Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Một số vấn đề của chính sách thuế trong tình hình hiện nay ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.72 KB, 33 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thuế không những là nguồn thu ngân sách mà còn là công cụ điều tiết vĩ
mô quan trọng của Nhà nước. Do vậy, cùng với việc thực hiện đường lối đổi
mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có
sự điều tiết của Nhà nước, Đảng và chính phủ đã giành nhiều sự quan tâm chú ý
lớn cho công tác đổi mới và cải cách hệ thống thuế. Chủ trương cải cách hệ
thống thuế của nước ta đã được khởi xướng từ năm 1989. Ngày 1 -10 - 1990,
một hệ thống các luật, pháp lệnh về thuế được áp dụng thống nhất trong cả nước
đã được ban hành. Các sắc thuế cũng được áp dụng chung cho các thành phần
kinh tế, không còn phân biệt khu vực quốc doanh và khu vực ngoài quốc doanh
như trước đây nữa.
Hệ thống thuế mới đã đánh dấu một bước tiến bộ trong công tác quản lý
vĩ mô của Đảng và Nhà nước ta, đóng góp tích cực vào sự quản lý kinh tế vĩ mô
và tăng thu ngân sách. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện hệ thống thuế hiện
hành vẫn còn thể hiện nhiều hạn chế và có những điểm chưa phù hợp với tình
hình thực tế trong nước, cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung.
Trong bối cảnh hiện nay, nhu cầu tăng cường huy động vốn ngân sách nhà
nước cho các mục tiêu phát triển, bảo đảm sự công bằng giữa các thành phần
kinh tế, khuyến khích sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ngày càng cao,
quá trình khu vực hoá và toàn cầu hoá diễn ra ngày càng rộng rãi đặc biệt là sự
tham gia hiệp định AFTA (khu vực mậu dịch, phi thuế quan) của các nước trong
khu vực đặt ra nhiều thách thức mà chúng ta phải nỗ lực thì mới đạt được những
mục tiêu phát triển mong muốn. Do vậy đòi hỏi chúng ta phải có những cải cách
mới, làm cho hệ thống thuế vừa đáp ứng được nhu cầu quản lý kinh tế trong
nước, vừa phù hợp với những luật lệ và thông lệ quốc tế.
Trong phạm vi đề án “Một số vấn đề của chính sách thuế trong tình hình
hiện nay ở nước ta” em xin trình bày ba phần chính:
Phần I: Tổng quan về thuế
Phần II: Một số vấn đề về chính sách thuế ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
Phần III: Một số đề xuất và kiến nghị.


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THUẾ
I. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT, PHÂN LOẠI THUẾ
1. Khái niệm, bản chất của thuế
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc, được quy định thành luật của các tổ
chức kinh tế và dân cư cho nhà nước. Thuế thể hiện mối quan hệ phân phối lại
thu nhập dân cư và các tổ chức kinh tế cho nhà nước. Tính bắt buộc của thuế thể
hiện ở chỗ khi nhà nước xác định mức thuế, người nộp thuế không có quyền
thắc mắc hoặc đòi hỏi gì cả. Thuế do nhà nước ban hành và chỉ có nhà nước mới
có quyền thay đổi, ngoài ra không có ai có quyền đó. Nộp thuế là nghĩa vụ của
các tổ chức kinh tế và dân cư.
Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời của nhà nước. Thuế là một phạm
trù kinh tế, đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử. Nhà nước ra đời và tồn tại
cần phải có nguồn tài chính để chi tiêu, chi tiêu cho bộ máy, cho quốc phòng an
ninh, chi cho cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội... Nguồn tài chính
chỉ có thể lấy từ việc động việc đóng góp một phần thu nhập xã hội do các tầng
lớp nhân dân tạo ra bằng hình thức thuế là chủ yếu. Thuế cũng là công cụ để
nhà nước sử dụng để phục vụ cho yêu cầu quản lý xã hội, quản lý phát triển kinh
tế của đất nước, do vậy thuế có chức năng phân phối và giám đốc.
Nhà nước sử dụng thuế làm công cụ để thực hiện các chức năng của mình,
mỗi nhà nước mang bản chất giai cấp nhất định nên thuế mang bản chất của nhà
nước sinh ra nó.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân nên có nhiệm vụ chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc cho nhân dân. Ngân sách nhà nước
trong đó có nguồn thu thuế do dân đóng góp được sử dụng vào việc đầu tư phát
triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phòng bảo đảm ổn định chính trị,
an ninh trật tự và bảo vệ tổ quốc.
2. Phân loại thuế
Tuỳ thuộc vào yêu cầu của việc xem xét, đánh giá và phân tích mà chúng
ta phân loại các loại thuế, thông thường thuế được phân loại theo tính chất hay

