèo nàn, cơ sở vật chất thô
sơ, tự chế tạo là chính. Đời sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, lại bị chiến tranh và
xã hội phong kiến tàn phá, Đảng và Nhà nước như bước lên từ con số không. Vì vậy
nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá để tạo ra những điều kiện vật chất kỹ
thuật cần thiết, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực.
Để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh,
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chính là người lao động. Con
người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá con người sáng tạo ra máy móc, bảo quản máy móc, con người luôn muốn nâng
cao trình độ của mình hay là nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất. Nhưng để
biến đổi về chất lực lượng sản xuất là một điều vô cùng khó khăn mà không dễ gì
thực hiẹn được, nhưng quá trình công nghiệp hoá lại tạo ra cơ sở vật chất để làm
biến đổi căn bản lực lượng sản xuất, nâng cao vai trò của lực lượng sản xuất nhờ đó
cũng làm nâng cao vai trò của người lao động.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công chính là khối liên minh vững chắc giữa giai

cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức. Nhưng khối liên minh này
cần phải được củng cố và phát triển đi lên chứ không thể chỉ là khối ô hợp. Nền
kinh tế tăng trưởng và phát triển là nhờ thành tựu công nghiệp hoá mang lại, là cơ

7

sở kinh tế để càng gia cố vững chắc thêm khối liên minh. Ngoài ra quá trình công
nghiệp hoá đã góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy
quản lý kinh tế của Nhà nước.
Quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế.
Sự công nghiệp hoá đất nước thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát
triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh
tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng các miền trở lên thống nhất cao
hơn. Công nghiệp hoá không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại hoá
nền quốc phòng an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự nghiệp
phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội. Thành tựu công nghiệp hoá tạo ra tiền đề kinh tế
cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hoá xã hội, quốc phòng và an
ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố
quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nước ta
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường, thực tiễn cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu
khoa học công nghệ trước hết là nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng
hiệuq ủa, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra công


8

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp cũng chính là phát triển lực lượng sản xuất,
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.Trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản
xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình cải biến lao động thủ
công lạchậu thành lao động sử dụng máy móc tức là phải cơ khí hoá nền kinh tế
quốc dân. Nền nông nghiệp với kỹ thuật thủ công, lao động chân tay thì không thể
gọi là nền nông nghiệp phát triển được, nhất là nền nông nghiệp đó lại phải gánh
trên vai cả một nền kinh tế. Nông nghiệp lạc hậu làm cho đời sống của nhân dân
nghèo đói bởi kinh tế Việt Nam sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp, 80% dân cư
làm nông nghiệp đã khiến cho đất nước càng ngày càng thụt lùi không phát triển.
Bởi vậy Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu là phải chuyển đổi căn bản từ nền
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đưa đất nước trở thành một nước
công nghiệp hoá. Nhưng cách mạng công nghiệp không chỉ là chuyển đổi cơ cấu
thủ công sang cơ khí mà phải gắn liền với điện khí hoá và tự động hoá sản xuất từng
nước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra thị trường cũng là một yếu tố
vô cùng quan trọng trong lĩnh vực tiêu thụ hàng hoá nông sản phẩm. Vì vậy phải
thúc đẩy hình thành và mở rộng các loại thị trường bao gồm thị trường sản phẩm,
ngoài ra còn phải có các loại thị trường như thị trường vốn, lao động, công nghệ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành
công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động các ngành công
nghiệp. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn,
bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù

9

hợp, xây dựng nền dân chủ công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn. Đất nước ta phần lớn là lao động

