Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Thực trang cổ phần hóa ở việt nam và vai trò cần thiết của các Công ty cổ phần ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.29 KB, 39 trang )

Lời nói đầu
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành vầ phát triển của nền
kinh tế thị trường . Do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn đề
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát
triển mạnh của nền kinh tế thị trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những
năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII , mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là
nước Pháp . Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế , nhất là trong giai đoạn
mà cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Đến
những năm đầu thế kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất phổ biến
ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ
khi đất nước được thống nhất , do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh .
Mặt khác do cơ chế kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà
việc khôi phục nền kinh tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều
hạn chế. Do đó mà đại hội Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của
nền kinh tế Việt nam. Đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, Nó không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc
nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế và quan hệ sở hữu mà còn
làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh tế mới đó là CTCP. Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992 đều khẳng định: Nền kinh tế nước ta hiện
nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều
thành đó, kinh tế quốc doanh được xác định giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần
kinh tế khác hoạt động theo luật và bình đẳng trước pháp luật
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đối với nước ta là tương đối mới. Trước
đây chưa có Luật doanh nghiệp thì nó hoạt động theo Luật công ty. Khi Luật doanh
nghiệp ra đời (tháng 12 năm 1999) thì công ty cổ phần được xác định đầy đủ và rõ
ràng hơn, là một trong 4 loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh
nghiệp. Cũng chính từ đó mà công ty cổ phần phát triển mạnh hơn và ngày càng
phát huy được những ưu thế của nó trong nền kinh tế. So với các loại hình doanh
nghiệp khác thì công ty cổ phần rất có ưu thế trong việc huy động nguồn vốn nhàn
rỗi trong công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường chứng khoán ở nước


ta thì công ty cổ phần là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho sự hoạt động của thị
trường này. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
Với vai trò và tầm quan trọng của công ty cổ phần ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay, em mạnh dạn chọn đề tài "Lý luận Công ty cổ phần và vai trò của nó trong
phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay". Để thực hiện được để tài này em xin chân
thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thày giáo Nguyễn Việt Tiến.
Chương I
Lý luận CHUNG Về CÔNG TY cổ phần
I. Khái niệm, sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần
1. Khái niệm
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh và chịu
trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận
2. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ 16 ở các nước tơư bản phát triển như một nhu
cầu khách quan của lịch sử. Trong suốt mấy trăm năm qua các công ty cổ phần đã
chiếm một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Quá trình
lịch sử hình thành và phát triển của hình thức công ty cổ phần trên thế giới có thể
đươợc mô tả theo sơ đồ sau:
2.1. Giai đoạn mầm mống
Trong những năm đầu của phuơng thức sản xuất TBCN các nhà tươ bản lập ra các
xí nghiệp TBCN riêng lẻ, hoạt động độc lập thuê mướn công nhân và bóc lột lao
động làm thuê. Dần dần cùng với sự phát triển của sức sản xuất và chế độ tín dụng
họ đã liên kết với nhau, dựa trên quan hệ nhân thân (gia đình) và chữ tín góp vốn
kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Từ doanh nghiệp nhóm bạn dần dần phát triển
thành doanh nghiệp góp vốn. Năm 1553 công ty cổ phần đầu tiên ở Anh thành lập
với số vôn 6000 bảng Anh phát hành 240 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu là 25 bảng Anh để
tổ chức đội buôn gồm 3 chiếc thuyền lớn tìm đươờng sang ấn Độ theo hơướng
Đông Bắc.
Năm 1801 tại Luân Đôn sở giao dịch chứng khoán chính thức ra đời tạo ra thị

trường chứng khoán. Thị truờng chứng khoán liên quan tới doanh nghiệp cổ phần
bao gồm cả cổ phần tươ nhân và doanh nghiệp cổ phần do Nhà nươớc đứng ra
thành lập. Theo Các Mác "Trong bước đầu của nền sản xuất TBCN một số ngành
sản xuất đòi hỏi một số tươ bản tối thiểu mà lúc đó từng cá nhân riêng lẻ chươa
thực hiện đơược. Tình hình đó dẫn đến Nhà nươớc phải trợ cấp Mặt khác điều đó
cũng dẫn đến việc thành lập những nơi nắm giữ độc quyền do pháp luật thừa nhận
để kinh doanh trong những ngành công nghiệp và thương nghiệp nhất định". Nhơư
vậy trong giai đoạn này công ty cổ phần có hai loại:
+ Doanh nghiệp góp vốn hoặc doanh nghiệp nhóm bạn
+ Doanh nghiệp do Nhà nươớc lập bằng hình thức phát hành trái khoán (ở
Mỹ gọi là cổ phần công cộng) hoặc doanh nghiệp Nhà nươớc góp vốn.
2.2. Giai đoạn hình thành
Trong nửa đầu thé kỷ XIX các công ty cổ phần chính thức lần lươợt ra đời với hình
thức tổ chức và hình thức phân phối riêng của chúng. Những quy định cơ bản về
công ty cổ phần đã ra đời (ở Pháp vào những năm 1806). Công ty cổ phần được
thành lập rộng khắp trong các ngành nghề không chỉ trong thơương nghiệp mà
trongơ giai đoạn trươớc ở các ngành chế tạo, các lĩnh vực giao thông vận tải
đươờng sông, đươòng sắt.
Cổ phiếu phát hành có thể bán trao tay, loại giao dịch chứng khoán này có lúc
vơượt ra ngoài biên giới quốc gia thu lợi nhuận theo hình thức lợi tức định kỳ. Một
số doanh nghiệp lớn của tơư bản tươ nhân bắt đầu phát hành cổ phần, tách người
đại biểu quyền sở hữu (hội đồng quản trị) và ngươời kinh doanh (giám đốc) ra làm
hai. Các sở giao dịch chứng khoán cũng hình thành phổ biến ở các nước Phương
Tây tuy nhiên trươớc những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần còn ít và hình
thức chươa đa dạng, quy mô còn nhỏ.
2.3. Giai đoạn phát triển
Sau những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần phát triển rất nhanh phổ biến ở
tất cả các nươớc tơư bản, các ngành có quy mô sản xuất mở rộng, tập trung tươ bản
diễn ra với tốc độ chươa từng có, ra đời các tổ chức độc quyền như Các ten – Xanh
đê ca – Cơ vốt. Các công ty nắm giữ cổ phần khống chế ra đời tạo thành kết cấu