đối tượng đánh thuế của sắc thuế.
2.1. Phân loại theo tính chất: Được chia thành hai loại:
Thuế trực thu và thuế gián thu để phân biệt đối tượng chịu thuế.
* Thuế gián thu là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế không phải là
người chịu thuế, nó là yếu tố cấu thành trong giá mua hàng hoá và dịch vụ nhằm
động viên sự đóng góp của người tiêu dùng (như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu...). Như vậy, người nộp thuế thực chất là người
nộp hộ cho người mua hàng hoá và dịch vụ.
* Thuế trực thu là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế đồng thời là
người chịu thuế. Thuế trực thu là loại thuế mà nhà nước thu thuế trực tiếp của
các cơ sở sản xuất kinh doanh và có thu nhập. Thuế trực thu trực tiếp động viên,
điều tiết thu nhập của người nộp thuế như thuế TNDN, thuế TNCN... Do đó
thuế trực thu không được tính vào khoản chi phí để trừ khi xác định thu nhập
chịu thuế.
Do vậy, thuế gián thu là loại thuế mà người tiêu dùng phải chịu, nó làm
cho giá bán hàng hoá tăng lên. Còn thuế trực thu là loại thuế được đánh vào các
tổ chức kinh tế, cá nhân có thu nhập, loại thuế này không làm tăng giá bán sản
phẩm hàng hoá, bởi vậy có thu nhập mới phải chịu thuế thu nhập, thu nhập cao
nộp thuế nhiều, thu nhập thấp nộp thuế ít, thậm chí không thu thuế. Tuy nhiên
thuế gián thu hơi cao có tính chất khác nhau về thu nhập nhưng nếu cùng sử
dụng một loại sản phẩm hàng hoá nào đó, họ phải nộp khoản thuế gián thu như
nhau, như vậy là chưa hợp lý, vì người ta so sánh tỷ lệ giữa tiền thuế mà người
dân phải nộp dưới hình thức thuế gián thu khi người ta sử dụng hàng hoá dịch
vụ với tiền lương mà người ta thu được thì người nghèo có tỉ lệ cao hơn người
giàu, tức là lấy đi của những người có thu nhập cao, đó là sự mất công bằng
không hợp lý. Do đó những người làm công tác quản lý khi đề ra các luật thuế
phải hết sức chú ý tới vấn đề này, các cơ cấu thuế, biểu thuế, thuế suất của các
sắc thuế phải được hợp lý, đảm bảo tính công bằng.
Ở nước ta do giá cả hàng hoá biến động phức tạp, cách hạch toán kế toán
chưa rõ ràng nên khó tách riêng phần thuế gián thu mà người tiêu dùng đã nộp

