Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Tiềm năng ngành du lịch của Việt nam và phương hướng tăng đầu tư cho phát triển du lịch potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.06 KB, 115 trang )


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ( FDI : FOREIGN DIRECT INVESTMENT )
I. Đầu tư nước ngoài và các loại hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1. Khái niệm về đầu tư nước ngoài
Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do hoàn toàn thống trị là
việc xuất khẩu hàng hóa sang các nước kém phát triển hơn. Nhưng đến cuối thế
kỷ 20, với sự hình thành các tổ chức độc quyền, thì trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa xuất hiện thêm hình thức xuất khẩu mới-xuất khẩu tư bản. Bằng việc
xuất khẩu tư bản, nhà tư bản tổ chức việc sản xuất ở nước ngoài, hàng hóa sản
xuất ra của các xí nghiệp nước ngoài sẽ thay thế một phần cho việc xuất khẩu
hàng hóa. Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hình thức đầu tư quốc tế.
Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước
ngoài ( tổ chức hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào
nước nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt được các hiệu quả xã hội.
Sự hợp tác đầu tư quốc tế giữa hai bên và nhiều bên là xu hướng có tính
chất quy luật trong điều kiện tăng cường quốc tế hoá đời sống kinh tế hiện nay,
tuy rằng trên thực tế, sự hợp tác này không đơn giản mà trái lại luôn chứa đựng
một sự cạnh tranh gay gắt. Song dù sao trong hợp tác đầu tư, lợi ích của các
bên tham gia cũng khá gắn liền với nhau. Nhận thức rõ của xu hướng này và sử
dụng nó một cách khôn ngoan là một trong những cách bảo đảm cho sự thành
công của một con đường phát triên trong giai đoạn hiện nay của mỗi nước.
2. Các loại hình đầu tư nước ngoài
Theo quan niệm của OECD thì các nguồn tài trợ cho nước ngoài bao gồm:
2.1. Tài trợ phát triển chính thức (ODF): bao gồm viện trợ phát triển
chính thức (ODA) và các hình thức ODF khác, song phương cũng như đa
phương.
2.2. Tín dụng xuất khẩu
2.3. Tài trợ tư nhân: bao gồm vay tư ngân hàng quốc tế (WB), vay tín
phiếu, đầu tư thị trực tiếp, các nguồn tài trợ tư nhân khác, viện trợ cho không


của các tổ chức phi chính phủ.
Như vậy, theo quan niệm của tổ chức này, đầu tư trực tiếp là một trong những
nguồn tài trợ tư nhân. Nhưng trong thực tế đầu tư thời gian qua chúng ta thấy
rằng, chủ thể của FDI không thể có duy nhất tư nhân mà còn có nhà nước và tổ
chức phi chính phủ khác (mặc dù số lượng ít hơn nhiều). Bởi vậy quan niệm
như trên chưa thật hoàn toàn đầy đủ.
Theo IMF (1993), đầu tư trực tiếp nước ngoài được định nghĩa là loại
“đầu tư phản ánh mục tiêu nhằm đạt được lợi ích lâu dài của một tổ chức sở tại
trong một nền kinh tế ( doanh nghiệp nước ngoài hay công ty mẹ ) ở một doanh
nghiệp đặt ở một nền kinh tế khác ( doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài )”. Lợi ích lâu dài bao hàm quan hệ lâu dài của các nhà đầu
tư trực tiếp với doanh nghiệp ( nước ngoài ) và một mức độ ảnh hưởng dáng kể
của nhà đâu tư lên việc quản lý doanh nghiệp.
FDI không giống với các hình thức di chuyển vốn khác ở chỗ vai trò của
nó không chỉ hạn chế trong việc làm tăng đầu tư ở nước nhận vốn ( chủ nhà ),
FDI xuất phát từ quyết định của một doanh nghiệp ở một nước nào đó ( một
công ty đa quốc gia ) nhằm tham gia vào sản sản xuất quốc tế, di chuyển địa
điểm hoạt động của mình dến một nước chỉ nhà được chọn. Do dó về cơ bàn
FDI đem theo cả kiến thức đặc thù cho công ty ( dưới hình thức công nghiệp,
kỹ năng quản lý, bí quyết tiếp thị, v v ) mà nước chủ nhà không thể thuê hoăc
hoặc mua được trên thị trường. Các chi nhánh của các công ty đa quốc gia, như
là một bộ phận quan trọng trong mạng lưới toàn cầu của công ty mẹ, đã có sẵn
các kênh bao tiêu hàng, có kinh nghiệm và chuyên môn trong nhiều lĩnh vực
phức tạp của việc phát triển sản phẩm và tiếp thị quốc tế, đồng thời ở vào thế
có lợi để tận dụng được những khác biệt giữa các nước về chi phí sản xuất.
Hơn nữa, các công ty đa quốc gia có nhiều khả năng đối phó lại với những áp
lực bảo hộ ở nước xuất xứ hơn, sao cho có lợi cho việc nhập khẩu từ các chi
nhánh của họ. Dựa trên cơ sở này, người ta thường nói rằng FDI cho phép các
nhà quản lý và công nhân trong đất nước tiếp nhận được những kiến thức và
công nghệ nhanh hơn. Nó cũng cho phép những người mới tham gia học hỏi về

