Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Chính sách của nhà nước đối với các thành phần kinh tế theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.56 KB, 12 trang )

MỤC LỤC Trang
A. Đặt vấn đề 1
B. Giải quyết vấn đề 1
1, Khái niệm 1
2. Mục đích phát triển kinh tế của nhà nước 2
3,Các thành phần kinh tế của nước ta trong thời kì quá độ 2
đi lên chủ nghĩa xã hội
3.1 :Thành phần kinh tế nhà nước 2
3.2: Thành phần kinh tế tập thể 4
3.3: Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân 5
3.4: Thành phần kinh tế tư bản nhà nước 6
3.5: Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7
4. so sánh chính sách của nhà nước theo hiến pháp 1992 9
và hiến pháp trước đó
C. Kết thúc vấn đề 9
1
A. Đặt vấn đề:
Đảng và Chính phủ đã xác định phát triển nền kinh tế của đất nước ta
theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa . Những cuộc khủng
hoảng kinh tế gây ảnh hưởng lan toả hầu hết thế giới cùng những giải pháp
cơ bản mà các nước đang sử dụng với hi vọng ngăn ngừa kết cục bi thảm về
kinh tế- xã hội do khủng hoảng gây ra khiến chúng ta thấy tính phi lý của
"thị trường tự do". Từ rất sớm, chúng ta đã khẳng định nền kinh tế mà ta
đang xây dựng phải có" sự quản lí của nhà nước". Những thành tựu và tồn
tại của nền kinh tế của nước ta trong thời gian qua chủ yếu phụ thuộc vào
chính sách của nhà nước, cơ chế quản lí của nhà nước. Hiến pháp 1992 đã
nêu rõ sự cần thiết của việc" thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa", bảo đảm vai trò quản lí, điều tiết nền
kinh tế của nhà nước. Nghiên cứu về đề tài" Chính sách của nhà nước đối
với các thành phần kinh tế theo pháp luật hiện hành", em xin đưa ra một số ý
kiến và sự tìm hiểu nông cạn sau.


B. Giải quyết vấn đề
1. Khái niệm
Theo Mác-Lênin, trong thời kì quá độ, thành phần kinh tế là" những
mảnh, những bộ phận" của một kết cấu kinh tế xã hội. Nói cách khác, thành
phần kinh tế là một kiểu quan hệ kinh tế được hình thành trên cơ sở hình
thức sở hữu này hay hình thức sở hữu khác. Trên cơ sở các ba chế độ sở hữu
ở nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất hiện các thành phần
kinh tế:
· Kinh tế nhà nước
· Kinh tế tập thể
2
· Kinh tế các thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân
· Kinh tế tư bản nhà nước
· Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Các thành phần kinh tế này đan xen, tác động lẫn nhau và đều chịu sự
quản lí chặt chẽ của nhà nước.
2. Mục đích phát triển kinh tế của nhà nước
Mục đích phát triển kinh tế của nhà nước do bản chất của nhà nước quy
định. Đối với nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi chính
sách và phát triển kinh tế của nhà nước đều nhằm phục vụ cho lợi ích của
nhân dân lao động. Điều 9 hiến pháp 1959, nhà nước ta đã xác định mục
đích chính sách kinh tế của nhà nước là không ngừng phát triển sức sản xuất
nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Điều 15 hiến
pháp 1980, mục đích đó được xác định là" thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu
cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của xã hội" . Hiến pháp 1992 trên cơ
sở kế thừa những quy định của các hiến pháp trước đó, khẳng định mục tiêu
phát triển kinh tế của nhà nước:" làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân"(điều 1). Để
đạt được mục đích đó, nhà nước cần đề ra những chủ trương chính sách phù
hợp bảo đảm vai trò quản lí, điều tiết nền kinh tế.