trong nông nghiệp cơ cấu khu vực I quá lớn trong khi đó khu vực II lại quá nhỏ bé.
Lao động trong nông nghiệp dư thừa thường không biết làm gì dẫn đến l•ng phí tài
nguyên con người. Vì vậy mục tiêu chính quan trọng nhất là phải thu hẹp lực lượng
sản xuất trong nông nghiệp bằng cách đưa máy móc thiết bị vào thay thế một số vị
trí lao động của con người. Máy móc hiện đại làm tốn ít nhân lực hơn, con người
lao động cũng được giám bắt khối lượng công việc từ đó tăng nhanh lực lượng lao
động của các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn bảo vệ môi
trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp cũng là
nội dung chính của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Nếu chỉ
biết đưa máy móc thiết bị hiện đại vào trong sản xuất nông nghiệp thì sẽ làm hỏng,
l•ng phí máy móc khi cơ sở hạ tầng không phù hợp. Vì vậy song song với cải tiến
máy móc thiết bị là xây dựng cơ sở vật chất đầy đủ và hiện đại.Nhưng phát triển
nông thôn không chỉ là sự phát triển đại trà tất cả các vùng, miền mà phải chọn ra
từng khu vực trọng điểm. Những khu vực trọng điểm phải phù hợp với từng ngành
như nông, lâm, thuỷ sản từ đó có những chiến lược phát triển những ưu điểm từng
vùng để những ưu điểm đó phát huy phát triển các ngành nghề. Các ngành nghề
được ưu tiên phát triển nhất là các ngành nghề thủ công gia truyền nhưng vấn đề
môi trường cũng lại được đặt ra cấp thiết. Một ví dụ đơn giản là làng gồm Bát
Tràng, là một làng nghề cổ truyền lâu đời, sản phẩm hàng hoá được bán rộng rãi
nhưng vài năm trước khi chưa áp dụng phương pháp nung bằng gas mà nung gốm

10

bằng than gây nên ô nhiễm cho cả một vùng rộng lớn.Nếu biện pháp nung gốm
bằng gas không kịp thời ra đời thì cả làng nghề sẽ bị ô nhiễm bởi khói than và bụi
gây nên căn bệnh về phổi. Bởi vậy phát triển nông thôn bảo vệ làng nghề cũng phải
song hành với bảo vệ môi trường sinh thái. Có như thế mới vậy dụng được một nền
dân chủ, công bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân ở nông thôn.

B. Thực trạng và định hướng giải pháp
1. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nước ta hiện nay
Đối mặt với thực trạng nông nghiệp nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đ• nhận
ra một số mặt yếu kém, một số thực trạng vẫn tồn tại song hành cùng với sự phát
triển của nông thôn. Hiện nay sản xuất nông nghiệp ở nước ta phổ biến còn trong
tình trạng phân tán, đơn lẻ, thiếu sự phối hợp nên chất lượng sản phẩm không đồng
nhất, thu gom và vận chuyển khó khăn giá thành cao. Trong cùng một sản phẩm
luôn có sự cạnh tranh, sự tranh chấp về lợi ích giữa người sản xuất, thu gom với
người chế biến, tiêu thụ và người chịu thiệt cuối cùng lại chính là người nông dân.
Đó cũng chính là sự bất cập trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Cho đến nay trình độ công nghiệp nông thôn còn ở trạng thái manh nha, yếu ớt,
kinh tế nông thôn còn ở trạng thái manh nha, yếu ớt, kinh tế nông thôn còn nặng
tính thuần nông. Những khảo sát của những thập kỷ gần đây, ở nhiều vùng của đất
nước cho thấy cơ cấu lao động trong nông nghiệp hầu như không thay đổi. Ngoài ra
do cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp kéo dài làm cho không ít người lao
động đã quen với tâm lý ỷ lại, trông chờ thiếu nhạy bén khi phải đối mặt với việc
làm và thu nhập khi chuyển sang kinh tế thị trường.

11

Về phương diện quản lý tổng thể nền kinh tế, các chính sách công nghiệp hoá hầu
như chưa quan tâm xử lý tổng thể và hợp lý mối quan hệ giữa nông thôn và thành
thị. Trong nhiều thập kỷ, chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên thực tế
chưa có tác động tích cực cho việc tăng cường mối liên kết giữa thành thị và nông
thôn. Trong những giải pháp tiến hành, chưa đặt đúng vai trò ngành nghề và công
nghiệp nông thôn như một khâu trung gian để qua đó thực hiện chuyển giao công
nghệ, một mặt công nghiệp tác động vào nông nghiệp, mặt khác các hoạt động nông
nghiệp hoặc mang tính nông nghiệp có thể chuyển dần sang công nghiệp. Có thể nói
đây chính là khuyết tật cơ cấu cả về phương diện ngành lẫn l•nh thổ, là khâu ách tắc
của quá trình công nghiệp hoá. Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân hạn chế khiến

