Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

tổ chức và triển khai BHXHTN.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.97 KB, 11 trang )

LỜI NÓI ĐẦU :
Ở Việt Nam, BHXH đã có mầm mống từ thời phong kiến thuộc Pháp. Sau Cách mạng
tháng 8 năm 1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ( nay là Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam) đã quan tâm đến đời sống công chức và ban hành các sắc lệnh quy định các
chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân, viên chức Nhà nước ( thông qua Sắc
lệnh 29/SL ngày 12/3/1950, Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 và Sắc lệnh 77/SL ngày
22/5/1950). Từ đó đến nay chế độ BHXH này ngày càng được củng cố và hoàn thiện và áp
dụng bắt buộc đối với những người làm công hưởng lương.
Tuy nhiên xét về mặt xã hội ta thầy loại hình BHXH này chỉ áp dụng bó hẹp cho
những đối tượng có thu nhập ổn định. Trong khi đó xét về cơ cấu lao động nước ta cho thấy,
nông dân chiếm đa số bộ phận lao động, ngoài ra còn có một bộ phận nhỏ là những người
lao động tự do và các tiểu thương. Đặc điểm của bộ phận lao động này là thu nhập không ổn
định, chịu ảnh hưởng nhiều của biến động nền kinh tế thị trường; đặc biệt là đối với lao
động nông dân thu nhập vừa thấp, lại biến động theo mùa vụ thời tiết. Đây là những hạn chế
lớn nhất cho việc áp dụng BHXH cho những đối tượng này, nó vẫn đang là một thách thức
khó khăn cho nhà hoạch định chính sách bảo hiểm xã hội: Một mặt đáp ứng nhu cầu mua
BHXH của đối tượng cao, đặc biệt là chế độ hưu trí và chế độ bảo hiểm y tế; mặt khác đảm
bảo được công bằng xã hội không phân biệt giữa các đối tượng thuộc nhà nước hay không
thuộc nhà nước. Như vậy bảo hiểm xã hội Việt Nam phải thiết lập bảo hiểm xã hội tự
nguyện danh cho đối tượng này. Nhưng việc tổ chức và triển khai BHXHTN này như thế
nào thì cho đến nay bên cơ quan bảo hiểm vẫn chưa tìm được cách thức hiệu quả nhất, và
vẫn chưa áp dụng chính thức ở nước ta (chỉ mới áp dụng dưới dạng thí điểm), hay áp dụng
dưới dạng thử nghiệm.
I. Đối với loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện được đưa vào theo nghị định
63/2005/NĐ-CP gần hai năm qua là một bước đi đúng hướng. Nhưng rất tiếc do không được
chuẩn bị chu đáo nên hoạt động khá trầy trật. Liên bộ Y tế -Tài chính đã có thông tư liên tịch
số 22/2005TTLT ngày 24.8.2005 để hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế tự nguyện. Theo đó
BHYT thanh toán 100% chi phí khám chữa bệnh cơ bản theo quy định, và 100% cho dịch vụ
kĩ thuật cao dưới 7 triệu đồng một lần; 60% chi phí dịch vụ kĩ thuật cao trên 7 triệu đồng
nhưng không quá 20 triệu đồng một lượt. Nói cách khác là “đồng chi trả” (bệnh nhân và
BHYT cùng chi trả: trước đây theo tỷ lệ 20/80) đã bị bãi bỏ. Với quy định bỏ “đồng chi trả”


