MỤC LỤC
A.ĐẶT VẤN ĐỀ trang 1
A.ĐẶT VẤN ĐỀ.
Một thời chưa xa, chúng ta lúng túng trong nền kinh tế chỉ thừa nhận
hai thành phần là quốc doanh và tập thể. Và không ít người cho rằng, chỉ có
như vậy mới thực sự là xã hội chủ nghĩa. Chúng ta không phê phán một cách
phi lịch sử, nhưng quan trọng là đã nhận ra những lẽ cần thiết của sự tồn tại
hai thành phần kinh tế đó và những hạn chế làm kìm hãm sự phát triển của đất
nước khi thực hiện nền kinh tế chỉ có hai thành phần như vậy để từ đó tìm ra
cách làm ăn mới phù hợp với quy luật phát triển. Từ Đại hội VI (1986), Đảng
ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới kinh tế, phát triển
các thành phần kinh tế với nhiều hình thức rất phong phú, đa dạng và sáng tạo
dựa trên các chính sách của nhà nước . Nhờ đó, chỉ sau hơn 10 năm, vẫn
những con người ấy, cũng những điều kiện tự nhiên ấy, từ một đất nước
nghèo nàn lạc hậu, trông chờ chủ yếu vào sự viện trợ từ bên ngoài trở thành
một nước dang phát triển với kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại , nền kinh tế
– xã hội sôi động.Nhận thức được tính ưu việt của việc đổi mới nền kinh tế
nhiều thành phần cùng với các chính sách của nhà nước , tôi xin chọn đề tài:
“Chính sách của nhà nước đối với các thành phần kinh tế theo pháp luạt hiện
hành” để minh chứng cho nhận định đó.
Do sự hiểu biết còn hạn chế ,bài viết còn nhiều thiếu sót rât mong nhận
được sự thông cảm và góp ý của thầy(cô) để bài viết hoàn thiện hơn.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái niệm cơ bản.
1\ Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế hoặc kiểu quan hệ kinh tế được
đặc trưng bởi một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Mỗi thành phần kinh tế đều tương ứng với một kiểu quan hệ sản xuất, kiểu
quan hệ kinh tế nhất định.Thành phần kinh tế tồn tại trên cơ sở của những
hình thức tổ chức kinh tế nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản xuất nào
thống trị để xác định từng thành phần kinh tế.
Thành phần kinh tế và phương thức sản xuất có sự trùng hợp về các yếu tố
cấu thành, tuy cũng có một số điểm khác nhau
Căn cứ để phân chia nền kinh tế nhiều thành phần:
- Căn cứ vào hình thức, tính chất của quan hệ sở hữu nào thống trị để xác định
từng thành phần kinh tế.
- Căn cứ vào tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất
- Căn cứ vào tính chất quản lý, phân phối
- Căn cứ vào tính chất lao động của nó
Ngày nay đất nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xác
định các loại hình sở hữu và phân định các thành phần kinh tế là cần thiết để
làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói chung và cho
việc cho việc phát triển từng thành phần kinh tế nói riêng nhầm không phải để
phân biệt đối sử mà là để có chính sách đúng giải phóng mọi năng lực sản
xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Chính sách đối với các thành phần kinh tế là một bộ phận trong chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách có thể mang
tính đường lối , chiến lược lâu dài có tính sách lược ngắn hạn . Chính sách về
các thành phần kinh tế được xây dưng trên cơ sở , những điều kiện kinh tế xã
hội ủa đất nước và nhưng xu hướng phát triển của xã hội. (Trích từ điển bách
khoa Việt Nam ,t1.sdđ ,trang 477)
2| Định nghĩa về các thành phần kinh tế
Nghị quyết tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và X của Đảng đã xác định
các thành phần kinh tế ở nước ta là:
* Kinh tế nhà nước
* Kinh tế tập thể
* Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân..)
* Kinh tế tư bản nhà nước
* Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
1- Kinh tế nhà nước: là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân (sở
hữu nhà nước) việc tổ chức sở hữu kinh doanh được tiến hành theo nguyên
tắc hạch toán kinh tế và thực hiện phân phối theo lao động.
Kinh tế nhà nước bao gồm các bộ phận
* Các doanh nghiệp nhà nước: là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước
hoặc là những doanh nghiệp có phần, trong đó vốn của nhà nước chiếm tỷ
trọng khống chế. Doanh nghiệp nhà nước được chia làm hai loại là doanh
nghiệp kinh doanh và doanh nghiệp công ích. Doanh nghiệp nhà nước là bộ
phận chính chủ yếu của kinh tế nhà nước
* Các tổ chức kinh tế của nhà nước: Như ngân sách nhà nước; ngân
hàng nhà nước; kho bạc nhà nước,các quỹ dự trữ quốc gia
* Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước nhận được lợi ích
kinh tế do các quyền sở hữu mamg lại.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo và mỗi một chế độ xã hội đều dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định
,nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì thế kinh
tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
2. Thành phần kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể là một hình thức tổ chức kinh tế cả những nhười lao
động sản xuất nhỏ (bao gồm nông dân , thợ thủ công, người buôn bán và dịch
vụ nhỏ ) dựa trên sự liên kết kinh tế (sức lao động , vốn, tư liệu sản xuất )
theo nguyên tắc tự ngyện , dân chủ , cuungf có lợi ở nhưng mức độ khác nhau
để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề trong sản xuất , kinh doanh bảo
đảm lợi ích của từng thành viên . Những người lao động tự nguyện góp những
tư liệu sản xuất chủ yếu , góp vốn , lao động tập thể có phân công , ăn chia
theo nguyên tắc phân phối theo lao động . Họ cũng có thể chỉ góp vốn (cổ
phần) , lao động hợp tác ở một khâu , vừa ăn chia theo cổ phần vừa ăn chia
theo lao động đồng thời vẫn duy trì và phát triển các hoạt động kinh tế riên
của hộ
Việc làm ăn tập thể với các dạng và các mức độ như trên được tổ chức thành
các đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân , đó là các hợp tác xã nông
nghiệp , hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp , hợp tác xã dịch vụ , hợp tác xã kinh
doanh tổng hợp.