sau nhiều thập kỷ tiến hành công nghiệp hoá đến nay về cơ bản Việt Nam vẫn còn
là một nước nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp. Nếu thời gian tới thiếu những
thể chế và giải pháp thiết thực thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn phát triển, thì
tăng trưởng kinh tế nông thôn và kinh tế Việt Nam nói chung sẽ khó có sự phát triển
bền vững.
Nghiên cứu nhiều vùng cụ thể ở nhiều vùng cũng cho thấy, công nghiệp nông thôn
ở Việt Nam có trình độ công nghệ và dịch vụ thấp hơn rất nhiều so với thành
phố.Trên thực tế công nghiệp được xây dựng ở nông thôn hiện nay chủ yếu dùng
công nghệ cũ được thải loại từ các vùng đô thị mang vào.
Là một bộ phận của kinh tế nông thôn, hoạt động của công nghiệp nông thôn chịu
tác động của sản xuất nông nghiệp mang tính chu kỳ, việc cung cấp nguyên liệu và
sử dụng lao động trong năm có sự biến động khá lớn. Số lượng làm việc trong các
cơ sở công nghiệp nông thôn phụ thuộc vào thời vụ, nếu vào vụ mùa hoặc đi cấy, đi

12

gặt lực lượng lao động giảm mạnh rõ rệt. Người nông dân luôn coi công việc chính
của mình là làm ruộng vì vậy khó có thể bảo họ đi làm khi công việc làm ruộng
chưa làm xong. Cũng tương tự như vậy nguyên liệu cung ứng cho các cơ sở chế
biến liên quan chặt chẽ với thời kỳ thu hoạch cây trồng lương thực thực phẩm chỉ
tồn tại theo từng mùa của nó, vì vậy các cơ sở chế biến nông sản phẩm cũng phải
hoạt động tương tự như vậy. Nhà máy, công nhân phải làm việc hết công suất khi
vụ thu hoạch tới gần, còn lại phải làm việc cầm chừng khi qua mùa thu hoạch. Do
vậy không ít hộ gia đình côn nghiệp nông thôn phải dành toàn bộ thời gian của lao
động gia đình cho hoạt động nông nghiệp trong lúc thời vụ khẩn trương.
Do thiếu vốn đầu tư sản xuất mà khả năng của người nông dân cũng có hạn do
không được đào tạo một cách chính quy và cơ bản nên ở hầu hết các địa bàn nông
thôn các quá trình sản xuất và chế biến đều trải qua nhiều công đoạn nhỏ và phân
tán. Sản xuất theo quy mô nhỏ, đơn sơ, thủ công là chính thì các hộ gia đình khó có
điều kiện có được công nghệ tinh chế tốt nhất bởi vậy chất lượng sản phẩm mới trở

nên thấp kém, không đủ tiêu chuẩn phân phối trong nước hoặc xuất khẩu ra nước
ngoài. Ngoài ra nếu sản phẩm được mang ra xuất khẩu cũng chỉ được bán với giá rẻ
mạt, chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam mới thường xuyên bị kiện bán phá
giá.
Để sản xuất kinh doanh có hiệu quả chất lượng nhưng nó cũng chỉ là một trong
những yếu tố quyết định sự thành công của các doanh nghiệp, ngoài ra còn một yếu
tố vô cùng quan trọng nữa đó là giá thành sản phẩm. Giá thành của một sản phẩm
còn được coi là yếu tố cơ bản nhất trong cạnh tranh giữa các công ty với nhau. Các
doanh nghiệp khi muốn tăng lợi nhuận kinh doanh, tăng khối lượng sản phẩm bán