qua mua hàng nên tính chất thuế gián thu, trực thu mang ý nghĩa tương đối. Nếu
người kinh doanh không thực hiện tốt công tác quản lý hoạt động kinh doanh,
giá thành sản phẩm cao, giá bán có cả thuế không được xã hội chấp nhận thì
một phần thuế gián thu có lúc trở thành thuế trực thu và động việc trực tiếp vào
thu nhập của người kinh doanh, cho nên trong khi nghiên cứu chính sách vẫn
cần xác định tính chất từng loại hàng hoá để xây dựng thuế suất, biểu thuế,
phương pháp hạch toán thu thuế thích hợp.
2.2. Phân loại theo đối tượng đánh thuế.
Chủ yếu được chia thành các loại thuế sau.
- Thuế đánh vào sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ như thuế VAT thuế
TTĐB, thuế XNK...
- Thuế đánh vàothu nhập như thuế TNDN, thuế TNCN...
- Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất, thuế trước bạ...
- Thuế đánh vào việc sử dụng một số tài sản của nhà nước như thuế tài
nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, sử dụng vốn ngân sách cấp...
Một hế thống thuế được áp dụng đối với nhiều đối tượng khác nhau nhằm
vừa phát huy tác dụng riêng của từng sắc thuế, vừa bổ sung hỗ trợ cho nhau đảm
bảo chức năng toàn diện của cả hệ thống thuế.
Cùng với các luật thuế, pháp lệnh thuế nhà nước còn ban hành một số
khoản thu có tính chất thuế như phí và lệ phí. Ví dụ như lệ phí chước bạ, thu tiền
cầp quyền sử dụng đất, tiền thuê đất, phí cầu đường, phí cảng, bến bãi... Các
khoản phí và lệ phí mà đối tượng nào đó phải nộp đều phải điều tiết vào thu
nhập của họ nhằm bổ sung cho chi phí quản lý đầu tư tái tạo cơ sở vật chất để
duy trì, mở rộng hoạt động dịch vụ đó. Khoản chi phí làm cho chi tiêu ngân sách
nhà nước bớt nặng nề đảm bảo sự công bằng hợp lý hơn.
II. VAI TRÒ CỦA THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ
nội bộ nền kinh tế quốc dân.
Trong hệ thống đòn bẩy của cơ chế mới, thuế là công cụ quan trọng nhất

để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo
đường lối xây dựng XHCN ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nguồn
thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại đã chuyển thành quan hệ “có
vay có trả”. Trước mắt, thuế phải là công cụ để góp phần quan trọng vào giảm
bội chi ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định trật tự xã hội,
chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài. Thuế phải trở thành
nguồn thu chủ yếu, bộ phận cơ bản của một nền tài chính quốc gia lành mạnh.
Với cơ cấu kinh tế có nhiều thành phần, hệ thống thuế mới được áp dụng
thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế phải bao quát hầu hết các hoạt
động kinh doanh, các nguồn thu, mọi hoạt động tiêu dùng của xã hội...
Thuế phải khai thác từ thu nhập quốc dân, nguồn tích luỹ cho ngân sách
chỉ có thể tăng nhiều ra nhanh trên cơ sở nền kinh tế được phát triển và đạt hiệu
quả cao, đồng thời với ý thức triệt để tiết kiệm của nhân dân trong cả sản xuất và
tiêu dùng. Thuế phải đóng góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng và khai thác
nguồn thu ngày càng tăng.
2. Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Cùng với việc đổi mới công tác kế hoạch, giá cả và các đòn bẩy kinh tế
khác, thuế phải có vị trí quan trọng trong việc kiểm kê, kiểm soát quản lý, hướng
dẫn và phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với các thành phần kinh tế
theo hướng phát triển có kế hoạch của nhà nước, góp phần tích cực vào việc
điều chỉnh các mặt cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, giữa tích luỹ và tiêu
dùng, giữa tiền và hàng, giữa cung và cầu...
Thông qua việc xây dựng đúng đắn và mối quan hệ giữa các loại thuế, qua
việc xác định hợp lý đối tượng nộp thuế, đối tượng tính thuế, thuế suất, biểu
thuế, chế độ miễn giảm, phương pháp quản lý thu thuế trên cơ sở hạch toán đầy
đủ, chính xác. Ý nghĩa điều tiết của thuế bao gồm hai mặt khuyến khích, nâng
đỡ những hoạt động kinh doanh cần thiết làm ăn có hiệu quảcao. Đồng thời thu
hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế sản xuất, hạn chế tiêu
dùng theo hướng tiết kiệm, chống sa hoa, lãng phí.
Thuế được xây dựng trên quan điểm mở rộng thị trường một cách lành