(Trích giáo trình luật hiến pháp Việt Nam 2009, Nxb.CAND)
3.Thành phần kinh tế cá thể , tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân
Kinh tế cá thể , tiểu chủ , tư bản tư nhân là kinh tế của nhưng người
không phải là các bộ ,công nhân , viên chức nhà nước tại chức hoắc xã viên
hợp tác xã , có vốn , tư liệu sản xuất , kĩ thuật chuyên môn và sức lao động
đứng ra sản xuất kinh doanh dưới các hình thức hộ cá thể , hộ tiểu thủ công
nghiệp ,xưởng cửa hàng , xí nghiệp tư nhân ( bao gồm nhưng tổ chức sản
xuất kinh doanh cùng tính chất như công ty tư doanh , công ty cổ phần, tổ hơp
tư doanh)
(Trích giáo trình luật hiến pháp Việt Nam 2009, Nxb.CAND)
4. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước là sự hợp tác để sản xuất kinh
doanh giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế và cá nhân trong và ngoài nước
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền ,bình đẳng và cùng có lợi.Những
tổ chức kinh tế này được hình thành trên cơ sở liên doanh về vốn, kĩ thuật, và
cùng điều hành trong sản xuất kinh doanh .
(Trích giáo trình luật hiến pháp Việt Nam 2009, Nxb.CAND)
5. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài .
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là những đơn vị kinh tế do nước
ngoài đầu tư vào nước ta với 100% vốn nước ngoài.
III. Chính sách của nhà nước đối với các thành phần kinh tế
1. Chính sách của nhà nước đối với thành phần kinh tế nhà nước
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan
trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và
công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp
luật. Để đạt được mục tiêu ấy một phần là nhờ các đơn vị kinh tế thuộc thành
phần kinh tế nhà nước có nhiều ưu thế như mức độ xã hội hóa cac nhất về tư
liệu sản xuất, có một lực lượng sản xuất tiến bộ ,cố điều kiên để áp dụng và
phổ biến sớm nhất các thành tựu của khao học và công nghệ .Tuy nhiên do
cơ chế quản lý con chưa phù hợp nên nhiều đơn vị kinh tế làm ăn thua lỗ .
Hiện nay để kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả nhà nước chủ trương
“thành phần kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển nhất là những
nghành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể
ngày cang trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”( điều 19
luật hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001). Với chủ trương áy nhà nước đã có
những chính sách cụ thể:
- Để kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả và giữ vai trò chủ đạo , ngày
20/4/1995 , quốc hội đã thông qua luật doanh nghiệp nhà nước (sưa đổi năm
2003) . Theo đó , nhà nước phải rà soát lại đối với các đơn vị kinh tế nhà
nước để tập trung đầu tư cho những ngành những lĩnh vực then chốt (như tập
đoàn điên lực Việt Nam, tập đoàn dầu khí …) chẳng hạn quyết định số 933
của Thủ tướng chính phủ ngày 04/11/1997 về việc xếp hạn đặc biệt doanh
nghiệp nhà nước đối với tập đoàn Lam sản Việt Nam .theo đó , tâp đoàn với
100% vốn đầu tư nhà nước sẽ chịu sư chi phối của nhà nước với các chính
sách cụ thể)
-Nhà nước chủ trương chấn chỉnh và tổ chúc lại sản xuất kinh doanh trong
lĩnh vực kinh tế nhà nước .Đối với những xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua
lỗ phải chuyển hóa hình thúc sở hữu để sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất
như chuyển thành xí nghiệp cổ phẩn hoặc cho đáu thầu ,cho thuê. Để làm tốt
công tác đó , Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, địa
phương phải báo cáo tình hình và phương án sắp xếp các doanh nghiệp Nhà
nước thua lỗ, kém hiệu quả. Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các bộ,
ngành, địa phương có nhiệm vụ tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát đối
với doanh nghiệp Nhà nước để kịp thời phát hiện và xử lý có hiệu quả những
vấn đề nảy sinh. Hàng năm tiến hành sơ kết, đánh giá hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp Nhà nước, khen thưởng kịp thời những người có thành tích,
đồng thời xử lý nghiêm minh các cá nhân có sai phạm.
Đến nay đã tiến hành sắp xếp 49 doanh nghiệp, trong đó có 23 doanh
nghiệp đã có quyết định cổ phần hóa; sáp nhập 2 doanh nghiệp; chuyển
sang Công ty TNHH một thành viên 14 doanh nghiệp, chuyển sang đơn vị
sự nghiệp 4 doanh nghiệp; phá sản 3 doanh nghiệp; đã chuyển 1 Tổng
Công ty và thành lập 1 Tổng Công ty khác hoạt động theo mô hình công ty
mẹ - công ty con. Tính đến nay, đã có quyết định cổ phần hóa 253 doanh
nghiệp.