chuỗi. Công ty mẹ công - ty con – công ty cháu hình thành một tập đoàn doanh
nghiệp xuyên quốc gia.
Đến năm 1930 số công ty cổ phần của Anh là 86000, 90% tươ bản chịu sự khống
chế của công ty cổ phần. ở Mỹ 1909 có tổng số 262000 công ty cổ phần. Đến năm
1939 số công ty cổ phần ở Mỹ chiếm 51,7% trong tổng số các xí nghiệp nông
nghiệp và 92,6% giá trị tổng sản lơượng công nghiệp.
2.4. Giai đoạn hình thành
Sau chiến tranh thế giớ thứ hai công ty cổ phần có những đặc điểm mới:
- Dùng hình thức cổ phần để lập ra các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia để
liên hợp kinh tế và quốc tế hoá cổ phần hình thành các tập đoàn doanh nghiệp quốc
tế
- Thu hút công nhân viên chức mua cổ phần thực hiện " chủ nghĩa tư bản nhân
dân" để làm dịu mâu thuẫn giữa lao động và tư bản đồng thời thu hút vốn một cách
thuận lợi
- Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần tại các nước ngày càng hoàn thiện, pháp luật
ngày càng kiện toàn và mỗi nước đều có những đặc điểm riêng
3. Điều kiện để hình thành công ty cổ phần
Muốn hình thành công ty cổ phần phải có một số điều kiện nhất định trong đó
những điều kiện sau là thiết yếu :
3.1. Tồn tại sở hữu khác nhau về vốn
Công ty cổ phần là công ty có nhiều người đứng sở hữu. Nếu công ty chỉ thuộc một
chủ sở hữu thì dù chủ sở hữu đó là một cá nhân hay một tổ chức thì đó không phải
là công ty cổ phần mà thuộc một loại hình công ty khác có thể là công ty tư nhân,
công ty TNHH một thành viên hay Công ty liên doanh ( nếu chủ sở hữu là Nhà
nước)
3.2. Những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lợi nhuận
Đây là hình thức đầu tư mạo hiểm nhất so với các hình thức đầu tư khác như mua
công trái, trái phiếu, gửi ngân hàng Trong kinh doanh có khả năng bị phá sản
nhưng bù lại là hình thức đầu tư có hứa hẹn nhất và không bị lạm phát với món tiền
lớn

3.3. Lợi nhuận thu được phải có đủ sức hấp dẫn người có vốn tham gia kinh
doanh
Nếu lợi nhuận trong kinh doanh mang lại lớn hơn lợi tức ngân hàng hoặc lợi tức do
đầu tư vào các lĩnh vực khác và lớn hơn đủ mức cần thiết thì người có vốn mới sẵn
sàng góp vốn vào công ty cổ phần để tham gia kinh doanh
3.4. Phải có sự nhất trí thành lập công ty
Những người có vốn muốn tham gia kinh doanh phải thoả thuận được với nhau để
cùng góp vốn và đứng ra thành lập công ty cổ phần trên cơ sở những quy định của
pháp luật. Nếu không thoả thuận được thì công ty cổ phần không thể thành lập
được
4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần
4.1. Cổ phần, cổ phiếu và cổ đông
Vốn của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ
phần. Chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền
sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu có thể ghi
tên hoặc không ghi tên. Giá trị của mỗi cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu
bảo đảm cho người chủ sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty tương
ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu
Một công ty chỉ được phép phát hành một số lượng cổ phiếu nhất định. Cổ phiếu
thường và cổ phiếu ưu đãi do công ty phát hành hình thành nên vốn cổ phần của
công ty. Cổ phiếu chứng minh tư cách thành viên của những người góp vốn vào
công ty cổ phần, những thành viên này gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua một
hoặc nhiều cổ phiếu. Quyền và trách nhiệm, lợi ích của mỗi cổ đông phụ thuộc vào
số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số lượng cổ phiếu
khống chế thì có thể nắm được quyền chi phối mọi hoạt động cuả công ty.Theo
điều 51 và 53 của Luật doanh nghiệp Việt Nam thì :
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác trừ cổ đông sở
hữu cổ phần ưu đãi. Và trong ba năm đầu từ khi thành lập công ty cổ đông sáng lập
chỉ được chuyển nhượng cổ phần nếu được sự đồng ý của Đại hội Đồng cổ đông
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn

chế số lượng tối đa
- Cổ đông có hai loại là cổ đông ưu đãi và cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông
có các quyền cơ bản như: tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc thẩm
quyền của Đại hội đồng cổ đông ( mỗi cổ phần có một phiếu biểu quyết), được
nhân cổ tức với mức theo quy định của Đại hội đồng cổ đông Cổ đông hoặc nhóm
cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất là 6
tháng hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định của điều lệ công ty có quyền đề cử
người vào Hội đồng Quản trị và Ban kiểm soát, yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng
cổ đông
4.2. Cơ cấu tổ chức và điều hành hoạt động của công ty cổ phần
Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần nên các cổ đông không thể
trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại diện
làm nhiệm vụ trực tiếp quản lý công ty bao gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản
trị, Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát. Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định
cao nhất của công ty, là Đại hội của những cổ đông sở hữu đối với công ty cổ phần.
Đại hội cổ đông có 3 hình thức là: Đại hội hội đồng cổ đông thành lập, Đại hội
đồng cổ đông bất thường và Đại hội hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị là bộ máy
quản lý của công ty cổ phần bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao
và quản lý giỏi để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ do Đại hội hội đồng cổ đông giao
phó. Số thành viên do Đại hội cổ đông quyết định và được ghi vào điều lệ của công
ty. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề
liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền
của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng Quản trị tự bầu chủ tịch Hội đồng và chủ tịch
Hội đồng Quản trị có thể kiêm Tổng giám đốc công ty nếu điều lệ công ty không có
qui định khác.
Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu
trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn
được giao. Về thực chất giám đốc điều hành là người làm thuê cho chủ tịch Hội
đồng Quản trị. Giám đốc không làm việc theo nhiệm kỳ mà theo thời hạn hợp đồng
ký kết với chủ tịch Hội đồng Quản trị.

Ban kiểm soát có vai trò giám sát các hoạt động của công ty. Số lượng uỷ viên
kiểm soát theo qui định trong điều lệ của công ty. Những người này không phải là
thành viên của Hội đồng Quản trị và giám đốc.
Phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần: Trong công ty cổ phần quan hệ phân
phối được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đông và phụ thuộc vào lợi
nhuận của công ty. Lợi nhuận của công ty sau khi dùng cho các khoản chung cần
thiết, phần còn lại được chia đều cho các cổ đông tỷ lệ với phần vốn góp của họ và
gọi là cổ tức.
5. Các loại công ty cổ phần trên thế giới.
ở các nước khác nhau công ty cổ phần có thể khác nhau về tên gọi. ở Pháp là công
ty vô danh, ở Anh là công ty TNHH ( company Ltd ). ở Mỹ nó được gọi là công ty
kinh doanh ( comercial – coorporation). ở Nhật Bản là công ty chung cổ phần (
Habusiki Haishu) Tuy nhiên xét về bản chất chung không có gì khác nhau lớn.
II. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc dân
1. Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan
Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào
mà là một quá trình kinh tế khách quan do các nguyên nhân sau:
1.1. Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ và tập trung tư bản ngày
càng cao
Trong nền sản xuất hàng hoá quy luật giá trị tác động mạnh đến sự cạnh tranh khốc
liệt giữa các nhà tư bản buộc họ phải tìm cách cải tiến nâng cao trình độ kỹ thuật
nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm tạo cho giá trị hàng hoá
cá biệt của mình thấp hơn giá trị hàng hoá xã hội thì mới có thể tiếp tục tồn tại và
phát triển. Điều này thường chỉ những nhà tư bản lớn, có quy mô sản xuất ở mức
độ nhất định mới có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại làm cho năng suất lao
động tăng lên do đó mới có thể thắng được trong cạnh tranh. Còn nhứng nhà tư bản
nào có giá trị hàng hoá cá biệt cao hơn mức giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị thua lỗ
và phá sản. Để tránh điều này các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ vốn để mở
rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị tạo điều kiện nâng cao năng

suất lao động hạ giá thành sản phẩm. Song đây là một biện pháp rất khó thực hiện
do việc tích tụ vốn phải mất một thời gian khá dài, vì thế các nhà tư bản vừavà nhỏ
phải thoả hiệp liên minh với nhau để tập trung tư bản cá biệt của họ lại thành một
tư bản lớn đủ sức cạnh tranh và dành ưu thế với các nhà tư bản khác. Chính từ hình
thức tập trung vốn này các công ty cổ phần dần dần hình thành và phát triển ngày
càng mạnh mẽ.
1.2. Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí, của tiến bộ kỹ thuật tạo
động lực thúc đẩy công ty cổ phần hình thành và phảt triển
Công ty cổ phần ra đời rất sớm ( thế kỷ 16) nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ 19 mới
phát triển một cách rộng rãi và trở thành phổ biến trong các nước tư bản. Công ty
cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong nền kinh
tế thị trường
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và do trình độ kỹ thuật ngày càng phát triển
cao đòi hỏi tư bản cố định tăng lên và vì thế quy mô tối thiếu mà một nhà tư bản
phải có để có thể kinh doanh trong điều kiện bình thường cũng như ngày càng lớn
hơn. Một nhà tư bản cá biệt không thể đáp ứng được số vốn đó phải có sự liên minh
tập trung nhiều tư bản cá biệt còn đang phân tán trong nền kinh tế bằng cách góp
vốn để cùng kinh doanh. Với sự tập trung vốn như vậy đã hình thành công ty cổ
phần. Mặt khác do kỹ thuật ngày càng phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn đã thu
hút được các nhà tư bản đổ xô vào các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng mới này
bằng cách di chuyển tư bản từ các ngành, lĩnh vực và các ngành kinh doanh kém
hiệu quả. Điều này càng gây ra nhiều khó khăn cho các nhà tư bản khi thực hiện di
chuyển vốn bởi vì họ không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay các xí nghiệp đang có để
thu hồi và chuyển vốn sang xây dựng ngay một doanh nghiệp mới mà chỉ có thể rút
bớt và chuyển dần từng bộ phận mà thôi. Quy luật đó có thể kéo dài và do vậy họ
có thể mất thời cơ. Mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết bằng cách các nhà tư bản cá
biệt liên minh với nhau, cùng nhau góp vốn để xây dựng các doanh nghiệp lớn,
cùng chung mục tiêu đi tìm lợi nhuận siêu ngạch họ đã gặp nhau và nhanh chóng