thị trường xuất khẩu, kích thích cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước, và
đào tạo công nhân.
Về mặt ổn định, có sự khác biệt rõ ràng giữa FDI và các hình thức cấp
vốn khác như cho vay ngắn hạn của ngân hàng và đầu tư gián tiếp. Đầu tư gián
tiếp chủ yếu bao gồm việc mua các tài sản tài chính. Lợi suất từ việc mua các
tài sản tài chính con tuỳ thuộc vào nhiều biến số như tỷ giá, lãi suất và giá cổ
phiếu, là cái thường chịu những dao động ngắn hạn. Hơn nữa những tài sản này
có thể dễ dàng bán nhanh ( tức nhiên cũng có cái giá của nó ). Ngược lại, FDI
như nêu trên là luồng vốn dài hạn dựa trên những cân nhắc lợi nhuận dài hạn,
mà một khi đã đầu tư thì không dễ dàng nhanh chóng rút lui. FDI về cơ bản thể
hiện ở quyền sở hữu và vận hành các cơ sở sản xuất. Do đó, khi so sánh với
đầu tư gián tiếp và những loại luồng đầu tư khác, FDI là nguồn vốn tương đối
ổn định.
Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, nhà nước Việt Nam chủ trương
khuyến khích mở rộng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm góp phần
phát huy mọi tìm năng để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội. Để
thể chế hóa chủ trương đó và cũng để tạo ra hệ thống khung pháp lý cho việc
quản lý, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định. “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào nước ngoài vốn bằng tiền mặt
hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật
này”.
Với những quy định như đã nêu trong luật thì đầu tư trực tiếp nước
ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc tư nhân) đưa vốn (bằng tiền hay
bất cứ tài sản nào) vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận và đạt được những hiệu quả xã
hội. Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chính là một loại hình di chuyển
vốn quốc tế mà trong đó mỗi người sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý
điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Đối với hình thức đầu tư này, người
bỏ vốn sẽ trực tiếp tham gia quản lý điều hành quy trình thực hiện và có thể
quyết định toàn bộ mọi hoạt động nếu hình thức là doanh nghiệp 100% vốn

nước ngoài, hoặc tham gia quyết định nếu là doanh nghiệp liên doanh. Nếu
theo nghĩa hẹp, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi
nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần của cơ sở đó, là hình
thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực
sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng
mà họ bỏ vốn đầu tư.
Nếu nguồn tài trợ ODF (chủ yếu là ODA) là nguồn tài trợ chính thức có
thể cho không, hoặc vay ưu đãi do các quốc gia, các tổ chức quốc tế cung cấp,
thì FDI là nguồn đầu tư chủ yếu do các công ty đa quốc gia thực hiện. Việc tiếp
nhận nguồn đầu tư này không gây nên tình trạng nợ cho nước chủ nhà, trái lại
còn tạo điều kiện cho nước chủ nhà phát triển tiềm năng trong nước. Bên cạnh
đó, FDI không chỉ đưa vốn vào nước hưởng đầu tư mà đi cùng với nó là kỹ
thuật, là công nghệ và là bí quyết kinh doanh, do đó nâng cao năng lực của nền
kinh tế trong nước, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Xét về bản chất đầu tư nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản , một
hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hóa và đây phải là hình thức xuất khẩu
bổ xung và hỗ trợ cho nhau trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị
trường của các công ty, tập nđoàn kinh tế nước ngoài. Nhiều trường hợp, hoạt
động buôn bán hàng hóa tại nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, tìm hiểu
luật lệ để đi đến quyết định đầu tư nước ngoài tại nước sở tại là điều kiện để
xuất khẩu máy móc, nguyên vật liệu và khai thác tài nguyên của nước chủ nhà.
Để đạt được những mục tiêu này các nhà đầu tư sẽ phải lựa chọn một hình thức
doanh nghiệp phù hợp, thành lập và tiến hành kinh doanh. Như vậy, với sự đầu
tư trực tiếp nguồn vốn từ nước ngoài sẽ dẫn đến một hậu quả tất yếu là sự hình
thành của một loại hình doanh nghiệp mới, đó là các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
3. Chính sách và việc tổ chức thu hút FDI của nước ngoài
3.1 Việc tổ chức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài có thể được coi là một
quá trình xây dựng đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo điều kiện không