13

ra nhưng khách hàng lại cực kỳ khó tính. Họ luôn muốn mua được những hàng hoá
rẻ nhất, chất lượng thì tốt nhất, vì vậy phá giá thành là đánh đúng tâm lý của người
tiêu dùng. Nhưng không phải cứ giảm thật mạnh giá mà không quan tâm tới lợi
nhuận của doanh nghiệp. Giảm giá quá thấp thì chỉ bán được sản phẩm nhiều thì
doanh nghiệp cũng không thể có lãi. Đối với các doanh nghiệp ở nông tôn thì cách
giảm giá duy nhất chỉ có thể là cải tiến trong lĩnh vực sản xuất. Phân định rõ và kết
hợp hài hoà các tầng lớp công nghệ trong tổ chức sản xuất sẽ tạo thuận lợi để xác
định quy mô vùng nguyên liệu gắn liền với việc sơ chế và kinh tế tập trung. Như
vậy doanh nghiệp sẽ tiết kiệm một lượng chi phí dùng cho vận chuyển hao mòn
máy móc ngoài ra còn tạo được việc làm cho số lao động nông thôn, đồng thời với
nâng cao chất lượng và hạ giá thành nông sản.
Một trong những tình trạng chung của công nghiệp nước ta hay nói cách khác là
những nước đang phát triển đó là mới bước đầu đi vào quá trình phát triển đất nước
phát triển nền kinh tế nên quá trình phát triển đó còn mang nặng tính tự phát, phân
tán tuỳ tiện với quy mô thì nhỏ bé. Vì vậy càng làm cho quá trình công nghiệp hoá
nông thôn trở nên khó khăn hơn. Do dân trí của con người nông thôn thấp, không
được đào tạo cụ thể để có những hiểu biết nhất định nên hậu quả tất yếu là càng
phát triển mạnh công nghiệp nông thôn thì mức độ ô nhiễm môi trường càng trở nên

trầm trọng. Chất thải công nghiệp không được xử lý được thải bừa bãi ra môi
trường, sông ngòi gây nên ô nhiễm ngày một trở nên trầm trọng hơn. Hoá chất
không được xử lý đổ thẳng ra ngoài lỗi chủ yếu là do ý thức của con người quá
kém. Tự họ tự chọn cho mình một cuộc sống đầy bệnh tật nghèo đói. Lúc nào cũng
đối mặt với nguy cơ nhiễm các bệnh hiểm nghèo, càng ngày sự ô nhiễm càng trở

14

nên trầm trọng vượt quá tầm kiểm soát của con người. Nhưng đứng trước thảm hoạ
sinh học như vậy con người lại thản nhiên cho qua, tiếp tục những hành động phá
huỷ môi trường mà không chút do dự hay phàn nàn. Tín hiệu SOS báo động đang
rung lên cảnh báo những con người đang hàng ngày phá huỷ môi trường tự nhiên.
Mặt khác Nhà nước cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình công
nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nhưng do chưa được sự quan tâm giúp đỡ có
hiệu quả vì vậy mà nông thôn vẫn chưa tiếp cận được với trình độ phát triển của
thành thị. Chính phủ luôn kêu gọi các vùng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tư, đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất cho quá trình công nghiệp hoá. Những chính
sách khuyến khích mà các vùng đưa ra cũng không thu hút được tiềm năng đầu tư ở
bên ngoài. Ngoài ra một số vùng còn mất trật tự an ninh an toàn cho người lao động
cho công nhân vì vậy sẽ gây tâm lý lo ngại cho những nhà đầu tư muốn đầu tư vào
phát triển công nghiệp. Có rất nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, vì vậy làm
sao để huy động được nguồn vốn đó là cả quá trình lâu dài tạo niềm tin cho các nhà
đầu tư.
Khi các nhà đầu tư trở nên tin tưởng thì họ sẵn sàng đầu tư nguồn vốn của mình khi
đó vừa phát triển được công nghiệp của vùng đó lại vừa tạo điều kiện việc làm cho
lao động dư thừa rỗi trong vùng.
Trong những thập kỷ gần đây Việt Nam đã có những bước đi quan trọng đưa nền
kinh tế phát triển đi lên.Nhưng song hành cùng với đó là những khó khăn, những sai
lầm cần phải khắc phục. Vấn đề trọng tâm là phải có một chính sách phù hợp để
đưa đất nước phát triển đi lên sánh tầm cùng với các nước trên thế giới.