3. Các thành phần kinh tế ở nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội
3.1: Thành phần kinh tế nhà nước
Hiện nay, để kinh tế nhà nước hoạt động có hiêụ quả, nhà nước chủ
trương:" củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt,
giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân"(điều 19 hiến pháp 1992). Để cụ thể hoá
chủ trương này, 20/4/1995, Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp nhà
3
nước(sửa đổi 2003)." Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước
sở hữu toàn bộ vốn, điều lệ hoặc có cổ phần vốn góp chi phối được chức
dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn"(điều 1). Theo đó nhà nước phải một mặt rà soát lại đối với các đơn vị
kinh tế nhà nước để tập trung đầu tư cho những ngành những lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế. Mặt khác nhà nước chủ trương chấn chỉnh và tổ chức
lại sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế nhà nước. Đối với những xí
nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ phải chuyển hoá hình thức sở hữu để sử
dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất như chuyển thành xí nghiệp cổ phần, đấu
thầu, cho thuê. Nhà nước cũng chủ trương để các cơ sở kinh tế quốc doanh
được quyền tự chủ trong sản xuất , kinh doanh để phát huy tính năng động
và hiệu quả của các đơn vị kinh tế.
Nhà nước trao quyền sử dụng, trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn
sản xuất kinh doanh cho các đơn vị nhằm bảo đảm quyền quản lí của nhà
nước với tư cách là người chủ sở hữu. Tám tập đoàn kinh tế cùng với 96
tổng công ty, công ty lớn của nhà nước sở hữu gần 400 000 tỷ đồng, chiếm
hầu hết vốn của nhà nước có tại các doanh nghiệp. Các tập đoàn và các công
ty đang nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, khoảng 65% tổng tín
dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài nhưng chỉ tạo ra
khỏang 40% tổng sản phẩm trong nước. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu của các đơn vị này là17% đến 28,8% thu ngân sách. Cuối năm 2007,

tổng số vốn của chủ sở hữu của các tập đoàn và tổng công ty tăng 18%, tổng
tài sản tăng 26%. Nói như vậy, ta thấy vai trò quản lí của nhà nước. Mặc dù
nền kinh tế có bước tăng trưởng nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề như nợ
nước ngoài, công nghệ lạc hậu…Nhưng với các ưu thế về vốn, tư liệu sản
xuất, các đơn vị nhà nước có điều kiện vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nắm
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Tại đại hội VII nêu ra:" kinh tế
4
nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành
nền tảng trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước dưới các hình thức khác nhau
tồn tại phổ biến". Vậy,theo chính sách của nhà nước, đây là nền kinh tế chủ
đạo
3.2: Thành phần kinh tế tập thể
Đây là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tập
thể là một hình thức tổ chức kinh tế của những người lao động sản xuất nhỏ
dựa trên sự liên kết kinh tế theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi
ở những mức độ khác nhau để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề
trong sản xuất kinh doanh bảo đảm lợi ích của từng thành viên . Kinh tế tập
thể được hình thành và phát triển trên cơ sở chế độ sở hữu tập thể là chủ yếu.
Thành phần kinh tế tập thể nước ta đã được hình thành từ sau hoà bình lập
lại ở miền Bắc. 1959, nhà nước đã thông qua Điều lệ hợp tác xã nông
nghiệp. Hiện nay, kinh tế tập thể vẫn được " nhà nước tạo điều kiện để củng
cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả"(điều20 hiến
pháp1992). Nhà nước khuyến khích các hợp tác xã tự nguyện liên kết thành
liên hợp tác xã hoặc liên doanh với các cơ sở kinh tế nhà nước, các thành
phần kinh tế khác. 20/3/1996, Quốc hội khoá IX đã thông qua luật hợp tác
xã. Trên cơ sở đó, 29/4/1997, Chính phủ đã ban hành các nghị định số
41,42,43… ban hành các điều lệ mẫu hợp tác xã thương mại, quỹ tín dụng
nhân dân, hợp tác xã nông nghiệp… để đổi mới tổ chức hoạt động của các
hợp tác xã nhằm bảo đảm các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ.
Kinh tế tập tể mà nòng cốt là hợp tác xã kiểu mới cần tiến tới đạt tỷ

trọng lớn hơn trong GDP của nền kinh tế. Nhà nước đóng vai trò quản lý,
điều tiết thông qua các chính sách cụ thể và luật hợp tác xã. Dưới nhiều hình
thức, trình độ khác nhau trong các lĩnh vực- nhất là trong nông nghiẹp nông
thôn- kinh tế hợp tác xã đang đáp ứng một phần nhu cầu của những người
5

×