những cho vốn đầu tư nước ngoài, mà cả vốn đầu tư trong nước được đưa vào
thực hiện một cách thuận lợi ( với tư cách là phần vốn góp của nước sở tại
trong liên doanh ). đứng trên giác độ của một quốc gia, việc thu hút đầu tư trực
tiếp của nước ngoài liên quan đến các vấn đề sau:
3.1.1 Xây dựng hệ quan điểm về vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài đối với phát triển kinh tế
Để xây đựng hệ thống quan điểm về vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, trước hết phải xác định rõ FDI có vai trò như thế nào đối với sự phát
triển kinh tế của nước đó.
Xuất phát từ lý luận về xuất khẩu tư bản của V.I.Lênin, từ vai trò nguồn
vốn nước nước ngoài của các nhà kinh tế học hiện đại chúng ta thấy, FDI là
nguồn vốn bổ sung rất quan trọng cho các nước, nhất là các nước đang phát
triển. Thiếu nguồn vốn này, các nước khó có thể vượt khỏi vòng luẩn quẩn của
sự đói nghèo để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Song vấn đề là ở chỗ,
thái độ của nước nhận đầu tư như thế nào và biện pháp xử lý ra sao nhằm phát
huy mặt tích cực và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của loại hình đầu tư
này.
Từ kinh nghịêm thành công của các nước đang phát triển trong việc thu
hút FDI, có thể nói rằng, nhìn chung các nước này đều có thái độ và chính sách
ưu đãi với các nhà đầu tư nước ngoài. Họ nhìn hoạt động FDI không phải là
hoạt động nhằm bóc lột nguồn lực của nước mình, mà đó là những điều kiện
thuận lợi cho việc tăng trưởng kinh tế của đất nước. Chính vì vậy, các nước
thường có những chính sách ưu đãi, nhất quán đối với nhà đầu tư, tạo những
điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI.
Là nhà đầu tư, họ quan tâm đến những lợi ích và những ưu đãi mà họ có
thể thu được từ dự án đầu tư thực hiện ở nước sở tại, các vấn đề liên quan đến
việc thành lập và triển khai dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong việc lập dự án, nhà đầu tư sẽ quan tâm tới việc phải hoàn thành
những gì trong bộ hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư, các ngành, các cấp nào đã
tham gia vào việc cấp giấy phép đầu tư, liệu nhà đầu tư có nhận được các thông

tin trợ giúp từ phía chính phủ và các tổ chức môi giới hay không, thời gian
trung bình để có được một giấy phép đầu tư là bao lâu,…
Trong việc triển dự án đầu tư, nhà đầu tư sẽ quan tâm tới những vấn đề
như giải phóng mặt bằng có thuận lợi hay không, việc đưa máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu vào nước sở tại để sản xuất kinh doanh có thuận lợi và khó
khăn gì, việc tuyển dụng nhân công ở nước sở tại có sẵn có hay không (điều
này có liên quan tới chính sách đào tạo lao động của nước sở tại ), trong một số
trường hợp việc tuyển dụng nhân công nước ngoài có gặp khó khăn gì không
và những vấn khác liên quan đến những khuyến khích đầu tư.
Đạo tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vật đầu tư nước
ngoài và đội ngũ cán bộ kinh doanh quốc tế để có thể đáp ứng những yêu cầu
của quá trình thu hút vốn nước ngoài như: tham gia thảm định các dự án đầu tư
nước ngoài, tham gia hoạch định chính sách đầu tư trên phạm vi khu vật và
quốc tế, tham gia kinh doanh với nhà đầu tư nước ngoài.
3.1.2 Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn
Vấn đề có tính then chốt trong việc tổ chức nhằm thu hút FDI là tạo lập
một môi trường đầu tư hấp dẫn.
Môi trường đầu tư là tổng thể các bộ phận mà ở đó chúng tác động qua
lại lẫn nhau và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động đầu tư. Buộc các nhà đầu
tư, tự điều chỉnh các mục đích, hình thức và phạm vi hoạt động cho thích hợp
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và đưa đến hiệu quả cao trong
kinh doanh.
Người ta có thể phân loại môi trường đầu tư theo nhiều tiêu thức khác
nhau và mỗi tiêu thức phân loại đó lại hình thành các môi trường, thành phần
khác nhau. Chẳng hạn:
Căn cứ vào phạm vi không gian, có môi trường đầu tư nội bộ doanh
nghiệp, môi trường đầu tư trong nước và môi trường đầu tư quốc tế.
Căn cứ vào lĩnh vực, có môi trường chính trị, môi trường luật pháp, môi
trường kinh tế, môi trường văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng…
Căn cứ và sức hấp dẫn, có môi trường đầu tư có tính cạnh tranh cao (hấp

dẫn nhiều), môi trường đầu tư có tính cạnh tranh trung bình (hấp dẫn vừa), môi
trường đầu tư có tính cạnh tranh thấp (hấp dẫn ít) và môi trường không có tính
cạnh tranh (không hấp dẫn).
Khi xem xét môi trường đầu tư, các nhà kinh doanh và các nhà quản lý
phải thấy một số đặc điểm cơ bản trong quá trình đánh giá và tạo dựng môi
trường đầu tư.
Thứ nhất, môi trường đầu tư không phải là cố định mà luôn luôn biến
đổi do sự thay đổi của các yếu tố cấu thành. Tính chất của môi trường đầu tư
luôn luôn thay đổi là do mối tương quan giữa môi trường đầu tư trong nước và
các môi trường đầu tư của các nước khác. Không có một môi trường đầu tư cố
định.
Thứ hai, môi trường đầu tư là sự đang xen của các môi trường thành
phần và sự tác động qua lại giữa chúng. Điều này đòi hỏi khi phân tích đánh
gia môi trường phải xem xét đánh giá một cách tổng thể trong mối quan hệ chặt
chẽ và với một mối tương quan cụ thể giữa các môi trường thành phần.
Thứ ba, ngày nay xu thế hội nhập không ngừng gia tăng, các doanh
nghiệp không chỉ kinh doanh ở trong nước mà còn phải mở rộng hoạt động ở
các thị trường nước ngoài. Do đó, khi đánh giá môi trường đầu tư của một nước
cụ thể, không thể so sánh với môi trường đầu tư của các nước khác, đặc biệt là
các nước trong khu vực. Bởi vì, các nhà đầu tư nước ngoài có một quyền rất
lớn: đó là quyền tự do lựa chọn thị trường đầu tư ở nước này hay nước khác,
quyền không đầu tư nếu môi trường không đáp ứng được các yêu cầu của họ,
đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư.
Nói đến môi trường đầu tư là nói đến hàng chục yếu tố hoặc trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh của dự án đầu tư,
không kể vốn đầu tư là từ trong nước hay từ ngoài nước. Đó là một môi trường
đầu tư chung, “một sân chơi bình đẳng” cho tất cả mọi người không kể quốc
tịch và trình độ phát triển.
3.2 Chính sách đầu tư nước ngoài
Chính sách đầu tư nước ngoài là một bộ phận trong các chính sách phát

triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Chính sách phát triển kinh tế - xã
hội của một quốc gia được chia thành chính sách đối nội và chính sách đối
ngoại. Theo lĩnh vực áp dụng, chính sách đối ngoại của một quốc gia được chia
thành chính sách ngoại giao (lĩnh vực chính trị) và chính sách kinh tế đối ngoại
(lĩnh vực kinh tế). Theo nội dung, chính sách kinh tế đối ngoại lại được chia
thành chính sách ngoại thương, chính sách đầu tư nước ngoài, chính sách tỷ giá
hối đoái và quản lý ngoại hối… Trong mỗi chính sách bộ phận trên lại có hàng
loạt các chính sách khác. Chẳng hạn, chính sách đầu tư bao gồm chính sách thu
hút đầu tư nước ngoài và chính sách đầu tư ra nước ngoài.
Chính sách đầu tư nước ngoài bao gồm một hệ thống các chính sách,
công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt
động đầu tư quốc tế của một quốc gia (bao gồm đầu tư ra nước ngoài và thu hút
đầu tư nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã
định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
Chính sách đầu tư nước ngoài nhằm điều chỉnh và giải quyết các vấn đề
của đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Nhiệm vụ của nó là phải giúp cho nhà
nước đưa ra những quyết sách thích hợp để ứng xử với tình hình đầu tư nước
ngoài, phải trả lời được là nên khuyến khích đầu tư ra nước ngoài hay thu hút
đầu tư vào trong nước? Tỷ lệ giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếpở khoảng
nào là tối ưu? Sử dụng các công cụ nào để khuyến khích đầu tư nước ngoài?
Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào khu vực nào và ngành kinh tế nào?
Theo tính chất, chính sách đầu tư nước ngoài có thể được phân thành
chính sách đầu tư tự do và chính sách hạn chế đầu tư.
Theo nội dung, chính sách đầu tư nước ngoài có thể được chia thành:
- Chính sách tài chính và các khuyến khích tài chính;
- Chính sách ngành và lĩnh vực đầu tư (chính sách cơ cấu);
- Chính sách thị trường;
- Chính sách lao động;
- Chính sách đất đai;
- Chính sách công nghệ…

3.2.1 Chính sách tài chính và các khuyến khích tài chính
Chính sách này bao gồm các chính sách thuế và các khuyến khích khác
như tỷ lệ thuế mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp cho
ngân sách nhà nước, thời gian miễn thuế kể từ khi doanh nghiệp kinh doanh có
lợi nhuận. Sau kỳ chịu thuế này, các doanh nghiệp có thể được giảm thuế trong
một thời gian nào đó.
Luật thuế xuất nhập khẩu cũng là một công cụ để khuyến khích hay hạn
chế đầu tư nước ngoài. Nếu một hàng hoá được khuyến khích đầu tư sản xuất
bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong một nước thì có thể được
miễn giảm thuế xuất (nhập) khẩu.
Hoàn trả thuế lợi tức. Một khi lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, nhà
đầu tư nước ngoài sẽ được hoàn trả một phần hay toàn bộ thuế lợi tức đã nộp.
Thuế chuyển lợi nhuận về nước. Thông thường, vốn trả nợ cho nước
ngoài không phải chịu thuế, song khoản vay mượn này phải được kê khai trong
hồ sơ dự án đầu tư xin giấy phép đầu tư. Lợi nhuận chuyển ra nước ngoài cần
được xem xét về mức độ đánh thuế của nó.
Thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân được đánh vào những
người có thu nhập cao làm việc trong các dự án đầu tư nước ngoài.
Quy định hình thức và tỷ lệ góp vốn. Nhà đầu tư trong và nước ngoài có
thể góp vốn dưới các hình thức khác nhau như: bằng tiền mặt, máy móc,
nguyên vật liệu, quyền sở hữu công nghiệp hay giá trị quyền sở hữu đất.
Sự chuyển vốn ra nước ngoài. Thông thường sau khi chịu thuế, nhà đầu
tư nước ngoài có thể chuyển về nước những khoản lợi nhuận; giá trị chuyển
nhượng công nghệ và dịch vụ; vốn đầu tư thu hồi; gốc và lãi từ các khoản nợ
thu được.
3.2.2 Chính sách về cơ cấu đầu tư
Những ngành, lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư tự do,
những ngành đòi hỏi một số điều kiện nhất định và những ngành, lĩnh vực được
khuyến khích…
3.2.3 Chính sách đất đai