15

Một số thành tựu to lớn của các nước trong khu vực đã cho Việt Nam rất nhiều kinh
nghiệm quý báu phục vụ đắc lực cho nền kinh tế Việt Nam. Như Trung Quốc là một
ví dụ điển hình bởi Trung Quốc là quốc gia đất rộng, người đông nhưng họ lại có
những thành tựu to lớn về nông nghiệp trong thời kỳ cải cách. Đó là sự phát triển
của công nghiệp thành thị và công nghiệp nông thôn (còn gọi là các xí nghiệp
hương trốm). Trong thời kỳ cải cách, công nghiệp nông thôn mang đặc thù Trung
Quốc phát triển mạnh đã thu hút 100 triệu lao động nông thôn, tạo ra giá trị sản
phẩm công nghiệp nông thôn vượt giá trị sản lượng nông nghiệp, làm cho nhiều
làng quê trở nên giàu có trù phú nhờ các xí nghiệp hương trốm. Từ đó ta có thể thấy
rằng, trong điều kiện đặc thù của các nước châu á, nông nghiệp thực sự là điểm tựa
của công nghiệp hoá nông thôn. Để phát triển công nghiệp hoá nông thôn, các nước
như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và ngay cả Trung Quốc đã đẩy mạnh cơ giới
hoá hiện đại hoá nông nghiệp và đã thành công trong lĩnh vực này họ đã sáng tạo ra
thiết bị công nghệ thích hợp với phương thức sản xuất lúa Châu á và với quy mô
trang trại gia đình nhỏ bé. Các nước này đã đưa công nghiệp vào nông thôn, tăng
thu nhập cho nông dân tạo ra nguồn vốn đầu tư cho cơ giới hoá, các nước này còn
tìm cách tạo việc làm tại chỗ để thu hút lao động thừa, nhất là do cơ giới hoá tạo ra.
Các thành tựu mà các nước đi trước để lại là những kinh nghiệm quý báu cho một
nước nhỏ như Việt Nam học tập. Cố gắng ứng dụng vào đất nước để đạt được
những thành tựu như vậy là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
2. Định hướng và các giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn
a. Định hướng tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn

16

Để phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra những định hướng cụ thể nhằm đưa đất nước đi đúng con đường

của nó. Mục tiêu tổng quát và lâu dài là giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo,
nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn, đưa nông thôn
nước ta tiến lên văn minh hiện đại, gắn liền nền kinh tế hiện đại trong một thể thống
nhất. Muốn vậy phải xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để lực lượng sản xuất
phát triển mạnh tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý, năng suất, sản xuất và lao động cao,
khả năng cạnh tranh hàng hoá mạnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định
phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 là cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để
thực hiện được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra những mục tiêu phù hợp với
tình hình đất nước. Đầu tiên phải phát triển toàn diện nông lâm ngư nghiệp, hình
thành nên các vùng tập trung chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi,
có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về
lương thực trong xã hội đáp ứng được yêu cầu của công nghệ chế biến của thị
trường trong và ngoài nước. Ngoài ra phải phát triển công nghiệp chế biến nông
lâm thuỷ sản, với công nghệ ngày càng cao gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết
với công nghiệp ở đô thị. Bên cạnh đó phải phát triển các ngành nghề, làng nghề
truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm: tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các
nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ, phục vụ sản xuất và đời

17

sống nhân dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cũng phải được xây dựng, củng cố và
đổi mới, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh và hiện đại.
Định hướng cuối cùng đó là hoàn thành cơ bản việc giao đất giao rừng cho hộ nông
dân. Có chính sách hợp lý trợ giúp, khuyến khích nông dân giải quyết khó khăn về
vốn, giá cả vật tư nông nghiệp, thị trường tiêu thụ sản phẩm việc Đại hội Đảng lần
thứ VIII đề ra định hướng lớn có tính chất chiến lược và những nội dung cơ bản về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nước ta trong thời gian phát triển kinh tế

xã hội đất nước, là một trong những tiền đề có ý nghĩa quyết định đối với nước ta
khi tiến vào thế kỷ XXI.
b. Giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn nước ta hiện nay
Để hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, khắc
phục những khó khăn trước mắt, Đảng và Nhà nước đã đưa ra những giải pháp cơ
bản để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn.
Đầu tiên phải phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Đối với cây lương thực phải xây dựng các vùng sản xuất lúa tập trung ở các khu
vực đồng bằng rộng lớn, sử dụng các giống mới có năng suất chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu của thị trường, áp dụng các biện pháp đồng bộ để hạ giá thành và đảm
bảo chất lượng. Đối với cây công nghiệp, thực phẩm phải thường xuyên nghiên cứu
các loại công nghệ sinh học tiên tiến để lai tạo và nhân giống để sản xuất ra giống
cây trồng có năng suất chất lượng cao cung ứng đủ cho nhu cầu sản xuất, thực hiện
cơ giới hoá các khâu sản xuất trứơc hết là khâu nặng nhọc, độc hại, thời vụ khẩn
trương, cơ giới hoá các khâu sau thu hoạch để nâng cao năng suất lao động, phát