thoả thuận cùng nhau góp vốn để thành lập công ty cổ phần để cùng kinh doanh
1.3. Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về quản lý
Sản xuất càng phát triển, trình độ kỹ thuật ngày càng cao, cạnh tranh càng khốc liệt
thì sự rủi ro trong kinh doanh đe doạ phá sản đối với các doanh nghiệp ngày càng
lớn. Để tránh những rủi ro này các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản của mình
tham gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều công ty khác nhau. Điều này có
thể làm cho họ chia sể sự thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Mặt khác do
cùng được một số đông người quản lý nên tập trung phát huy được sức mạnh trí tuệ
của nhiều người trách được rủi ro và thành công hơn trong kinh doanh
1.4. Sự phát triển của tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và
phảt triển
Kinh tế hàng hoá phát triển dẫn tới sự ra đời và phát triển của nhiều loại thị trường
trong đó có thị trường vốn . Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ tiền
tệ mà người chủ sở hữu tiền tệ cho người khác vay trong một thời gian nhất định để
thu hồi một món lời gọi đó là lợi tức
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng có một vai trò to lớn trong quá trình cạnh
tranh làm giam chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.Tín dụng còn
có vai trò, động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần bởi
vì:
-Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể thực hiện được nếu
không có thị trường tiền tệ phát phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và
dân cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
-Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều
chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi
khi còn do bản thân ngân hàng tiến hành.
Tóm lại, công ty cổ phần là quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự hình
thành và phát triển kinh tế thị trường , nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung
tư bản. nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển nền đại công nghiệp cơ
khí và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản.
2.Vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân.

Với những đặc điểm rất riêng của mình công ty cổ phần có vai trò quan trong đối
với việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
- Công ty cổ phần có khả năng tập trung vốn nhanh chóng với quy mô lớn để thực
hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh khổng lồ mà không nhà tư bản riêng biệt
nào có thể tự mình làm nổi. Các Mác đã đánh giá vai trò nàycủa công ty cổ phần
như sau: "Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một nhà tư bản riêng
lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày
nay thế giới vẫn không có đường sắt. Ngược lại qua công ty cổ phần sự tập trung đã
thực hiện được việc đó chỉ trong nháy mắt"
- Công ty cổ phần góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn bởi vì : Thứ
nhất, do hình thức tự cấp phát tài chính bằng huy động vốn đã đề cao trách nhiệm
của doanh nghiệp nâng cao sự quan tâm đến sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Mặt khác
do sức ép của cổ đông do việc đòi chia lãi cổ phần và muốn duy trì giá cổ phiếu cao
trên thị trường chứng khoán khiến doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiêụ quả
sử dụng đồng vốn. Thứ hai, là do lợi nhuận của các công ty cổ phần là khác nhau
trong các lĩnh vực khác nhau thúc đẩy nên có thể dẫn dắt tiền vốn nhàn rỗi từ nhiều
kênh khác nhau trong xã hội vào các ngành, các lĩnh vực có năng suất lao động và
tỷ suất lợi nhuận cao làm cho vốn được phân bổ và sử dụng có hiệu quả trong nền
kinh tế
- Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù đã hạn chế được
những tác động tiêu cực về kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng
khủng hoảng. Chế độ đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của rủi ro thua
lỗ. Vốn tự có của công ty huy động thông qua việc phát hành cổ phiếu là vốn của
nhiều cổ đông do đó san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông. Nhờ vậy khi công ty cổ phần
phá sản hậu quả về mặt kinh tế xã hội được hạn chế ở mức thấp nhất. Cách thức
huy động vốn của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tài chính có
thể mua cổ phiếu, trái phiếu ở các công ty ở nhiều ngành khác nhau nên giảm bớt
được tổn thất khi công ty bị phá sản so với việc đầu tư vào một công ty. Cơ chế
phân bổ rủi ro này đã tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn đầu tư vào
một công ty làm cho nền kinh tế phát triển và có xu hướng ổn định hơn.