Chính sách này xác định quyền của nhà đầu tư nước ngoài trong quan hệ
sở hữu đất đai, thời hạn và giá cả thuê đất.
3.2.4 Chính sách lao động
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được phép tự do tuyển
dụng lao động hay không và phải tôn trọng các nguyên tắc nào trong mối quan
hệ chủ thợ. Thông thường, các nhà đầu tư phải ưu tiên tuyển dụng các lao động
tại nước sở tại, đặc biệt là các lao động ở địa phương đặt trụ sở. Việc tuyển
dụng lao động có thể thông qua văn phòng tuyển dụng, tư vấn đầu tư hay các tổ
chức dịch vụ. Chỉ khi nào những cơ quan trên không cung cấp được cho doanh
nghiệp những lao động phù hợp về số lượng và chất luợng thì doanh nghiệp
mới trực tiếp đứng ra tuyển dụng.
Khi có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, các bên hợp danh cần giải trình sự cần thiết phải sử dụng lao
động nước ngoài có kèm theo chứng chỉ nghề nghiệp của người lao động nước
ngoài gửi Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở
của doanh nghiệp để xem xét việc cấp giấy phép lao động theo quy định của
pháp luật về lao động.
II. Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế của các nước
Để phát triển kinh tế đòi hỏi phải có vốn. Thực tế cho thấy hầu như tất
cả các nước đều thiếu vốn đầu tư. Để khắc phục tình tràng thiếu vốn, các nước
sử dụng biện pháp thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, nhất là đầu tư trực tiếp. Do
đó đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) là một vấn đề được nhiều nước phát
triển và đang phát triển rất quan tâm.
1. Bản chất và đặc điểm của FDI
1.1 Bản chất FDI
Trong hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau.
Nhìn chung, vốn nước ngoài đầu tư vào trong nước bằng hai con đường: đường
công cộng (official) và đương tư nhân hoặc thương mại (commercial). Hình
thức chủ yếu của đường công cộng là viện trợ, bao gồm viện trợ không hoàn lại
và cho vay dài hạn với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ của

các nước tiên tiến. Viện trợ không hoàn lại không trở thành nợ nước ngoài,
nhưng quy mô nhỏ và thường chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục và
cứu trợ.
Các hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế là đầu tư trực tiếp, đầu tư
qua thị trường chứng khoán, vay của các định chế kinh tế và các ngân hàng
nước ngoài (vay thương mại) và nguồn vốn viện trợ phát chính thức (ODA).
Do vậy thương mại với lãi suất cao nên dễ trở thành gánh nặng về nợ
nước ngoài trong tương lai. Đầu tư qua thị trường chứng khoán không trở thành
nợ nhưng lại thay đổi đột ngột trong hành động (như: bán chứng khoán, rút tiền
về nước) của nhà đầu tư nước ngoài làm ảnh hưởng mạnh đến thị trường vốn,
gây biến động tỷ gia và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô. FDI cũng là hình
thức đầu tư không trở thành nợ. Đây là vốn có tính chất lâu dài ở bản xứ nên
không dễ rút đi trong thời gian ngắn. Ngoài ra, FDI không chỉ đầu tư vốn mà
còn đầu tư công nghệ và tri thức khách hàng nên dễ thúc đẩy sự phát triển các
ngành công nghiệp hiện đại và phát triển kinh tế.
1.2 Đặc điểm chủ yếu của FDI
Hiện nay FDI có những đặc điểm sau đây:
1.2.1 FDI trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư nước ngoài.
Xét về xu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất
lượng trong nền kinh tế thế giới, gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp, tham
gia vào sự phân công lao động quốc tế theo chiều sâu và tạo thành cơ sở của sự
hoạt động của các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp quốc tế
1.2.2 FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển
Có nhiều lý do giải thích mức độ đầu tư cao giữa các nước công nghiệp
phát triển với nhau, nhưng có thể thấy hai nguyên nhân chủ yếu.
Thứ nhất, môi trường đầu tư của các nước phát triển có độ tương hợp
cao. Môi trường này hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả môi trường công nghệ và
môi trường pháp lý.
Thứ hai, xu hướng khu vực hóa đã thúc đẩy các nước này thâm nhập thị
trường của nhau.