18

triển các cơ sở công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu. Hướng dẫn, khuyến
khích và hỗ trợ các cơ sở ngành nghề thôn thôn sử dụng máy móc, công cụ cải tiến,
thực hiện cơ khí hoá các khâu sản xuất nâng cao năng suất và chất lượng, hạ giá
thành để có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường trong nước và quốc tế. Nhà nước
cũng đóng một phần vô cùng quan trọng khi đưa ra những chính sách hỗ trợ,
khuyến khích phát triển mạnh các ngành công nghiệp về nông thôn để thu hút và
thực hiện việc phân công lao động ngay trên địa bàn, trước hết là các ngành sử dụng
nguyên liệu tại chỗ, cần nhiều lao động như: chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất
vật liệu xây dựng…. Hình thành ngay từ đầu các khu công nghiệp ở nông thôn gắn
kết ngay từ đầu lợi ích kinh tế giữa người sản xuất nguyên liệu với các cơ sở thu
mua chế biến kinh doanh nông lâm thuỷ sản.

Phải xây dựng được mối quan hệ sản xuất phù hợp kinh tế hộ nông dân và nền kinh
tế nhiều thành phần tồn tại lâu dài trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn. Mọi thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng và đều
được phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện
thuận lợi để kinh tế hộ gia đình phát triển, quy mô sản xuất hàng hoá ngày càng lớn
và phát triển kinh tế trang trại. Khuyến khích hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh
tế hợp tác xã trên cơ sở liên kết hợp tác tự nguyện giữa các hộ gia đình và các trang
trại bằng nhiều hình thức, nhiều quy mô nhiều cấp độ đa dạng để nâng cao hiệu quả
kinh tế hộ gia đình và kinh tế xã hội nông thôn. Hợp tác xã phải tập trung tìm đầu
vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tổ chức thực hiện tốt việc quy hoạch và
hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa học công nghệ mới, chuyển đổi cơ cấu sản
xuất. Nhà nước hỗ trợ hợp tác xã đào tạo cán bộ và có chính sách thúê phù hợp đối

19

với các hoạt động dịch vụ. Phát triển quỹ tín dụng nhân dân ở xã để phát triển nông
nghiệp nông thôn.
Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh các ngành nghề truyền
thống đa dạng và phong phú. Đây là lực lượng quan trọng có khả năng thu hút được
nhiều lao động, tăng năng lực chế biến tiêu thụ nông sản, dịch vụ kỹ thuật và đời
sống nông thôn. Cần có chính sách phù hợp và bình đẳng với các thành phần kinh tế
khác nhau, nhất là các chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng…
Phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hoá nông thôn. Nhà nước ưu tiên phát triển hệ
thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng tài nguyên nước, khai thác lưu vực sông để cấp
nước cho sản xuất nông nghiệp nuôi trồng thuỷ sản, phòng chống và giảm nhẹ thiên
tai. Trong xây dựng và quản lý các công trình thuỷ lợi, áp dụng các công nghệ tiên
tiến, công nghệ tưới kết kiệm nước thựchiện xã hội hoá đầu tư và quản lý công trình
thuỷ lợi, phát triển các tổ chức hợp tác sử dụng nước và quản lý thuỷ nông của nông
dân.
Nhà nước cũng phải có các chính sách thoả đáng cùng với các địa phương và đóng

góp của dân phát triển nhanh hệ thống giao thông nông thôn đảm bảo hàng hoá và
đi lại cho dân. Nâng cấp tuyến đường đã có nơi giao thông là cầu nối thôn với
thành thị, phải có giao thông thuận lợi thì việc vận chuyển hàng hoá từ vùng này tới
vùng kia mới được cải thiện rõ rệt, từ đó hình thành nên các vùng công nghiệp lớn ở
nông thôn. Ngoài ra điện cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng để vận hành máy
móc, thiết bị vì vậy phải phát triển hệ thống điện nông thôn các dịch vụ bưu chính
viễn thông và các điểm văn hoá đến hầu hết các xã, cung cấp có hiệu quả chất
lượng cao cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn.