mạnh, vừa khuyến khích giao lưu hàng hoá, vừa đấu tranh hạn chế mua bán lòng
vòng qua nhiều khâu trung gian, đầu cơ tích trữ. Thuế có vai trò hướng dẫn và
khuyến khích hợp tác đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động XNK đồng thời
với việc bảo vệ sản xuất nội bộ.
3. Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và
công bằng xã hội
Hệ thống thuế hiện nay được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề,
giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư để đảm bảo công bằng xã hội.
Công bằng xã hội không có nghĩa là bình quân chủ nghĩa, đòi hỏi mọi
người trong xã hội chỉ có thể thu nhập ngang nhau. Người có thu nhập cao phải
đóng thuế cao hơn người có thu nhập thấp nhưng phải đảm bảo người có thu cao
sẽ làm ăn ngày một có hiệu quả hơn so với người có thu nhập thấp nhằm khuyến
khích cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, đầu tư vốn, đầu tư chất xám, làm ăn có
thu nhập chính đáng.
CHƯƠNG II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ HIỆN HÀNH
I. CHÍNH SÁCH THUẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Chính sách là gì ?
Thuật ngữ “chính sách” được sự dụng phổ biến trên sách báo, các phương
tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế - xã hội đều có những
chính sách của mình. Có chính sách của các cá nhân, chính sách của doanh
nghiệp, chính sách của Đảng, chính sách của một quốc gia, chính sách của một
liên minh các nước hoặc tổ chức quốc tế v.v...
Theo quan điểm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được chủ
thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Chính
sách xác định những chỉ dẫn chung cho qúa trình ra quyết định, chúng vạch ra
phạm vi hoặc giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở những nhà quản
lý những quyết định nào là không thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy
nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiện các mục
tiêu chung của tổ chức.

Các chính sách kinh tế - xã hội của nó phải tạo nên một hệ thống các
chính sách đồng bộ và nó phải thoả mãn những yêu cầu cơ bản đó là tính khách
quan, tính chính trị, tính đồng bộ và hệ t hống, tính thưc tiễn và tính hiệu quả
kinh tế - xã hội.
2. Vai trò của chính sách thuế
Chính sách thuế là một nội dung của chính sách tài chính quốc gia, là tổng
thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng đề
ra quyết định về thu nhập và huy động nguồn thu để đảm bảo cho nhu cầu chi
tiêu của mình.
Chính sách thuế là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống
chính sách tài chính quốc gia, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan
trọng trong việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai
trò của chính sách thuế thể hiện qua chức năng cơ bản tự thân của nó:
- Chức năng định hướng: Chính sách thuế góp phần định hướng cho nhà
quản lý thu và nộp thuế một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và hợp lý. Chính
sách thuế còn giúp các nhà sản xuất kinh doanh định hướng, xác định ngành
nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh... để mang lại hiệu quả phù hợp với khả năng
và năng lực của mình.
- Chức năng điều tiết: Chính sách thuế giúp phân phối, điều tiết thu nhập
giữa các cá nhân, các tổ chức và góp phần phân phối lại các nguồn của cải xã
hội và năng lực sản xuất của toàn xã hội trong lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân
theo những định hướng phát triển của nhà nước.
Như vậy chính sách thuế góp phần chủ động tích cực trong việc khuyến
khích hay kiềm chế đối với các hoạt động kinh tế - xã hội của tất cả các ngành,
lĩnh vực, lãnh thổ, tổ chức và cá nhân theo những mục tiêu định hướng và hoạch
định của nhà nước.
3. Những nội dung cơ bản của các sắc thuế hiện hành
3.1. Thuế giá trị gia tăng (VAT)
Hiện nay, nhà nước áp dụng thuế VAT để thay cho thuế doanh thu luật
thuế VAT có hiệu lực từ ngày 01/01/1999.