- Việc phát hành chứng khoán của công ty cổ phần cùng với việc chuyển nhượng
mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của
thị trường chứng khoán – trái tim của thị trường vốn. ý nghĩa căn bản của thị
trường chứng khoán là ở chỗ : Đó là nơi các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được
nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, là nơi khai thông các
nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư, là cơ chế phân bổ các
nguồn vốn đầu tư phù hợp với yêu cầu của một nền kinh tế thị trường, và còn là cơ
sở quan trọng để Nhà nước qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt
động của nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu lựa chọn
- Công ty cổ phần đảm bảo sự tham gia của đông đảo của công chúng, lại có cơ
cấu tổ chức quản lý chắt chẽ, phân định rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kinh
doanh nên đã tạo điều kiện cho người lao động tham gia quản lý công ty một cách
thực sự, sử dụng được những giám đốc tài năng, đảm bảo được quyền lợi, lợi ích và
trách nhiêm của chủ sở hữu, đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, thực
hiện tốt nguyên tắc " ai giỏi nghề gì làm nghề ấy " giúp mọi người được làm việc ở
vị trí thích hợp để có thể phát huy hết tài năng sáng tạo vốn có của mình
- Công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia đầu tư
của nước ngoài. Với một nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển thì việc
đó thu hút nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý thông qua liên doanh liên
kết với nước ngoài là vô cùng cần thiết để phát triển kinh tế trong nước.
Chương II: Vai trò của công ty cổ phần đối với phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay
I. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt nam
1. Quá trình hình thành là tất yếu khách quan.
Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện khi nước ta chuyển sang nền
kinh tế nhiều thành phần. Sự hình thành công ty cổ phần ở nước ta là một thực tế
khách quan, một xu hướng tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước la phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy
nước ta cần phải hình thành công ty cổ phần dựa trên một số căn cứ sau :
1.1. Sự hạn chế và kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của một số doanh
nghiệp Nhà nước.

Trong thời gian 10 năm đổi mới một số doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
không hiệu quả còn nhiều hạn chế. Nằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
doang nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Động lực lợi ích
là mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp, của người có vốn cũng như người lao động.
Nó là cơ sở bên trong thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, đòi hỏi phải tìm đến một hình thức kinh tế thích hợp là công ty cổ
phần bởi trong công ty cổ phần quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản được phân
tách rõ ràng nên cơ chế phân phối lợi ích được giải quyết tương đối ổn thoả.
1.2 Nhu cầu cải cách hệ thống DNNN để nâng cao vai trò chủ đạo của Kinh tế
Nhà nước.
Hiện nay khu vực DNNN kinh doanh với hiệu quả rất kém ( Chiếm 70% tổng số
vốn của nền kinh tế xong chỉ tạo ra 40% GDP ). Vì vậy việc cải cách hệ thống
DNNN theo hướng đa dạng hoá sở hữu, cải tiến quản lý và nâng cao hiệu quả là
cấp bách hơn bao giờ hết, bởi có như thế DNNN mới vươn lên giữ vai trò chủ đạo,
đảm bảo cho các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo XHCN, ổn định chính trị
– xã hội và vững bước đi lên XHCN. Một trong những biện pháp cải cách DNNN
hiện nay ở Việt nam là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy quá trình
hình thành công ty cổ phần từ cổ phần hoá DNNN là xu hướng tất yếu hiện nay.
1.3. Nhu cầu huy động vốn của các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước để
phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH Đất nước.
Đặc biệt của cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần là có thể thu hút các nguồn
vốn quy mô lớn của các ngân hàng đến các nguồn vốn vô cùng nhỏ của các tầng
lớp dân cư. Cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần ở trình độ xã hội hoá rất cao
so với huy động vốn của ngân hàng, đây là cách huy động vốn tiên tiến nhất phù
hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế hiện đại.
1.4. Sự hình thành công ty cổ phần là sự phát triển hợp với xu thế thời đại
Hiện nay xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước đã diễn ra ở mọi nước trên thế giới . Trong bối cảnh đó, sự giao lưu, hoà
nhập, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia là tất yếu khách quan. Một trong các hình
thức liên kết kinh tế giữa các quốc gia dưới hình thức góp vốn kinh doanh là công

ty cổ phần vì đây là hình thức kinh tế có trình độ xã hội hoá rất cao, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều
quốc gia.
2. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt nam
Trong lịch sử hình thành và phát triển có hai phương pháp để thành lập các
công ty cổ phần đó là thành lập mới các công ty cổ phần và cổ phần hoá các doanh
nghiệp Nhà nước đã có.
Do nền kinh tế Việt nam hiện nay có những đặc điểm cụ thể, riêng biệt so với các
các nước khác trên thế giới nên việc thành lập mới các công ty cổ phần không được
chú trọng phát triển. Hiện nay ở Việt nam, kinh tế quốc doanh đang nắm vai trò chủ
đạo, hiện có 7500 doanh nghiệp nhà nước, nắm giữ khoảng 80% tài sản quốc gia,
90% lao động lành nghề và cán bộ khoa học kỹ thuật, 95% tín dụng nhà nước.
Nhưng có đến 20% -30% doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, ngoài ra đây còn là
khu vực có rất nnhiều tiêu cực như lãng phí , quân liêu làm thất thoát tài sản Mục
tiêu cải cách hệ thống DNNN đẻ nâng cao vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế
quốc dân đã và đang được đề ra một cách bức bách. Chính việc cải cách hệ thống
DNNN bằng cách cổ phần hoá là con đường khả thi và có hiệu quả nhất đang được
Đảng và Nhà nước ta quán triệt nên chúng ta chỉ tập chung đi sâu vào việc hình
thành các công ty cổ phần bằng cách cổ hoá các DNNN.
Việc cổ phần hoá các DNNN được tiến hành theo ba phương thức sau: một là giữ
nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm
thu hút vốn để phát triển , hai là bán một phần hiện có của doanh nghiệp, ba là tách
một bộ phận của doanh nghiệp đã đủ điều kiện cổ phần hoá.
Từ tháng 11năm 1987 trong Quyết định 217 của HĐBT Chính phủ đã xác định chủ
trương thí điểm bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên các DNNN. Song phải sang
đầu những năm 1990, chủ trương này mới thực sự được triển khai trong thực tế. Có
thể chia quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta thành ba giai đoạn sau đây:
Giai đoạn thí điểm (1992-1995): Thực hiện chỉ thị 202/ CT ngày 8/6/1992 của
chủ tịch Hội đồng bộ trưởng về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty
cổ phần và chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 về xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần

hoá doanh nghiệp và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN.
Trong bước đầu hoạt động , các công ty cổ phần mới thành lập này đều thu được
những kết quả sản xuất kinh doanh khả quan .
Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá (từ tháng 5/1996 đến tháng 6/1998): Từ kết quả
thí điểm của giai đoạn trước, ngày7/5/1996 Chính phủ đã ban hành nghị định 28/CP
về chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần. Nghị định này đã tạo nên
khuôn khổ pháp lý đầy đủ để tiến hành cổ phần hoá DNNN , công tác cổ phần hoá
được các cấp các ngành quan tâm hơn .
Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hoá (từ tháng6\1998): Nghị định 44/CP ngày
29/06/1998 đã thay thế nghị định 28/CP với tinh thần tạo đông lực mạnh mẽ hơn
cho doanh nghiệp và người lao đọng làm ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần
hoá, đơn giản hoá các thủ tục chuyển sang công ty cổ phần. Trong bước đầu hoạt
động , các công ty cổ phần đều phát triển được sản xuất kinh doanh , không những
đảm bao được việc làm mà còn thu hút thêm lao động, thu nhập của người lao động
được nâng cao .
3. Các loại công ty cổ phần ở Việt Nam
Loại công ty cổ phần đầu tiên chúng ta đề cập đến đó là công ty cổ phần quốc
doanh . Đây là một giải pháp để khắc phục khuyết tật của hình thức sở hữu nhà
nước và tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý trong khu vực quốc doanh. Công ty cổ
phần quốc doanh gồm nhiều chủ sở hữu : Nhà nước, những người lao động trực
tiếp trong công ty cổ phần , các cá nhân và các tổ chức khác Một đặc điểm quan
trọng là nhà nước nắm giữ cổ phần khống chế để chi phối các hoạt động của các
công ty cổ phần do đó được gọi là các công ty cổ phần quốc doanh. Người thay
mặt nhà nước với tư cách là một cổ đông trong Hội đồng quản trị có vai trò, quyền
hạn, trách nhiệm rõ ràng hơn so với vai trò chủ sở hữu gắn với bộ máy Nhà nước và
viên chức Nhà nước. Ngoài ra do cũng là công ty cổ phần nên nó có đầy đủ các vai
trò , đặc điểm của công ty cổ phần đã nêu .
Loại công ty cổ phần thứ hai là công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài. Chúng
ta đều biết rằng công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ đầu tư
của nước ngoài. Do đó với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay, sự

ra đời của công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài đặc biệt quan trọng. Điểm
khác cơ bản của loại hình công ty cổ phần này sovới công ty cổ phần quốc doanh
đó là sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài vào mọi bộ phận của công
ty. Mặc dù vậy. do nước ta dịnh hướng phát triển một nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước nên trong các công ty cổ phần loại này chủ yếu vẫn là Nhà
nước nắm cổ phiếu khống chế.
Loại công ty cổ phần thứ ba : là công ty cổ phần 100% vốn nước ngoài. Đó
là những công ty cổ phần do các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài lập nên ở Việt
nam. Cũng có thể là một công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài nhưng sau một
thời gian làm ăn, các cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài dần dần nắm được
toàn bộ số cổ phiếu của công ty .
Ta cũng cần phân biệt được công ty cổ phần với công ty hợp doanh và công ty
trách nhiệm hữu hạn – hai loại công ty này đang tồn tại khá phổ biến ở Việt Nam.
Điểm khác nhau cơ bản nhất giữa chúng đó là công ty hợp danh và công ty TNHH
nhiêù thành viên không được phát hành cổ phiếu và trái phiếu trong quá trình kinh
doanh. Trong trường hợp thiếu vốn thì công ty chỉ có thể huy động các cổ đông góp
thêm mà thôi . Việc đóng góp này do Đại hội cổ đông quyết định.
II. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay
Công ty cổ phần ra đời và phát triển khá sớm ở các nước tư bản chủ nghĩa, đối với
nước ta công ty cổ phần xuất hiện muộn hơn nhiều. Chỉ từ sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI với việc thực hiện chủ trương đổi mới quản lý kinh tế của Đảng và
Nhà nước là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta mới bắt đầu
xuất hiện một số công ty cổ phần với quy mô nhỏ bé, trình độ thấp và đang trong
giai đoạn sơ khai. Từ đó đến nay công ty cổ phần phát triển tương đối mạnh mẽ và
đã khẳng định được vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế Việt Nam
ở nước ta điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế là
cần phải huy động được nguồn vốn lớn. Huy động vốn trong nhân dân vừa là giải
pháp cấp bách vừa là giải pháp cơ bản trong chiến lược tạo vốn cho từng doanh
nghiệp hiện nay. Điều này chỉ thực hiện được thông qua công ty cổ phần. Bởi vì so
với công ty cổ phần thì hai hình thức huy động vốn chủ yếu ở nước ta hiện nay là