chưa được cân nhắc kĩ này (nhưng có vẻ được lòng dân, ngẫm nghĩ kĩ thì ngược lại), chỉ
1
trong năm 2006 Qũy BHYT bội chi tới 1.616 tỉ đồng. Tính cả nửa cuối năm 2005 (kể từ thời
điểm Điều lệ BHYT mới có hiệu lực), quỹ “âm” khoảng 1.900 tỉ, gần hết khoản kết dư hơn
mười năm qua. Tình hình diễn ra đúng như cảnh báo
của các nhà chuyên môn đã nêu ra khi quy định được ban hành về nguy cơ xảy ra
“hiểm họa đạo đức –moral hazard” khi BHYT chi trả toàn bộ chi phí, khi cả những người
được bảo hiểm lẫn nhà cung cấp dịch vụ không có khuyến khích để tiết kiệm.
Tình trạng “lựa chọn ngược –adverse selection”, tức là những người có bệnh
nặng thì háo hức tham gia (vì giá rẻ, vì được thanh toán 100%) còn những người khỏe mạnh
thì không hào hứng, cũng được cảnh báo và đã xuất hiện. Cho nên việc cháy quỹ là điều dễ
hiểu, chỉ tại vài câu sai trong quy định. Để vá víu từ đó đến nay đã phải tăng phí bảo hiểm y
tế tự nguyện lên hai lần. Nhưng tăng phí không phải là bài thuốc đúng bệnh. Một quy định
bất cập nữa của Nghị định 63 (điểm 3, điều 27) là nếu quỹ BHYT tự nguyện thiếu tiền thì có
thể lấy từ quỹ BHYT bắt buộc hay nguồn khác để chi trả. Đều này là không nên, chúng ta
cần phải tách bạch các quỹ này. Bảo hiểm y tế tự nguyện là bảo hiểm u tế bổ sung bên cạnh
BHYT bắt buộc, và thị trường nay phải được mở ra cho cả các hãng bảo hiểm thương mại
nữa. Để tránh sự lẫn lộn, tù mù, để nâng cao sự minh bạch và hiêu quả Qũy BHYT tự
nguyện được tách bạch, và quản lý tách rời Qũy BHYT bắt buộc. Hệ thống chăm sóc sức
khỏe gồm có hai mặt: cấp tài chính và cung cấp dịch vụ. BHYT thực hiện chức năng cấp tài
chính, nó là người (đại diện cho bệnh nhân) nua dịch vụ từ những người cung cấp dịch vụ y
tế (các bệnh viện, phòng khám bệnh). Khả năng chi trả của bảo hiểm y tế và người dân chi y
tế tạo thành cầu. Khả năng cung ứng của các bệnh viện, phòng khám tạo thành cung. Cải
cách hệ thống y tế là cải cách cả hai bên cung và cầu. Cả các tổ chức BHYT lẫn các tổ chức
cung ứng dịnh vụ sẽ đều nên mở cho khu vực phi nhà nước (phi lợi nhuận, và vì lợi nhuận)l
Bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện phải bao sân BHYT (cả bắt buộc và tự nguyện) song lại vị
Nhà nước chi phối trực tiếp quá nhiều nên hoạt động không thể hiệu quả. Ai cũng biết Nhà
nước không thể vận hành tốt hệ thống cấp tài chính và cung cấp dich vụ y tế; song thị trường
tự do cũng không thể. Cần có sự phối hợp hài hòa. Nên chia dich vụ y tế thành các dịch vụ
cơ bản và các dịch vụ bổ sung.

Nhà nước phải có chính sách đảm bảo các dịch vụ cơ bản (nhưng không có nghĩa là
Nhà nước tự đứng ra làm). Và BHYT bắt buộc (sẽ phải dần dần mở ra cho toàn dân) sẽ chỉ
nên cung cấp tài chính cho các dịch vụ y tế cơ bản. Các gói dịch vụ cơ bản được các bên cấp
tài chính và các bên cung ứng dịch vụ thỏa thuận theo từng thời kỳ và có thể được mở rộng
theo sự phát triển kinh tế .
2
II. Đối với loại hình bảo hiểm xã hội nông dân thì mới áp dụng thí điểm ở hai tỉnh
Nghệ An và Hà Tĩnh. Bước đầu áp dụng cũng có những kết quả đáng kiêng nể. Qua tìm hiểu
em thấy thống nhất với mô hình tổ chức và triển khai tổng quát dưới đây. Trong mô hình
này thì Qũy BHXHND được tách thành một quỹ độc lập so với quỹ BHXH bắt buộc. Và
quỹ này trực thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý chứ không thuộc quản
lý của Bộ lao động thương binh và xã hội để giảm bớt gánh nặng khi Bộ này đã phải đảm
nhiệm BHXH bắt buộc. Mặt khác nếu để cho Bộ NN&PTNT quản lý thì việc thực hiện
BHXHND sẽ dễ dàng và có tính khả thi hơn (do bộ này có khả năng nắm bắt được tình hình
sản xuất và phát triển của bộ phận lao động ở khu vực nông thôn được tốt hơn). Do ngay từ
đầu quỹ này đã được tách thành một quỹ độc lập nên không tránh khỏi những khó khăn,
vướng mắc nhất định. Sự tham gia hỗ trợ của nhà nước cho Qũy BHXHND là 1 tất yếu góp
phần đảm bảo cho sự ổn định của quỹ. Tuy nhiên Nhà nước cũng phải hỗ trợ đúng cách để
tránh tình trạng ỷ lại. Em nghĩ nhà nước nên hỗ trợ theo từng thời kì, không nên để đến khi
nào thâm hụt quỹ thì mới hộ trợ. Như vậy sẽ giúp Nhà nước hạn chế rủi ro khi khoản thâm
hụt quá lớn không thể kiêm nổi.
3
NỘI DUNG :
І. Đối tượng tham gia BHXHND :
+Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm mới xuất hiện ở VN trong một
vài năm trở lại đây. Việc đưa vào thị trường bảo hiểm loại hình BHXHND là một việc làm
đúng đắn và cần thiết đối với nước ta hiện nay. Bởi lẽ, lao động trong nông nghiệp của nước
ta chiếm một khối lượng lớn, không đủ điều kiện tham gia BHXH bắt buộc. Mặt khác ngoài
lao động trong lĩnh vực nông nghiệp thì một bộ phận lao động nữa là các thợ lành nghề các
tiểu thương hoạt động kinh doanh manh mún, không sử dụng hợp đồng lao động, cũng