Thuế VAT là một loại thuế gián thu được tính trên khoản giá trị tăng thêm
của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu
dùng.
Đối tượng chịu thuế VAT là các hàng hoá, dịch vụ được nhập khẩu hoặc
sản xuất trong nước bán cho các đối tượng sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng
khác ở Việt Nam trừ các đối tượng được quy định tại điều 4 của luật thuế VAT.
Đối tượng nộp thuế VAT là các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và tổ chức cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu
thuế.
Việc ban hành thuế VAT thay thế cho thuế doanh thu nhằm:
- Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá, đẩy
mạnh xuất khẩu vì không phải nộp thuế VAT và được hoàn trả số thuế VAT đầu
vào góp phần hạ giá bán, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế,
đẩy mạnh xuất khẩu. Thuế VAT không thu vào vốn đầu tư nên khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư.
- Bảo đảm động viên số thu quan trọng và tương đối ổn định cho NSNN.
Thuế VAT được thu tập trung ngay từ khâu đầu và thu thuế ở khâu sau còn kiểm
tra được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước, nên hạn chế được việc thất thu
thuế.
- Tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc thực hiện mua,
bán hàng hoá có hoá đơn chứng từ.
- Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta, phù hợp
với sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện mở rộng
hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ So sánh thuế doanh thu thuế VAT có một số ưu điểm sau:
- Thuế VAT khắc phục được việc thu trùng lắp của thuế doanh thu.
- Thuế VAT thể hiện rõ là loại thuế gián thu, nó không ảnh hưởng tới
hoạt động sản xuất của cơ sở kinh doanh.
- Thúc đẩy thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, mua bán có hoá đơn
chứng từ.

- Thuế suất được áp dụng đối với các loại hàng hoá, dịch vụ: 0%; 5%;
10%; 20%.
+ Phương pháp tính thuế VAT có hai phương pháp:
- Phương pháp khấu trừ được xác định như sau.
Số thuế VAT phải nộp = Thuế VAT đầu ra - Thuế VAT đầu vào.
- Phương pháp tính thuế trực tiếp:
Số thuế phải nộp = Giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ x với thuế suất
thuế giá trị gia tăng của hàng hoá , dịch vụ đó.
Giá trị gia tăng = Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra - giá thanh
toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào.
Phương pháp trực tiếp chỉ áp dụng với các đối tượng là cá nhân sản xuất
kinh doanh và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế
toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ và
chỉ tính với cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý.
3.2. Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTTĐB).
Là loại thuế đánh vào một số sản phẩm không cần hoặc không cần thiết
đối với nhu cầu sản xuất và đời sống như thuốc lá, rượu bia, bài lá, vàng mã và
một số dịch vụ vv...
- Thuế suất TTTĐB được quy định từ 15% đến 100% tùy theo từng mặt
hàng và dịch vụ.
- Căn cứ tính TTTĐB là giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và
thuế suất.
- Phương pháp tính thuế TTTĐB:
TTTĐB = x x thuế suất
3.3. Thuế xuất nhập khẩu (TXNK)
Là loại thuế đánh vào hoạt động XNK của tất cả các tổ chức, cá nhân bao
gồm các loại hàng hóa thuộc phạm vi tính thuế được luật quy định.
- Thuế XNK được xây dựng riêng cho hàng hoá XNK và thành hai biểu
thuế. Mỗi biểu thuế có thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi.