hệ thống quỹ tiết kiệm và tín phiếu kho bạc còn nhiều nhược điểm ( cả với người
gửi và người đi vay ). Thứ nhất, nếu huy động vốn qua hệ thống tiết kiệm, tín dụng
thì chi phí và lãi suất cao gây khó khăn cho người sử dụng vốn vì phải thông qua
nhiều khâu chi phí nghiệp vụ và lợi tức tăng lên. Huy động vốn thông qua công ty
cổ phần giảm được chi phí không cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng
vốn cũng như bảo vệ quyền lợi người có vốn. Thứ hai, gửi tiền vào quỹ tiết kiệm
hoặc mua tín phiếu tuy có lãi suất ổn định, hạn chế phần nào rủi ro nhưng người có
vốn hoàn toàn mất khả năng chi phối việc sử dụng vốn, không được hưởng những
may mắn của việc sử dụng đồng vốn đó. Khi mua cổ phiếu, tuy phải chịu sự rủi ro
ở mức độ nhất định nhưng lại được hưởng may mắn mà lúc nào cũng có trong
thương trường. Hơn nữa các cổ đông lại có quyền lực trong Đại hội cổ đông và khi
điều kiện cùng khả năng cho phép họ có thể được bầu vào các cơ quan l•nh đạo
của công ty. Do đó việc mua cổ phiếu hấp dẫn hơn
Ngoài ra công ty cổ phần còn là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự đầu tư
của nước ngoài. Nước ta hiện nay đang cần thiết thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho
sự nghiệp phát triển kinh tế, hình thức liên doanh góp vốn cổ phần với nước ngoài
sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam có đủ sức mạnh về mọi mặt vốn, tiềm lực vật chất
kỹ thuật, năng lực quản lý
Hệ thống DNNN ở nước ta hiện nay đang hoạt động kém hiệu quả một phần vì
không xác định rõ ai là chủ sở hữu đích thực. Đây là nguyên nhân gây ra sự l•nh
đạm, thiếu trách nhiệm ,thiếu kỷ cương, kỷ luật của người lao động, sự giảm sút về
năng suất, chất lượng và hiệu quả, thiếu minh bạch trong phân phối thu nhập. Còn
trong công ty cổ phần quyền sở hữu và quyền sử dụng được xác định rõ ràng nên
cơ chế phân phối lợi ích được giải quyết thoả đáng. Lợi ích của người lao động và
người có vốn gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh của công ty nên trở thành
động lực cơ sở bên trong thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty
Hiện nay quá trình cổ phần hoá ở nước ta đang được triển khai khá mạnh mẽ. Việc
hình thành công ty cổ phần thông qua cổ phần hoá góp phần nâng cao vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước bởi chỉ có thế mới nâng cao được hiệu quả của các doanh

nghiệp Nhà nước. Hơn nữa Nhà nước với hình thức tham dự cổ phần của mình có
thể nhanh chóng can thiệp nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế thúc đẩy sự phát triển và
điều tiết thị trường một cách có hiệu quả
Công ty cổ phần ra đời còn góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển thị trường
chứng khoán ở Việt Nam. Tháng 7 năm 1998 đã đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng trong quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Đồng thời với
việc ban hành nghị định 48 /1998 /NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng
khoán, Chính phủ đã ký quyết định số 127 /1998 /QĐ-TTg về thành lập hai Trung
tâm Giao dịch chứng khoán tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, phát đi hiệu
lệnh khởi động thị ttrường chứng khoán. Thông qua thị trường chứng khoán, các
nhà kinh doanh có thể huy động mọi nguồn tiết kiệm trong dân cư. Nó là cơ sở
quan trọng để Nhà nước thông qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào
hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu đã lựa chọn. Thiếu thị
trường chứng khoán sẽ không có nền kinh tế thị trường phát triển. Song sự ra đời
của nó không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người mà là kết qủa của sự phát
triển chung về kinh tế xã hội, trong đó sự ra đời và phát triển, hoạt động một cách
hoàn hảo của các công ty cổ phần giữ vai trò quyết định.
III. Thực trạng quá trình cổ phần hoá ở Việt nam.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được bắt đầu thí điểm từ cuối năm
1991. Quá trình cổ phần hoá ở nước ta về cơ bản có thể chia làm hai giai đoạn:
1. Thời kỳ thí điểm cổ phần hoá (6/1992 đến hết năm 1996)
Thực hiện Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, các Bộ, ngành đã hướng dẫn doanh nghiệp
nhà nước đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần. Trên cơ sở số
lượng doanh nghiệp nhà nước đã đăng ký, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng chính phủ) đã chọn 7 doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm
chuyển thành công ty cổ phần, đó là:
1. Nhà máy xà phòng Việt Nam (Bộ công nghiệp)
2. Nhà máy diêm Thống nhất (Bộ công nghiệp)