không được tham gia loại hình BHXH bắt buộc. Những bộ phận lao động này lại có nhu cầu
rất lớn trong việc mua bảo hiểm. Do vậy đối tượng của bảo hiểm xã hội tự nguyện là: Là
những người trong độ tuổi lao động ở khu vực nông-lâm-ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
người lao động tự do, lao động dịch vụ, lao động trong các hợp tác xã, và các đối tượng khác
(không thuộc đối tượng bảo hiểm xã hội bắt buộc) thường trú trong nước
+ Đối tượng không được tham gia BHXHND là những người tham gia không vì
mục đích bảo hiểm mà tham gia vì những mục đích khác như :
- Nhằm trục lợi bảo hiểm
- Nhắm mục đích rửa tiền
ІІ. Quỹ :
1. Quỹ được hình thành từ các nguồn :
- Phí đóng góp của người tham gia
- Hoạt động đầu tư sinh lời từ tiền nhàn rỗi của quỹ
- Tham gia đóng góp của các tô chức kinh tế xã hội
- Hỗ trợ và bảo hộ của nhà nước
- Các nguồn thu khác
2. Mức đóng :
- Quy định mức đóng tối thiểu, không hạn chế mức đóng tối đa
- Mức đóng tối thiểu phải thay đổi khi có sự biến động của giá cả, tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế, tốc độ tăng dân số
- Khi người đang đóng bảo hiểm mà bản thân hoặc gia đình gặp khó khăn không có
khả năng đóng phí thì làm đơn xin ngừng đóng. Thời gian ngừng đóng không được tính để
hưởng chế độ
3. Hình thức đóng phí và tính số phí cần nạp đủ để được hưởng trợ cấp :
4
- Người tham gia bảo hiểm có thể nạp phí theo nhiều hình thức khác nhau: Đóng
góp quỹ BHXH thực hiện 6 tháng 1 lần, 1 năm nộp 2 lần vào tháng 5 và tháng 11. Nếu nộp
chậm sau tời gian quy định phải nộp thêm phần lãi suất của những tháng nộp chậm theo lãi
suất ngân hàng tại thời điểm nộp. Thời gian nộp chậm tối đa không quá 6 tháng hết thời hạn
tính theo quy định trên. Trường hợp đóng 1 lần cho ngiều năm hoặc 1 lần để có chế độ hưu

có quy định riêng. Nông dân cũng có thể đóng phí theo mùa vụ ( mức đóng sẽ phụ thuộc vào
số vụ trong năm , càng nhiều vụ thì số phí đóng càng giảm).
- Khuyến khích người tham gia bảo hiểm xã hội đóng gấp đôi, gấp ba mức quy
định ở để sau này hưởng BHXH gấp đôi, gấp ba theo mức hưởng quy định ở điều lệ này.
- Nhà cung cấp sẽ tính trợ cấp dựa trên tổng số tháng đã đóng phí. Nếu chưa nộp đủ
thì nhà cung cấp sẽ gia hạn yêu cầu người tham gia phải đóng góp thêm hoặc phải chấm dứt
hợp đồng và hoàn trả theo điều khoản đã đưa ra trong hợp đồng ( trong trường hợp này giá
trị hợp đồng sẽ bị giảm )
- Nếu trong hợp đồng có sai sót gì thì sẽ được tính lại cho đúng, đặc biệt là trường
hợp khai nhầm tuổi
4. Tuổi tham gia :
BHXHND phục vụ cho nhiều lứa tuổi, khuyến khích những người tham gia có độ tuổi
khá cao ( > 45 nam ; >40 nữ ) mà không đủ điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Mỗi độ tuổi có một mức đóng khác nhau; tuổi càng trẻ thì mức đóng càng thấp và ngược lại.
5.Qũy bảo hiểm xã hội tự nguyện chủ yếu được dùng để chi trả cho các chế độ bảo
hiểm xã hội tự nguyện. Tiền đầu tư sinh lãi được trích một phần để chi cho chi phi quản lý
sự nghiệp. Qũy bảo hiểm xã hội tự nguyện thực hiện các biện pháp tồn tại và tăng trưởng
quỹ bằng cách mua tín phiếu trái phiếu hoặc gửi tiết kiệm ngân hàng.
6. Quản lý thu chi quỹ BHXHND:
6.1 Nguyên tắc thu tiền quỹ BHXH:
BHXHND xã, phường, thị trấn trực tiếp thu tiền BHXH và ghi vào phiếu thu tiền
của BHXHND tỉnh phát hành, đồng thời phải ghi vào sổ BHXH của người tham gia BHXH,
phiếu gồm 3 liên (1 liên để lại cuống, 1 liên giao cho người nộp, 1 liên gửi kèm theo báo cáo
thu BHXH).
Tiền thu BHXHND phải gửi vào quỹ tiết kiệm nơi gần nhất. Thời gian gửi chậm
nhất không quá 2 ngày sau khi thu. Nếu gửi chậm thì cá nhân, tổ chức đó phải chịu lãi suất
theo thời điểm.
5

×