Cũng với hai lý do chính đó, ta có thể giải thích được xu hướng tăng lên
của FDI ở các nước công nghiệp mới (NICs), các nước ASEAN và Trung
Quốc, Ấn Độ. Quá trình tự do hoa kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường ở các
nước này cũng như khu vực Đông Âu và Liên Xô đã tạo nên những khoảng
trống mới cho đầu tư. Mặc khác, các nhà đầu tư lớn nhất có xu hướng cũng cố
khu vực lân cận của mình.
Như vậy, xu hướng tự do hoá và mở cửa nền kinh tế của các nước đang
phát triển trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự thay đổi dòng
chảy FDI. Năm 1990, tổng số vốn đầu tư của các nước đang phát triển nhận
được là 19%, năm 1991 là 25% và năm 1992 khoảng 30%. Trong những năm
gần đây tỷ lệ này vẫn có xu hướng tăng lên.
1.2.3 Cơ cấu và phương thức ngày càng đa dạng hơn
về cơ cấu FDI, đặc biệt FDI vào các nước công nghiệp phát triển có những
thay đổi như sau:
- Vai trò và tỷ trọng của đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa
học cao tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hằng năm là tập trung vào các ngành
then chốt như điện tử, chế tạo máy tính, chất dẻo và chế tạo máy. Trong khi đó,
nhiều ngành công nghiệp truyền thống dùng nhiều vốn và lao động, FDI giảm
tuyệt đối hoặc không đầu tư.
- Tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế tạo giảm xuống trong
khi FDI vào các ngành dịch vụ tăng lên. Điều này có liên quan đến tỷ trọng khu
vực dịch vụ trong GDP của các nước OECD tăng lên và hàm lượng dịch vụ
trong công nghiệp chế tạo cao. Một số lĩnh vực ưu tiên là các dịch vụ thương
mại, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính và giá trị. Tỷ lệ các nguồn FDI và dịch vụ
tăng rất mạnh từ thập kỷ 80: năm 1985, FDI vào dịch vụ tại Mỹ chiếm tỷ trọng
44% (so với 32% năm 1950), vào Nhật Bản là 52% (so với 20% năm 1965)…
1.2.4 Sự gắn chặt chẽ giữa FDI với ODA, thương mại, v
à
chuyển giao công nghệ
FDI và thương mại có liên quan rất chặt chẽ với nhau. Thông thường

một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài được nhằm vào mục đích tiềm
năng xuất khẩu của một nước. Mặt khác, các công ty nước ngoài được lựa chọn
và địa điểm đầu tư cũng dựa trên cở sở tăng khả năng của sản phẩm trên thị
trường quốc tế.
FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của việc chuyể giao công nghệ.
Xu hướng hiện nay là FDI và chuyển giao công nghệ ngày càng gắn bó chặt
chẽ với nhau. đấy chính là hình thức có hiệu quả nhất của sự lưu chuyển vốn và
kỹ thuật trên phạm vi quốc tế. Nhiều đã đạt được thành công trong việc hấp thụ
các yếu tố bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước là nhờ chú ý đến điều này.
Hơn nữa, chuyển giao công nghệ giúp nâng cao năng lực cộng nghệ bản địa.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy rằng, sự tách rời công nghệ với thương mại
quốc tế, trước hết là xuất khẩu đã làm cho năng lực công nghệ quốc gia không
được cải thiện, ngược lại có nguy cơ tụt hậu do thiếu sức cạnh tranh.
Sự gắn bó giữa FDI và các nguồn viện trợ và vay nợ khác cũng là một đặc
điểm nổi bật của sự lưu chuyển các nguồn và công nghệ trên phạm vi quốc tế
trong những năm gần đây. Hơn nữa, xu hướng này sẽ ngày càng trở nên mạnh
mẽ hơn. Lý do là trước đây các nguồn viện trợ và cho vay thường nhằm vào
mục đích quân sự và chính trị, do đó hiệu quả của nó đối với thúc đẩy phát
triển sự phát triển kinh tế của các nước nhận và nước cho rất thấp. Ở các nước
chậm phát triển nhất hiện nay viện trợ và cho vay chiếm 90% các nguồn vốn
từ bên ngoài bên ngoài. Viện trợ và cho vay trong nhiều trường hợp dẫn đến sự
phụ thuộc một chiều hơn là giúp cho các nước nhận có được sự phát triển tự
thân và tham gia có hiệu quả và phân công lao động quốc tế. Vì vậy, các nguồn
vốn này đã được các chính phủ, các tổ chức quốc tế đặt trong các mối quan hệ
với các nguồn vốn tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng chúng.
2. Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế đất nước
2.1 Một số quan điểm về FDI của các nhà kinh tế học
Đầu thế kỷ XX các nhà kinh tế đã bàn nhiều về xuất khẩu tư bản.
V.I.Lênin cho rằng:xuất khẩu tư bản là một đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư
bản hiện đại (tức chủ nghĩa tư bản độc quyền). Theo ông, trong giai đoạn cạnh

tranh tự do đặt diểm của chủ nghĩa tư bản là xuất khẩu hàng hóa, còn trong giai
đoạn hiện đại là xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản có ảnh hưởng đến nguồn
vốn đầu tư của các nước xuất khẩu tư bản, nhưng lại giúp các tổ chức độc
quyền thu được lợi nhuận cao ở nước ngoài. Ngoài ra, xuất khẩu tư bản còa vai
trò bảo vệ chế độ chính trị ở các nước nhập khẩu tư bản và ít nhiều có tác dụng
thúc đẩy phát triển kinh tế, kỹ thuật. Song về hậu quả nhân dân oqr các nước
nhập khẩu tư bản bị bốc lột nhiều hơn, sự lệ thuộc về kinh tế và kỹ thuật tăng
lên, dẫndeens sự phụ thuộc về chính trị là khó tránh khỏi.
Từ phân tích trên, V.L.Lê nin rút ra kết luận “ các nước xuất khẩu tư bản
hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được một số” khoản lợi” nào có, và tính
chất của những khoản lợi này làm sáng tỏ đặc trưng của thời đại tư bản tài
chính và độc quyền”.
Vào giữa thế kỹ XX, việc xuất khẩu tư bản, nhất là FDI, phát triển
nhanh chóng. Các nhà kinh tế học cho rằng, dể phát triển kinh tế các nước đang
phát triển phải có biện pháp thu hút được FDI. Điẻn hình là hai nhà kinh tế học
P.Samue lson và R. Nukse. Trong lý thyết “ cái vàng luẩn quẩn”và cút huých”
từ bên ngoài, Samuelson cho rằng, đa số các nước đang phát triển đều thiếu
vốn, mức thu nhập thấp chỉ đủ sống ở mức tố thiếu, do đó khả năng tích luỹ
vốn hạng chế
Mặt khác, theo Samuelon, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực
hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp; tài nguyên thiên nhiên khan hiếm; kỹ thuật
lạc hậu và gặp trở ngại trong việc kết hợp chúng. Do vậy, ở nhiều nước đang
phát triển ngày càng khó khăn và càng tăng” cái vòng luẩn quẩn”.
Samuelson cho rằng: để phát triển kinh tế phải có”cú huých từ bên ngoài
nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn”. Đó là phải có đầu tư của nước ngoài vào các
nước đang phát triển. Theo ông, “nếu có quá nhiều trở ngại như vậy đối với
việc đi tìm tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều hơn vào
các nhuồn bên ngoài? Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với chúng ta
rằng, một nước giàu, sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuậnước
cao của mình, cũng có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách

đầu tư những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao?”
Sơ đồ 1: vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển








Tiết kiệm và đầu
tư thấp
Tốc độ tích
luỹ vốn thấp
Thu nhập bình
quân thấp
Năng suất lao
động thấp
Theo ông R.Nurkse, mở cửa cho FDIcó ý nghĩa đối với các nước đang
phát triển có thể vươn đến những thị trường mới, cũng như khuyến khích việc
mở rộng kỹ thuật hiện đại và những phương pháp quản lý có hiệu quả. FDI
giúp các nước đang phát triển tránh được những đòi hỏi về lãi suất chặt chẽ, về
điều kiện thanh toán nợ và những điều hay tác động đến vay nợ quốc tế. Mặc
dù FDI là để phục vụ cho việc củng cố hệ thống này, các nước có thu nhập
thấpđược chuyên môn hóa sản xuất nguyên liệu và thực phẩm xuất khẩu, được
chuyên môn hoá dựa trên nguyên tắt bất di bất dịch của lợi thế trong thương
mại quốc tế, dù rằng FDI trước hết phục vụ cho lợi ích của các công nghiẹp
xuất khẩu, chứ không phải của nước nhận vốn, và thậm chí phần nào các nước
đang phát triển phải chịu sự mất cân bằng không tránh khỏi, nhưng vẫn nên mở
cửa hơn là đóng cửa. R.Nurkse cho rằng, FDI đem lại lại lợi ích chung cho cả

hai bên, dù chẳng bao giờ cân bằng tuyệt đối nhưng không thể làm khác được
vì nó là đòi hỏi tự nhiên, tất yếu của quá trình vận động thị trường. Đầu tư trực
tiếp là kết quả hoàn toàn tự nhiên bởi hoạt động tự do của các động cơ kiếm lợi
nhuận. Lẽ tất yếu là phương hướng của đầu tư tư nhân chịu tác động lớn của
hướng vận động lớn của hướng vận động thị trường.
2.2 Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế
Qua phân tích quan điểm của nhà kinh điển về vai trò của FDI và đặc
điểm của FDI, ta thấy FDI có những thế mạnh của nó. Dù vẫn chịu chi phối của
Chính phủ, nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt
khác, bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất, kinh doanh nên mức
độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt la trong việc tiếp cận thị trường quốc tế
để mở rộng xuất khẩu. Do quyền lợi gắn chặt với dự án, họ quan tâm đến hiệu
quả kinh doanh nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ
quản lý và tay nghề của công nhân. Vì vậy, FDI ngày càng có vai trò Phòng tổ
chức hành chính lớn đối với việc thúc đẩy qúa trình phát triển kinh tế ở nước
đầu tư và các nước nhận đầu tư. Cụ thể là:
- Đối với các nước đầu tư, đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu
quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản
phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị
trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Mặc dù, đầu tư ra
nước ngoài giúp bành trươngsuwcs mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị.
Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài
mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo
hộ mậu dịch của các nước.
- Đối với các nước nhận đầu tư. Hiện nay có hai dòng chảy của
vốn đầu tư nước ngoài. Đó là dòng chảy vào các nước phát triển và dòng chảy
vào các nước đang phát triển.
+ Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng lớn trong
việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm
phát… Qua FDI, các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những công ty, doanh

nghiệp có nguy cơ bị phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn
việc làm cho người lao động.
FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để
cải thiện tình hình bội chi ngân sách, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự
phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học
hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
+ Đối với các nước đang phát triển, FDI giúp đẩy mạnh tốc độ
phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm
lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở nước này. Theo thống kê của
Liên hợp quốc, số người thất nghiệp và bán thât nghiệp của các nước đang phát
triển chiếm khoản 35-38% tổng số lao động
FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo
dài. FDI là phương thức đầu tư phù hớp với các nước đang phát triển, tình tràng
tích lũy quá căng thẳng dẫn đến những méo mó về kinh tế không đáng xảy ra.
Theo sau FDI là máy móc thiết bị và công nghệ mới, giúp các nước
đang phát triển tiếp cận với khoa học-kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ
vào sản xuất giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các
nước đang phát triển trên thị trường quốc tế.
Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du
nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt kịp
phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với
phong cách làm việc công nghiêpk cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà
doanh nghiệp giỏi.
FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hóa nước
ngoài và đi kèm với nó là những hoạt động marketing được mở rộng không
ngừng.
FDI giúp tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế các
công ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng hơn
trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh

những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định. Đó là:
 Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị thì nhà
đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn.
 Nếu nước sở tại không có một qui hoạch đầu tư cụ thể và khoa
học dẫn tới sự đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác
quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Cũng như các nước đang phát triển, để phá “cái vòng luẩn quẩn” và phát
triển kinh tế, đòi hỏi Việt Nam phải có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, nhất là FDI. Ngày 18-04-1977, nước ta thông qua “điều lệ đầu tư nước
ngoài”. Ngày 29-12-1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội
thông qua và đến nay được bổ sung ba lần vào ngày 30-06-1990, ngày 23-12-
1992 và ngày 12-11-1996. Qua các lần sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam ngày càng hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và phù
hợp với thực tiễn phát triển kinh tế Việt Nam và xu hương thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài của các khu vực.
Sở dĩ Đảng và Nhà nước ta quan tâm tới FDI như vậy, vị đối với nước
ta, hình thức này có vai trò rất là quan trọng. Điều này thể hiện ở chỗ:
Giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế của đất nước. Để đạt
được những chỉ tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong những năm
tới, thì tốc độ phát triển bình quân hằng năm phải đạt ít nhất 7% và nhu cầu về
vốnước đầu tư có từ 4,2 tỷ USD trở lên cho mỗi năm. Đây là con số không nhỏ
đối với nền kinh tế của nước ta, cho nên FDI là nguồn bổ sung quan trọng để
phát triển kinh tế ở Việt Nam.
FDI đem lại khả năng mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng những doanh
nghiệp và cơ sở sản xuất dịch vụ mới làm cho tổng sản phẩm xã hội của Việt
Nam tăng lên và cho phép giải quyết được tình trạng thất nghiệp của người lao
động. Tính đến hết năm 1997, đã có 2.317 dự án đầu tư nước ngoài được cấp
giấy phép. Hiện nay, cả nước có 1.928 dự án đang hoạt động với tổng vốn đăng
ký đầu tư là 32,1 tỷ USD, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, tăng thu
ngân sách nhà nước.

- Thông đầu tư nước ngoài, nhất là FDI, chúng ta tiếp nhận thành
tựu phát triển khoa học-kỹ thuật tiên tiến của thế giới, nhờ đó rút ngắn khoảng
cách của ta so với thế giới.
- Nhờ có FDI chúng ta sử dụng có hiệu quả những lợi thế của đất
nước mà nhiều năm qua không thể thực hiện do thiếu vốn như khai thác dầu
mỏ, khoáng sản v.v…
Ngoài ra, trong quá trình tiếp nhận FDI chúng ta học được kinh ngiệm
quản lý kinh doanh và cách làm thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường
của các nước tiên tiến.
Tóm lại, FDI có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để đưa nước ta nhanh chóng
hội nhập với sự phát triển của thế giới và khu vực.
III. Tầm quan trọng của các doanh nghiệp có vốn FDI
1. Doanh nghiệp có vốn FDI
1.1 Nguồn gốc của doanh nghiệp có vốn FDI
Một trong những hình thức biểu hiện của đầu tư trực tiếp nước ngoài là
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với Việt Nam đây là
một loại hình doanh nghiệp mới, được hình thành kể từ khi luật đầu tư nước
ngoài được ban hành đầu tiên vào năm 1988. Mặc dù doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm một tỷ trọg không lớn ở nhiều quốc gia kể
cả các nước NICs ở Châu Á, tuy nhiên ở một số nước ASEAN con số này là
khá cao và thực tế đã cho thấy vai trò quan trọng của loại hình doanh nghiệp
này đối với đời sống kinh tế của Việt Nam. Trong bối cảnh xu thế toàn cầu hoa,
quốc tế hoá nền kinh tế không thê đảo ngược thì các doanh nghiệp FDI thực sự
trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ của toàn nền kinh tế, là nhân tố cần
thiết, quan trọng tạo dựng những nền tảng cơ bản giúp Việt Nam nói và Đà
Nẵng nói riêng từng bước hoà nhập vào thị trường thế giới.
Bắt đầu từ những năm 90, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hoá nền kinh
tế thế giới được mở rộng, cùng với tự do hoá thương mại, tự do hoá đầu tư xuất
hiện đã tạo cơ hội phát triển mạnh mẽ cho các doanh nghiệp FDI phát triển với
quy mô ngày càng tăng. Đồng thời do nghịch lý của tự do hoá đầu tư, các

doanh nghiệp FDI được coi là phương tiện hữu hiệu để vượt qua hàng rào thuế
quan và phi thuế quan. Sự khác nhau về văn hóa, luật pháp và các chính sách
của Chính phủ các nước cũng như trình độ phát triển, các doanh nghiệp FDI
thực hiện mở rộng quy mô, thực hiện chuyển giao công nghệ và do đó kéo dài

×