- Phương pháp tính:
Thuế XNK = x thuế suất
3.4. Thuế tài nguyên.
Thuế tài nguyên thực chất là tiền nhà nước bán sản phẩm tài nguyên thiên
nhiên cho các đơn vị khai thác.
- Căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế
khai thác, giá tính thuế và thuế suất.
- Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên tại nơi
khai thác.
- Thuế suất được áp dụng từ 0% đến 40% tuỳ theo tài nguyên khai thác.
- Phương pháp tính:
Tính tài nguyên = giá trị tài nguyên khai thác x thuế suất
3.5. Thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế TNDN).
Luật thuế TNDN được quốc hội khoá IX thông qua và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/1999, thay cho luật thuế lợi tức.
Thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh vào phần thu nhập sau khi trừ các
chi phí liên quan của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Đối tượng nộp thuế TNDN là các tổ chức, cá nhân sản xuất , kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế.
- Căn cứ tính thuế TNDN là thu nhập chịu thuế và thuế suất thu nhập
chịu thuế bao bồm thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và thu
nhập khác, kể cả thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
- Phương pháp tính:
Thuế TNDN phải nộp = Thu nhập chịu thuế x thuế suất.
Thuế suất TNDN áp dụng đối với cơ sở kinh doanh trong nước và tổ
chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam là 32%. Đối với những lĩnh vực, ngành nghề mà chính phủ
khuyến khích đầu tư các mức thuế suất áp dụng là 25%; 20%; 15%.
3.6. Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp do cuộc hội ban hành tháng 7 năm 1993

thay thế cho thuế nông nghiệp và được quy định bởi luật thuế sử dụng đất nông
nghiệp do Quốc hội ban hành, có hiệu lực ban hành từ năm 1994.
Đối tượng nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp là mọi tổ chức, cá nhân sử
dụng vào mục đích sản xuất đất nông nghiệp các loại đất trồng trọt. đất có mặt
nước nuôi trồng thủy sản, đất rừng. Thuế sử dụng đất nông nghiệp không áp
dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hoạt động theo luật đầu tư
nước ngoài tại Việt nam là đối tượng nộp tiền thuê đất.
Định suất thuế suất sử dụng đất nông nghiệp được tính bằng thóc, thu
bằng tiền căn cứ vào hạng đất. Hạng đất nông nghiệp được xác định căn cứ vào
trị trí, chất đất, điều kiện địa hình, khí hậu, tiêu nước.
Các trường hợp được miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp được luật
quy định bao gồm đồi, núi trọc, đất khai hoang, các hộ nông dân sử dụng đất
nông nghiệp vùng cao, biên giới, hải đảo, các hộ gia đình thương binh liệt sỹ.
3.7. Thuế nhà đất.
Thuế nhà đất được quy định bởi pháp lệnh thuế nhà đất được uỷ Ban
thường vụ Quốc Hội ban hành tháng 9 năm 1992 và được sửa đổi, bổ sug vào
tháng 5 năm 1994.
Đối tượng nộp thuế nhà đất là mọi tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất
ở, đất xây dựng công trình. Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và đã nộp tiền thuế đất không thuộc đối tượng
phải nộp thuế đất, tạm thời chưa thu thuế đối với nhà ở.
Thuế đất được áp dụng đối với toàn bộ diện tích đất ở, đất xây dựng công
trình trên lãnh thổ Việt Nam, trừ phần đất sử dụng vào mục đích công cộng,
phúc lợi, từ thiện, sử dụng vào mục đích tôn giáo, các di tích lịch sử, văn hoá
được sử dụng không nhằm mục đích kinh doanh.
Thuế đất được thu hằng năm. Định suất thuế đất được quy định căn cứ
vào hạng đất và lấy định suất thuế sử dụng đất nông nghiệp làm cơ sở.
Việc miễn giảm thuế đất được áp dụng đối với đất dùng để xây dựng trụ
sở của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công trình văn hoá và dùng vào
mục đích quốc phòng, đất vùng núi, vùng định canh, định cư của đồng bào dân

tộc thiểu số, đất của các gia đình thương binh, liệt sỹ, người tàn tật...
3.8. Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng
07 năm 1994.
Các đối tượng chuyển quyền sử dụng đất phải nộp thuể chuyển quyền sử
dụng đất cho người thừa kế, người trong cùng hộ gia đình chuyển quyền sử dụng
đất khi tách hộ, vợ chồng khi ly hôn, tổchức cá nhân kinh doanh bất động sản, tổ
chức cá nhân cho thuê đất.
Thuế chuyển quyền sử dụng đất đánh giá trên giá trị đất chuyển nhượng
(không bao gồm giá trị nhà trên đó) và thu tại thời điểm chuyển quyền sử dụng
đất.

×