3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Bộ Nông nghiệp).
4. Xí nghiệp Chế biến gỗ Lạng Long Bình (Bộ nông nghiệp),
5. Công ty Vật tư Tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại).
6. Xí nghiệp Sản xuất Bao bì (Thành phố Hà Nội).
7. Xí nghiệp Dệt da may Lagamex (Thành phố Hồ Chí Minh).
Sau một thời gian làm thử, 7 DNNN được Chính phủ chọn làm thí điểm đều xin rút
lui, hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá như Lagamex, nhà máy Xà
phòng Việt Nam Hơn 30 doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ tài chính để thí điểm
thực hiện cổ phần hoá và 3 doanh nghiệp nhà nước xin chuyển thành công ty
TNHH theo chỉ thị 84/TTg. Có 5 doanh nghiệp nhà nước được phép chuyển sang
công ty cổ phần, đó là:
1. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ giao thông).
2. Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (TP Hồ Chí Minh)
3. Công ty cổ phần giầy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp).
4. Công ty cổ phần Chế biến hàng Xuất khẩu Long An (Tỉnh Long An)
5. Công ty cổ phần Chế biến Thức ăn Gia súc (Bộ công nghiệp).
Trong một thời gian thực hiện thí điểm cổ phần hoá, tuy số lượng các doanh nghiệp
nhà nước chuyển thành công ty cổ phần còn ít song giai đoạn thí điểm đã đem lại
một số kết quả đáng chú ý:
• Quá trình thí điểm cổ phần hoá đã huy động được một lượng vốn quan trọng trong
nhân dân. Qua bán cổ phiếu, nhà nước đã thu được 14,165 tỷ đồng tiền mặt nộp vào
Ngân sách. Đây là số vốn quan trọng làm tăng tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để
đầu tư vào chiều sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
DNNN
• Tại các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 100% cán bộ công nhân viên tham gia mua
cổ phiếu. Khi người lao động có vốn trong công ty, lợi ích của họ gắn với lợi ích
công ty vì vậy họ làm việc với trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình. Mặt khác họ
cũng yêu cầu Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành phải chỉ đạo và tổ chức để
công ty hoạt động có hiệu quả.
• Hiệu quả của các công ty này tăng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu kinh tế như doanh thu

tăng bình quân 56,9%/năm; lợi nhuận tăng 70,2%; nộp Ngân sách tăng 89%/năm;
tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 14,10%.
• Vốn của các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Tính bình quân vốn của các
doanh nghiệp mỗi năm tăng 45%.
• Người lao động trong các doanh nghiệp này tăng 46,8%, thu nhập của người lao
động tăng 20%/năm.
• Nhà nước vẫn giữ được vai trò ãnh đạo doanh nghiệp nhờ duy trì tỷ lệ cổ phiếu
chi phối, giám sát các hoạt động bằng luật pháp và nội dung các điều lệ hoạt động
phù hợp với quy định của Nhà nước.
Tính đến hết thời gian thí điểm cổ phần hoá (hết năm 1996) tổng số doanh nghiệp
nhà nước được chuyển sang công ty cổ phần là 12 doanh nghiệp. Dưới đây là danh
sách các doanh nghiệp và một số chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp đó sau
thời gian cổ phần hoá.
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển GEMADEPT
1. Doanh thu
2. Nộp NS
3. Lãi
4. Thu nhập bình quân người/tháng
5. Lao động
(Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính.)
Công ty đại lý Liên hiệp vận chuyển chuyển làm dịch vụ vận chuyển từ kho của
người gửi đến kho cuả người nhận bằng các phương tiện đường bộ, đường thuỷ,
đường biển tới các cảng quốc tế. Công ty là một trong những doanh nghiệp đầu tiên
ở nước ta được tiến hành thí điểm cổ phần hoá. Doanh nghiệp này được chính thức
chuyển sang công ty cổ phần vào ngày 01/07/1993. Tổng số vốn điều lệ của công ty
sau cổ phần hoá là 6.207.655.000 đồng được chia thành 31.038 cổ phiếu với mệnh
giá 200.000; trong đó tỷ lệ cổ phần của nhà nước là 18%, của cán bộ công nhân
viên chức trong công ty là 77%, của cổ đông ngoài là 5%. Sau 3 năm hoạt động kể
từ ngày chuyển sang công ty cổ phần, số lao động của công ty tăng từ 56 người
(năm 1993) lên 320 người (năm 1996). Doanh thu năm 1996 tăng gấp gần 4 lần so

với năm 1993, nộp ngân sách của công ty cũng tăng từ 3.750 (1993) lên 25.117
(1996) tức khoảng 6,6 lần, thu nhập người lao động tăng từ 900.000 (năm 1993) lên
2. 000.000 (năm 1996).
Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) được thành lập năm 1987 trên cơ sở công ty
liên hợp Thiết bị lạnh trực thuộc Sở công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Ngay từ
khi mới thành lập, công ty đã tổ chức lại bộ máy gọn nhẹ, hoạt động theo nguyên
tắc hạch toán duy nhất, năng động trong quản lý sản xuất kinh doanh. Công ty đã
mạnh dạn nhập các thiết bị lạnh với phương thức trả chậm, tiêu thụ nhanh hàng
nhập, thanh toán kịp thời và đầy đủ phần nợ trả chậm cho bên nước ngoài. Cũng
chính từ thành công trong hoạt động ngoại thương, tích tụ và tập trung tư bản được
hình thành, công ty đã thành lập 2 công ty liên doanh: Công ty liên doanh
CERVICO (liên doanh với công ty MEKONG - một công ty Việt kiều ở Đức)
nhằm lắp ráp thiết bị lạnh trong nước, vốn đầu tư là 820.000 USD. Công ty liên
doanh REEYOUNG (liên doanh với công ty BOUYONG của Nam Triều Tiên)
chuyên sản xuất túi sách xuất khẩu, vốn đầu tư 1.600.000 USD. Trong những năm
trước cổ phần hoá, công ty hoạt động thực sự có hiệu quả. Công ty luôn dự đoán
đúng nhu cầu của thị trường trong nước nên đã tạo được một số lượng hàng hoá,
thiết bị vật tư dự trữ đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, tạo được niềm tin và
giữ được uy tín với khách hàng. Tháng 11/1993 theo quyết định số 1707/QĐ - UB
của UBND TP Hồ Chí Minh, Công ty Cơ điện lạnh chính thức được chuyển sang

×