20

Công tác quy hoạch phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu bởi công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn phải được tiến hành theo từng vùng để phát triển
theo một hướng cụ thể; chứ không thể phát triển một cách nhỏ lẻ theo từng quy mô
gia đình nhỏ. Đặc biệt phải chú trọng làm tốt các quy hoạch vùng sản xuất hàng
hoá tập trung theo hướng sản xuất lớn. Ngoài ra phải có một chính sách thoả đáng
để quy hoạch cơ sở hạ tầng và đô thị, quy hoạch bố trí lại dân cư, xây dựng làng xã
nhưng phải gắn với bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Nhiệm
vụ của các cấp chính phủ được đặt ra hết sức nặng nề khi phải làm tốt quy hoạch,
định hướng phát triển, chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, phát triển
các dịch vụ công cộng đảm bảo ổn định chính trị, an ninh trật tự xã hội, chỉ có như
thế mới thu hút được đầu tư vào các vùng ở nông thôn.
Nước ta là một nước có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, kinh phí không đủ để theo
đuổi các dự án nghiên cứu khoa học vì vậy phải đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng
dụng và chuyển giao khoa học công nghệ và coi đây là khâu đột phá quan trọng
nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học,
nhất là cơ chế quản lý tài chính và nhân sự để nâng cao hiệu quả kinh tế. Nhà nước
phải có chính sách đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp để sớm
hiện đại hoá hệ thống sản xuất đáp ứng tốt yêu cầu sản xuất hàng hoá lớn chất lượng

cao, tạo điều kiện hình thành các trung tâm nghiên cứu khoa học ứng dụng mạnh có
đủ năng lực để đưa ra những đột phá về khoa học công nghệ. Có chính sách khuyến
khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển khoa học công nghệ. Nhà nước

21

dành phần kinh phí thoả đáng để nhập khẩu công nghệ tiến bộ của nước ngoài,, nhất
là các loại giống mới , máy móc thiết bị… phục vụ kịp thời sản xuất.
Thực hiện một số chính sách liên quan trực tiếp đến phát triển nông nghiệp nông
thôn các chính sách về đất đai như Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nông dân
thực hiện đầy đủ các quyền về đất đai, sử dụng đất đai, chuyển nhượng quyền sử
dụng đất… các chính sách về đầu tư như Nhà nước phải biết cân đối các nguồn vốn
để ưu tiên đầu tư thích đáng để phát triển nông lâm, ngư nghiệp và điều chỉnh cơ
cấu đầu tư theo hướng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp
nông thôn. Ngoài ra Nhà nước phải thực hiện các chính sách về tín dụng, các chính
sách về thuế, về lao động và việc làm, về thương mại và hội nhập kinh tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn không chỉ là sự nghiệp
riêng cá nhân ai khác mà là sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân, của các thành phần
kinh tế. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chỉ đạo điều hành tổ
chức thực hiện sâu sát cụ thể quyết liệt của Chính phủ và các cấp, các ngành. Phải
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn - nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
III. kết luận
Ngay từ những ngày đầu giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã xác định
được mục tiêu chính của đất nước là hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước trong đó công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn là một mắt xích vô
cùng quan trọng. Nó đã xoá đi ranh giới khoảng cách giữa thành thị, nông thôn, nối


22

liền kinh tế các vùng với nhau. Trong nhiều năm nền kinh tế đã đạt được những
thành tựu vô cùng quan trọng đưa nền kinh tế đất nước tiến lên thoát khỏi đói nghèo
từng bước xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Nhưng bên cạnh đó cũng
xuất hiện những khó khăn vất vả, những vướng mắc yếu kém nhất định. Xác định
đúng những tồn tại để khắc phục tồn tại đó dần dần hoàn thiện quá trình công
nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Các chính sách được Chính phủ đưa ra càng
củng cố hơn quyết tâm xây dựng một nông thôn vững mạnh. Một nền nông nghiệp
cơ khí hoá, điện khí hoá, là điểm tựa vững chắc cho nền công nghiệp hoá toàn đất
nước phát triển đi lên. Dần dần đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển xứng
tầm với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Đó là mong muốn không chỉ
của Đảng, Nhà nước mà là của toàn dân tộc.

×